Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 4)

28/06/2021 08:46

Theo dõi trên

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc tác phẩm “Lịch sử Việt Nam từ tiền sử đến năm 2007” của PGS TS Cao Văn Liên  do NXB Thanh niên ấn hành năm 2009.

cvl2-1624844687.jpg

Kỳ 4.

Nguyên nhân thứ tư là do nhân dân Âu Lạc bất khuất, kiên quyết và liên tục chống lại phong kiến Trung Quốc  một cách quyết liệt để giành độc lập dân tộc, bảo vệ nền văn hoá của mình. Mặt khác họ vẫn tiếp thu những tinh hoa của nền văn hoá Trung Quốc, hoà hợp với nền văn hoá Âu Lạc, tạo nên sự phong phú mới và tiềm năng mới cho văn hoá dân tộc. Tiếp thu có chọn lọc nền văn hoá bên ngoài như là một qui luật trong sự phát triển văn hoá.

Tóm lại, diễn trình văn hoá Âu Lạc trong 1000 năm Bắc thuộc có hai khuynh hướng đối lập nhau: Khuynh hướng Việt hoá đối lập với khuynh hướng Hán hoá, chủ nghĩa bành trướng, nô dịch đối lập với ý chí tự chủ độc lập của dân tộc ta, bộ máy bạo lực của chính quyền đô hộ đối lập với cộng đồng làng xóm của nhân dân ta. Những đối lập như vậy để chống lại Hán hoá. Đối lập với đế chế lớn mạnh,  ta có tinh  thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết xóm làng, dựa vào sức mạnh của làng để bảo tồn văn hoá, để giải phóng đất nước.

III: Quá trình phong kiến hoá ở Âu Lạc

Từ xã hội chiếm hữu nô lệ , xã hội Văn Lang- Âu Lạc bước sang xã hội phong kiến là một tất yếu, một qui luật của lịch sử tiến hoá, dù có hay không có 1000 năm Bắc thuộc. Trên thực tế cuộc xâm lược và những chính sách thống trị, bóc lột, đồng hoá của phong kiến Trung Quốc đã làm chậm lại quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, chậm lại quá trình chuyển từ hình thái kinh tế xã hội nô lệ sang hình thái kinh tế xã hội phong kiến của Âu Lạc.  Phải mất 1000 năm để chuyển biến từ xã hội này sang xã hội khác là một thời gian quá dài trong lịch sử.

     Tuy nhiên,  khi xâm lược và thống trị Âu Lạc, Trung Quốc đã bước sang xã hội phong kiến nên họ đã du nhập những yếu tố phong kiến vào Âu Lạc. Chúng đã thực hiện kiểu bóc lột địa tô, tô lao dịch, cống nạp, thuế má là kiểu bóc lột của chế độ phong kiến. Do nhu cầu sinh hoạt và cai trị ở Giao Châu, chính quyền đô hộ du nhập những kĩ thuật sản xuất đồ sắt, đồ gốm, đồ sứ, nghề làm giấy vào Âu Lạc. Chính quyền đô hộ còn mở rộng giao thông đường thuỷ,  đường bộ phục vụ cho việc hành quân đàn áp, vận chuyển của cải bóc lột. Nhân dân Âu Lạc đã tiếp thu những kỹ thuât sản xuât mới, đẩy mạnh phát huy những kỹ thuật vốn có của mình để mở rộng sản xuất, đẩy nhanh quá trình phong kiến hoá về kinh tế. Kinh tế phong kiến Việt Nam, quan hệ sản xuât phong kiến Việt Nam ra đời trong lòng xã hội phong kiến Bắc thuộc.

     Sự chuyển biến kinh tế thúc đẩy sự phân hoá xã hội. Bên cạnh tầng lớp phong kiến người Hán thống trị thì giai cấp phong kiến Việt Nam đã hình thành và phát  triển. Giai cấp này chủ yếu là các hào trưởng người Việt phong kiến hoá, ngoài ra còn một bộ phận nho sĩ trí thức Việt Nam, một bộ phận địa chủ người Hoa đã Việt hoá. Ra đời trong hoàn cảnh mất nước, giai cấp phong kiến Việt Nam bị phân hoá, một bộ phận làm tay sai cho chính quyền đô hộ, còn đại bộ phận mâu thuẫn với chế độ phong kiến thuộc địa, có ý thức dân tộc, kiên quyết đấu tranh cho nền độc lập dân tộc. Nhìn chung, giai cấp phong kiến Việt Nam là giai cấp tiến tiến nhất thời kỳ đó, họ là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện cho quyền lợi dân tộc. Vì thế họ đóng vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

     Giai cấp nông dân có từ thời Văn Lang-Âu lạc, trong thời kỳ Bắc thuộc họ chiếm đa số dân cư trong các làng xã, là đối tượng bóc lột chính của chính quyền đô hộ. Ngoài nông dân, xã hội còn có tầng lớp thợ thủ công, thương nhân. Nô tì là tầng lớp thấp nhất trong xã hội.

     Như vậy tính chất của xã hội Việt Nam thời Bắc thuộc là xã hội phong kiến nhưng bị phong kiến ngoại bang thống trị nên xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản:

     Mâu thuẫn giữa nông dân với phong kiến.

     Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với phong kiến Trung quốc xâm lược.

     Trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với phong kiến Trung Quốc xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì thế nhiệm vụ lịch sử cấp thiết nhất là phải đấu tranh giải phóng dân tộc.

IV:Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc từ thế kỷ I đến thế kỷ X.

Giai cấp nông dân và giai cấp phong kiến Việt Nam đều bị chính quyền đô hộ phong kiến Trung Quốc áp bức,  bóc lột, kìm hãm. Vì thế giai cấp phong kiến Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân liên tục đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc.

     Khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40: Hai Bà Trưng:chị là Trưng Trắc, em là Trưng Nhị, là dòng dõi bên ngoại Hùng Vương, quê ở thôn Hạ lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, ngoại thành Hà Nội). Hai Bà sớm có tinh thần yêu nước, căm thù quân xâm lược. Chồng Bà Trưng Trắc là Thi Sách ở huyện Chu Diên  bị thái thú Tô Định giết hại. Thù nhà nợ nước thôi thúc, năm 40 trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ kêu gọi toàn dân khởi nghĩa. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà, toàn thể nhân dân 3 quận Giao chỉ, Cửu chân, Nhật Nam nhất tề đồng loạt nổi dậy, chính quyền đô hộ nhà Hán nhanh chóng sụp đổ. Hai Bà Trưng đem quân từ Mê Linh tràn xuống  chiếm Luy Lâu (Bắc Ninh), trụ sở của chính quyền đô hộ. Thái thú Tô Định hoảng sợ bỏ chạy về nước. Hai Bà Trưng lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh, ra sức xây dựng chính quyền độc lập, ổn định trật tự xã hội, miễn thuế cho dân.

     Năm 43, vua Hán Quang Vũ sai Phục ba tướng quân Mã Viện làm chủ soái, Lưu Long làm phó soái đem 20 vạn quân tiến vào nước ta. Hai Bà Trưng đem toàn bộ quân chủ lực huyết chiến với giặc ở Lãng Bạc (nay thuộc vùng Đông triều- Quảng Ninh), quân ta tổn thất 1 vạn người. Hai Bà Trưng lui quân về Cấm Khê (Nay thuộc Thạch thất –Sơn Tây). Mã Viện truy kích, quân ta hi sinh 2 vạn nữa. Hai Bà nhảy xuống sông Hát (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng – nay thuộc huyện Phúc Thọ - Hà Nội) tự vẫn ngày 6 tháng 3 năm 43 (Quí Mão). Sau 3 năm độc lập,  nước ta lại rơi vào ách đô hộ của nhà Đông Hán.

     Khởi nghĩa Hai BàTrưng nói lên tinh thần yêu nước, sức mạnh của dân tộc ta, chứng minh sự thất bại của chính sách đồng hoá của phong kiến Trung Quốc. Khởi nghĩa góp phần thức tỉnh dân tộc, tô thêm truyền thống anh hùng bất khuất, mở ra một phương hướng mới cho công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Cuộc quật khởi đầu tiên của dân tộc do hai Nữ Vương lãnh đạo, các tướng lĩnh trong hàng ngũ nghĩa quân phần lớn là phụ nữ. Điều này nói lên vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đó không chỉ trong sản xuất,  mà còn cả trong chính trị, xã hội.

     Nguyên nhân thất bại của Hai Bà Trưng là ở sai lầm về quân sự, không rút lui chiến lược và phản công chiến lược. Thất bại của Hai Bà Trưng cũng nói lên vào thế  kỷ I những tiền đề cho công cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc ta chưa thật chín muồi.

     Khởi nghĩa Bà Triệu năm 248: Bà Triệu là Triệu Thị Trinh sinh ngày 2 tháng 10 năm 225 ở núi Quan Yên (huyện Yên Định – Thanh Hóa), lập căn cứ ở Núi Nưa, huyện Triệu Sơn, Thanh Hoá), em gái hào trưởng Triệu Quốc Đạt. Năm 248, Bà Triệu kêu gọi nhân khởi nghĩa tấn công vào chính quyền của nhà Đông Ngô. Thứ sử Châu Giao bị giết, cả Châu Giao chấn động. Nhà Đông Ngô cử tướng Lục Dận đem 8.000 quân sang đàn áp. Bà Triệu cầm quân huyết chiến với giặc ở Hậu Lộc. Sau 6 tháng anh dũng chiến đấu, quân ta thất bại. Bà Triệu anh dũng hi sinh ở núi Tùng (nay thuộc Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hoá). Năm đó, bà mới 23 tuổi. Khởi nghĩa Bà Triệu là đỉnh cao nhất của phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ thứ III.

     Khởi nghĩa Lý Bí năm 542: Gần 300 năm sau khởi nghĩa Bà Triệu, Lý Bí một hào trưởng ở Long Hưng (Thái Bình) phất cao cờ nghĩa, lãnh đạo nhân dân ta vùng dậy năm 542. Với khí thế tiến công mãnh liệt, chỉ 3 tháng nhân dân ta đánh sập chính quyền đô hộ nhà Lương. Thứ sử Tiêu Tư bỏ chạy về nước. Nhà Lương tổ chức hai cuộc phản kích lớn vào các năm 542, năm 543 nhưng đều bị quân ta đánh bại, tiêu diệt nhiều sinh lực địch ở Hợp Phố. Tháng 1 năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, lấy niên hiệu Đại Đức, định kinh đô ở Long Biên (gần Hà Nội). Lý Nam Đế xây dựng nhà nước với một triều đình có hai ban văn võ. Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ, Triệu Túc (bố của Triệu Quang Phục) làm Thái phó. Tháng 5 năm 543 Lý Nam Đế thân cầm quân đánh bại Chiêm Thành, ổn định biên giới phía Nam.

     Năm 545, nhà Lương cử tướng Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân tấn công nước Vạn Xuân. Lý Nam Đế đem quân chống giặc nhưng thất bại và từ trần tháng 4 năm 548. Tướng của Lý Bí là Triệu Quang Phục đem quân về Đầm Dạ Trạch (nay thuộc Khoái Châu-Hưng Yên) tiến hành chiến tranh du kích kháng chiến. Năm 550 triều đình nhà Lương biến loạn, Trần Bá Tiên đem quân về nước cướp ngôi nhà Lương, Triệu Quang Phục phản công thắng lợi, giết chết tướng giặc Dương Sàn, giành lại độc lập, lập lại nước Vạn Xuân. Triệu Quang Phục lên ngôi vua xưng là Triệu Việt Vương.

     Năm 557, cháu Lý Nam Đế là Lý Phật Tử sau một thời gian trốn chạy quân Lương,  kéo phe cánh về đòi Triệu Việt Vương chia quyền lực. Triệu Việt Vương chia cho Lý Phật Tử một phần lãnh thổ, lấy địa giới ở xã Quần thần (Thượng Cát-Hạ Cát-Từ Liêm-Hà Nội) làm ranh giới, gả con gái cho Lý Phật Tử. Năm 571, Lý Phật Tử bất ngờ đánh úp triệu Việt Vương, chiếm toàn bộ lãnh thổ, xưng là Hậu Lý Nam Đế. Năm 602, nhà Tuỳ sai tướng Lưu Phương đem quân sang xâm lược, đánh bại Lý Phật Tử. Nhà Tuỳ cai trị nước ta. Nước Vạn Xuân tồn tại gần 60 năm với 3 đời vua: Lý Nam Đế (544-548), Triệu Việt Vương (549-571), Hậu Lý Nam Đế (571-603).

     Nhà nước Vạn Xuân ra đời tồn tại được gần 60 năm đánh dấu bước trưởng thành về mặt chính trị của giai cấp phong kiến Việt Nam, của tinh thần dân tộc, tinh thần quốc gia. Là sự khẳng định nền độc lập dân tộc, sự phủ định dứt khoát quyền bá chủ đô hộ của phong kiến Trung Quốc. Với nhà nước Vạn Xuân, sự hình thành quốc gia,  nhà nước đã rõ nét, là kết quả của 500 năm lịch sử đấu tranh và phát triển triển toàn diện của Việt Nam, là bước chuẩn bị cho sự ra đời của quốc gia phong kiến độc lập sau này. Nước Vạn Xuân chỉ tồn tại gần 60 năm nhưng đã in dấu ấn không phai mờ trong tâm trí của nhân dân, là nguồn cổ vũ to lớn để nhân dân ta tiếp tục cuộc đấu tranh cho nền độc lập dân tộc.

     Sau khi nước Vạn Xuân bị xâm lược, nhà Tuỳ và sau đó là nhà Đường cai trị nước ta. Năm 687, Lý Tự Tiên và Đinh Kiên lãnh đạo nhân dân vùng dậy, giết chết quan cai trị nhà Đường là Lưu Diên Hựu, phá thành Tống Bình (nay là Hà Nội). Khởi nghĩa bị tướng của Võ Tắc Thiên Hoàng Đế là Tào Huyền Tĩnh và Phùng Nguyên Thường đàn áp.

     Năm 722, Mai Thúc Loan phất cờ khởi nghĩa ở các Châu Hoan, (nay là Nghệ An). Mai Thúc Loan xưng là Mai Hắc Đế, xây thành Vạn An ở núi Hùng Sơn làm kinh đô. Nghĩa quân nhiều lần tấn công thành Tống Bình (Hà Nội). Viên quan đô hộ nhà Đường Quách Sở Khách hoảng sợ bỏ chạy về nước. Vua Đường Minh Hoàng phải cử Dương Tư Húc và Quách Sở Khách đem 10 vạn quân sang đàn áp. Khởi nghĩa thất bại.

     Sau Mai Thúc Loan, từ năm 766,  Phùng Hưng, một hào trưởng ở Ba Vì -Sơn Tây khởi nghĩa. Quân khởi nghĩa đã tấn công chiếm thành Tống Bình, xây dựng nền tự chủ. Năm 773, Phùng Hưng mất, Phùng Hải lên thay. Năm 791, tướng nhà Đường là Triệu Xương dụ Phùng Hải đầu hàng, nền tự chủ duy trì được 25 năm thì chấm dứt.

     Năm 803, Vương Quí Nguyên, một viên tướng người Việt trong quân đội nhà Đường khởi nghĩa, đuổi viên quan đô hộ Bùi Thái chạy về nước. Năm 806, Dương Thanh cùng 3000 quân làm binh biến, hạ thành Tống Bình, giết chết Tiết độ sứ Lý Tượng Cổ khét tiếng tàn ác. Khởi nghĩa bị  tướng nhà Đường Quế Trọng Vũ đàn áp .

     Đầu thế kỷ thứ X, nhà Đường trên con đường sụp đổ, cơ hội cho nhân dân ta giành độc lập dân tộc đang chín muồi. Năm 906, Khúc Thừa Dụ, một hào trưởng ở đất Hồng Châu (nay thuộc Hải Dương) nổi dậychiếm thành Tống Bình giành quyền tự chủ. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua Đường phải công nhận Khúc Thừa Dụ là Tiết độ sứ. Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo thay cha tiếp tục xây dựng nền tự chủ. Khúc Hạo  tiến hành cải cách hành chính, chia nước thành 5 cấp lộ, phủ, châu, hương, giáp, xã. Khúc Hạo là người đầu tiên  xây dựng chính quyền thống nhất. Dù chỉ xưng là Tiết độ sứ của nhà Đường và sau này của nhà Hậu Lương (Chu Ôn) nhưng nhân dân ta đã nắm đựợc toàn quyền tự chủ, ách đô hộ 1000 năm của phong kiến Trung Quốc trên thực tế đã chấm dứt.

     Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ thay cha nắm quyền. Năm 923, nước Nam Hán, một nước cát cứ trong cục diện 5 đời10 nước sau khi nhà Đường diệt vong, lãnh thổ Quảng Đông, kinh đô Phiên Ngung (nay là Quảng Châu), sai tướng Lý Khắc Chính xâm lược nước ta. Khúc Thừa Mỹ thất bại và bị bắt. Năm 931, Dương Đình Nghệ (quê ở Ái Châu - nay là Thanh Hoá), một tuỳ tướng của họ Khúc đánh bại quân Nam Hán, giành lại quyền tự chủ. Năm 937, Dương Đình Nghệ bị một tuỳ tướng là Kiều Công Tiễn (quê ở Phong Châu-nay thuộc Phú Thọ) giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Để bảo vệ địa vị của mình, Kiều Công Tiễn cầu cứu quân Nam Hán. Sẵn có dã tâm xâm lược, vua Nam Hán Lưu Cung huy động hai đạo quân thuỷ bộ tiến vào nước ta cuối năm 938. Đạo chủ lực thuỷ quân do con vua là Lưu Hoằng Thao tiến vào sông Bặch Đằng. Vua Nam Hán Lưu Cung tự chỉ huy đạo bộ binh đóng ở Hải Môn-Bác Bạch (Quảng Đông) tiếp ứng. Nền độc lập non trẻ của nước nhà bị đe doạ bởi thù trong giặc ngoài.

     Trước tình hình nguy cấp đó, tháng 11 năm 938, Ngô Quyền (Quê ở Đường Lâm-Ba Vì -Hà Nội-sinh năm 897 ) khi đó là quan trấn thủ Ái Châu (con rể Dương Đình Nghệ) được toàn thể nhân dân và các hào trưởng ủng hộ, gấp rút tiến ra thành Đại La , giết chết Kiều Công Tiễn, trừ nội phản rồi chuẩn bị kháng chiến chống ngoại xâm. Ngô Quyền cho quân lấy cọc gỗ đầu nhọn bịt sắt đóng xuống cửa sông Bạch Đằng theo chiều nghiêng về phía trong. Khi thuỷ triều dâng ngập bãi cọc, quân ta ra khiêu chiến dụ toàn bộ binh thuyền giặc vượt qua bãi cọc tiến vào trong sông. Khi nứơc triều rút, quân ta nhất tề xông ra quyết chiến. Thuỷ binh giặc đại bại tháo chạy ra biển, xô vào cọc nhọn bị vỡ và đắm. Toàn bộ đạo thuỷ binh của Nam Hán bị tiêu diệt. Tướng giặc Lưu Hoằng Thao bị giết chết. Nghe tin thuỷ binh đại bại, đạo bộ binh của Lưu Cung khiếp sợ rút lui.

     Trận thuỷ chiến Bạch Đằng là trận quyết chiến lược, trận tiêu diệt lớn nhất của dân tộc ta từ trước cho đến lúc đó, đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Nam Hán. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 kết thúc 1000 năm Bắc thuộc, mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta, thời đại độc lập lâu dài, xây dựng quốc gia phong kiến hùng mạnh ở Đông Nam châu Á, tạo nên bước ngoặt sâu sắc trong lịch sử tiến hoá dân tộc. Có chiến thắng lịch sử này là do ý chí kiên quyết bảo vệ nền độc lập non trẻ của dân tộc ta,  có tinh thần đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh vô địch. Ngô Quyền – Nhà quân sự kiệt xuất, Anh hùng dân tộc đã biết phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, sức mạnh của thiên thời,  địa lợi , nhân hoà,  biến thành sức mạnh trên chiến trường tiêu diệt địch. Ông đã kế thừa và phát huy truyền thống quân sự dân tộc lên một bước mới để hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc.

(Còn nữa)

CVL

 

Bạn đang đọc bài viết "Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 4)" tại chuyên mục Nghiên cứu. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn