Không biết vì duyên nợ hay vì trời sui, đất khiến, sau này tôi lại phải lòng cô bạn rất thân của Thu Hiền, cô bạn ấy chính là vợ của tôi ngày nay. Bấy giờ vợ tôi còn rất trẻ, mới bước sang cái tuổi trăng tròn, mặt mày non nớt thật như câu ví: "Má búng ra sữa". Phải công nhận rằng vợ tôi hồi trẻ cũng vào tốp loại hoa khôi của phường Cửa Ông, Quảng Ninh ngày ấy. Cuộc tình của hai đứa đầy những kỷ niệm ngọt ngào không thể nào quên...! Nhưng cũng phải trải qua quá nhiều thử thách gian nạn...
Tôi hơn Nàng tám tuổi, có năm năm bộ đội thời chiến tranh chống Mỹ. Tôi từng tháng trời ba lô súng đạn nặng trĩu trên vai xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước năm 1971. Tôi từng tháng trời hành quân vất vả, vượt sông Bến Hải vào giải phóng Quảng Trị 01/5/1972. Và tôi từng là chỉ huy khẩu đội, tham gia hàng trăm trận chiến đấu trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị mùa hè 1972.
Đời quân ngũ dạn dầy mưa, nắng đã tôi luyện cho tôi như trở thành con người gang thép, nên tôi có phần rắn rỏi hơn Nàng về thể xác và cả về tâm hồn. Chúng tôi yêu nhau được gần ba năm thì cưới. Ba năm yêu nhau cũng phải nói rằng, ba năm trải qua biết bao nhiều sóng gió, có lúc tưởng rằng rồi sẽ tan vỡ thành mây, thành khói. Chuyện là, cũng tại vì ngày ấy, trời cho tôi có nước da trắng mịn, đôi môi ướt đỏ tự nhiên giống như con gái. Đã thế tính tôi lại thích đẹp, cho nên quần áo tôi lúc nào cũng lượt là phẳng phiu sạch sẽ, trông tôi y như một công tử bột, bởi vậy bố vợ tôi không ưa cái tướng mạo "ăn hại" này. Ông nghĩ rằng rồi đây tôi sẽ chẳng làm lên cái trò trống gì, nên ông cản trở rất khoát không cho con gái yêu tôi.
Ông nóng tính vô cùng, ông thường mắng chửi, thậm chí cả đánh đập con gái. Trong khi đó, thú thật là ở ngoài kia, không biết tôi có duyên gì không? Nhưng hồi ấy tôi có rất nhiều bạn gái xinh đẹp. Các nàng ấy cũng đang chờ, đang đợi tôi ngỏ lời yêu đấy! Thế nhưng tôi đều không hề mơ màng nghĩ tới, vì trong trái tim tôi chỉ có một mình Nàng mà thôi. Và cũng không có sức mạnh nào cản nổi bằng tình yêu chân tình của hai đứa. Chúng tôi vẫn vượt qua mọi kẽ hở ngăn cản rất khắt khe và chặt chẽ của ông. Chúng tôi vẫn lén lút vượt rào, chui dậu thường xuyên gặp nhau mà ông không hề hay biết.
Vẫn có những đêm khuya hẹn hò trên thảm cỏ xanh rờn nơi cảng cá lộng ngàn gió biển... Vẫn có những đêm sương dưới gốc cây đa sau Đền Đức Thánh Trần Quốc Nhượng, tay đan tay đếm những chòm sao lấp lánh trên bầu trời cao vời vợi... Vẫn có những ngày chủ nhật dắt tay nhau đi dưới rừng thông nghe chim hót líu lo... Và những trưa hè oi ả nóng như đổ lửa trên sườn đồi sim xanh mướt phía sau nhà... Hai đứa hái hàng nón sim chín mộng. Môi tím, má tím, áo vương màu tím, nụ cười hoa tim tím... Thật đáng yêu! Càng gần đến ngày cưới tình hình ngày càng trở nên căng thẳng, vì ông vẫn nhất quyết không cho Nàng yêu tôi.
Một tối tôi hỏi Nàng: "Bây giờ Ba nhất định không cho em lấy anh, thì em nghĩ sao". Nhìn Nàng buồn rười rượi, thấy đến là tội thương! Bỗng nàng òa lên khóc, hai hàng lệ chẩy dài trên hai gò má chum chím, Nàng nhìn thẳng vào mắt tôi với câu nói "nổi tiếng" như khẳng định: "Không cần cưới nữa, em sẽ theo anh". Ôi! Nàng làm tôi xúc động vô cùng! Tim tôi như muốn bật ra khỏi lồng ngực. Không thể nào cưỡng nổi được nữa, tôi vội vàng giang rộng vòng tay ôm chặt lấy Nàng, với nụ hôn cháy bỏng: "Anh thương em nhiều lắm!!!". Sau đó tôi nhẹ nhàng nhỏ nhẹ rành mạch từng lời âu yếm: "Ngày mai chúng mình sẽ sang Cẩm Phả mời hai chị gái về họp Gia đình".
Quả thật, mưu kế chơi trò hội đồng của tôi đã thành công, đúng như ý nguyện. Các chị đều đồng tình ủng hộ chúng tôi. Sau chót tôi giả vờ vô tình vào chơi. Nhân thể có đầy đủ thành viên trong gia đình, tôi rành rọt phát biểu như thể khảng định với ông và với mọi người: "Thưa bác! Con cũng biết rằng bác kén chồng cho em là rất chính đáng, bởi bác sợ em sau này lấy con sẽ khổ, nhưng con xin hứa không bao giờ con để cho em phải khổ vì chồng đâu ạ!".
Ngày 20/8 âm lịch năm 1978 chúng tôi làm lễ cưới. Tối hôm ấy vợ chồng tôi để nguyên bộ đồ cưới lên gường ngủ. Chiếc gường mô đéc đắt tiền mới tinh vẫn còn thơm mùi gỗ lim quý hiếm. Lần đầu tiên trong đời hai đứa chúng tôi chung gường, chung gối thật là hạnh phúc! Trong căn nhà tranh vách đất 32 m² vẫn còn vương mùi cỏ dại. Ngôi nhà bé nhỏ của hơn một năm trời tranh thủ những ngày nghỉ tôi cặm cụi lên rừng kiếm gỗ, chặt tre. Trưa nắng hè oi ả tôi vẫn chui vào các bụm sim, bụi Mua cắt cỏ tranh. Tôi tự làm tuốt từ A tới Z túp lều lý tưởng của vợ chồng son. Trong đó tôi vẫn luôn biết ơn anh Vũ Quốc Dân, thằng em Vũ Xuân Thuần họ bên quê ngoại mẹ tôi, đã nhiệt tình hết lòng giúp đỡ tôi, qua những ngày chủ nhật lên rừng đẵn gỗ, chặt tre.
Lấy nhau được ba tháng thì vợ tôi có bầu. Vợ chồng tôi tranh thủ nghỉ phép và dẫn nhau về quê thăm chơi bà con cô bác. Về quê chúng tôi đón Mẹ ra Quảng Ninh ở cùng. Lúc này tôi rất thương vợ, không cho làm bất cứ một công việc gì ngoài tám tiếng ở cơ quan và về nhà đi chợ mua đồ ăn. Nửa đêm chờ vợ ngủ say tôi rón rén dậy gánh hàng chục gánh nước giếng nơi công cộng, leo hàng trăm bậc dốc lên núi (Nhà trên sườn núi) về tới nhà đổ vào thùng phi, ang nước, giặt rũ quần áo, rứa chén bát. Ban ngày hết giờ cơ quan tôi lại vội vàng về nhà cuốc đất tăng gia trồng rau xanh. Nuôi mấy con gà mái đẻ lấy trứng cho vợ ăn tẩm bổ cái thai. Tuần nào tôi cũng thịt con gà dò hầm cách thuỷ thuốc bắc hạt sen và ngải cứu dụ dỗ vợ cố ăn cho con được khỏe mạnh.
Ngày 10/9/1979 vợ chồng tôi sinh đứa con gái đầu lòng nặng tới 3,8 ký. Từ ngày có đứa con gái ngộ nghĩnh ra đời, cửa nhà tôi vui hẳn lên. Ngày 28/8/1984 vợ chồng tôi lại sinh thêm đứa con trai thứ hai nặng 4,4 ký. Lúc này vợ tôi nghỉ sinh, nghỉ phép, nghỉ đặt vòng, nghỉ ốm đau... Tìm mọi cách để nghỉ, chờ ngày gia đình tôi thuyên chuyển công tác vô Nam.
Vô Pleiku làm được 04 năm thì thời cuộc có nhiều thay đổi. Bao cấp xoá bỏ, cơ quan giải thể, vợ tôi lĩnh được cục tiền, trị giá mua được hai chỉ vàng làm kỷ niệm của 11 năm công tác liên tục và tôi vì thương vợ nên cũng xin về nghỉ hưu non để chung vai gánh vác giang sơn cùng người vợ trẻ. Hai vợ chồng tôi sống bằng nghề kinh doanh trong TTTM của TP Pleiku. Năm 1995 vợ chồng tôi mua thêm được một căn nhà, 164 m² đất mặt tiền đường phố ngay trung tâm quận Sơn Trà TP. Đà Nẵng. Năm 2010, gia đình tôi giã biệt phố Núi sương mù Pleiku, chuyển về định cư ở TP Biển Đà Nẵng quanh năm sóng vỗ dạt dào.
Tôi luôn thầm biết ơn người vợ xinh đẹp thuỷ chung, đảm đang, hiền lành, tốt tính! Vợ đã cùng tôi chèo lái con thuyền, vượt qua bao ghềnh thắc để được tới bến bờ vinh quang hạnh phúc như ngày hôm nay. Tôi thầm cám ơn vợ đã sinh ra cho tôi hai đứa con ngoan hiền, hiếu thảo. Con gái và con trai của vợ chồng tôi đều được ăn học tới nơi, tới chốn. Các con đều đã có một gia đình hạnh phúc. Vợ chồng tôi đã có một cháu Nội và một cháu Ngoại. Cuộc sống của gia đình tôi tuy không giầu có lắm, nhưng tôi cũng đã bằng lòng với những gì mình có và tôi luôn thầm nghĩ: Ngàn lời cám ơn vợ! Tôi vẫn luôn dặn lòng, phải thực hiện tốt đúng lời hứa của 44 năm về trước.
Đà Nẵng 12/10/2021
Chuyện Làng quê
Lương Hòa
Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/nhung-ngay-xua-an-ai-a13597.html