Và một chiều, chị tuyên bố với cả nhà rằng từ nay thằng Đề sẽ “nối nghiệp” chăn trâu. Một “truyền thống” của gia đình vốn được “chuyển giao” lần lượt bắt đầu từ ông anh cả, nay đến tôi là “đời” thứ ba. Kể từ đó, cái chạc mụi trâu đã theo tôi suốt 9 năm cho đến khi thi hết cấp 3 rồi đi học xa nhà. Mà không riêng gì tôi, ở xứ ta dường như ai có gốc gác con nhà nông đều phải “kinh qua” một thời chăn trâu cắt cỏ, cho dù sau này có học ra tiến sĩ giáo sư.
Ngay “buổi đầu khởi nghiệp”, sau khi trườn lên lưng trâu mấy lần không tới do còn bé quá, tôi dắt trâu ra ao uống nước rồi đứng trên bờ nhảy phoóc lên. Nhưng loay hoay chưa kịp “giữ vững yên cương” tôi đã bị rơi tõm xuống giữa ao do cái nết ưa trầm mình của loài trâu. May mà tôi đã loi ngoi níu được chiếc đuôi trâu không thì hết cơ hội... ngồi gõ những dòng này. Mấy năm sau tôi cũng bị một vố tương tự khi cưỡi trâu sang ngang hố bom, cái hố bom của Mĩ ném xuống đồng làng những năm 1973 còn sâu hoắm. Lần này thì tôi no nước và hiểu được cái trạng thái của một linh hồn sắp chết đuối. Nó hoảng loạn rồi lịm dần như trong cơn ác mộng. Những người tát đìa gần đó đã vớt được tôi. Ngay tối hôm đó cha tôi đã lập hương án cùng xôi vịt cua cá bên bờ bàu, nhờ thầy khấn vái cảm tạ Hà Bá đã... nương tay. Còn tôi thì sau đó quyết chí tập bơi và đã trở thành một “con rái cá” trên khắp các hồ ao quanh làng.
“Ai bảo chăn trâu là khổ”
Không biết nhà thơ Giang Nam thuở nhỏ đã từng chăn trâu chưa, chứ nói thực tình chăn trâu cũng... không sướng lắm đâu. Ngồi mình trâu phất ngọn cờ lau hô xung phong theo kiểu đánh trận giả có lẽ chỉ một mình ông Đinh Bộ Lĩnh là đủ gan. Mà chơi kiểu đó trâu đói thóp hông, chiều về chắc là bị mấy lằn roi. Vả lại loài trâu thường có tính bất kham. Con trâu mộng của nhà tôi một ngày cày mấy sào ruộng, hình như coi cái thằng bé choắt 10 tuổi trên lưng nó chả ra gì. Hễ trời nóng lên là nó lao xuống đầm lầy; thấy đối thủ lạ từ xa nó đã giương sừng lên mà phóng thẳng tới; còn nếu hôm nào trên đồng có một dì trâu cái đang thời kỳ gợi tình thì phải biết! Cả cánh đồng cứ như một trận giặc. Cho nên sau một thời gian thấy tôi chiều nào dắt trâu về cũng khóc tấm tức, bùn đất lấm lem từ chân tới tóc thì cha tôi quyết định Đội sản xuất xin đổi con khác, lần này, không được chăn trâu mà thay vào đó lại là một con bò.
So với chăn trâu thì chăn bò vui hơn nhiều. Cưỡi trên lưng trâu đón ăn dọc các bờ kênh mương thường là đơn độc và buồn tẻ. Có lẽ vì thế mà tranh Đông Hồ vẽ chú mục đồng ngồi trên lưng trâu mơ màng thổi sáo hoặc chăm chú đọc sách... thánh hiền đó chăng? Bò thích ăn theo đàn, ít khi choảng nhau và rất chịu khó gặm cỏ cùn trong mùa nắng hạn, nhiều khi đói quá chúng còn xơi cả gốc rạ khô. Nhờ vậy mà đám mục đồng bọn tôi chẳng mấy khi bị ràng buộc vào chuyện chăn dắt. Bò nhởn nhơ phận bò, bọn trẻ chúng tôi tụm năm tụm mười với đủ các trò lêu lổng suốt tháng quanh năm. Mùa nào thức ấy, lúc nào chúng tôi cũng tìm được những gò bãi đủ rộng cho lũ bò và những trò chơi hào hứng nhất. Tháng ba vừa chơi đánh ù vừa rập ràng hát đồng dao. Tháng năm đồng đã xanh mạ non, bò được quy về các gò mả ở nghĩa địa rồi chia phe chơi mèo bắt chuột hoặc chơi trốn kiếm quanh các bụi lùm cùng mồ mả. Chạy trốn vào trong các bụi bờ thuận tay hái ổi hái sung bỏ mồm, Những thằng lì nhất còn mò vào rìa xóm moi trộm khoai lang, khoai sọ. Trong khi đó mấy bạn gái kiếm củi bắt của, bắt ốc. Bếp được đốt lên, tất cả cho vào nướng thế là một “bữa tiệc” nóng hổi được bày ra dưới bóng mát mấy cây bụi bên đồng, cả bọn quây quần bên nhau đứa thổi đứa xoa, vừa ăn vừa chọc ghẹo rượt đuổi nhau đủ trò.
Cứ thế, chúng tôi hồn nhiên lớn lên như lũ chim chiền chiện trên đồng. Rồi cũng có những cặp chập chững đến thì, khi chơi trò Oẵn tù tì thường tìm cách đứng gần nhau để được nắm tay, lại còn bày đặt viết thư giúi vào túi áo. Lâu lâu lại có một “đàn anh, đàn chị” từ giã đời mục đồng, hoặc con gái lấy chồng, hoặc con trai vô lính. Thay vào đó sẽ là một vài thằng Cu, con Tí cầm roi chạy lon ton theo mấy chú bê non. Mấy nhóc “mới vào nghề” này thường là nạn nhân của những bác bảo vệ đồng ruộng. Các ông bảo vệ không ai khác, chính là những chú bác, họ hàng trong làng nhưng tính tình rất nghiêm khắc. Cũng bởi bọn tôi ham chơi nên trong mỗi buổi thế nào cũng có ít nhất một vài chú bò mon men đi tìm vạt lúa, vồng khoai nhằm... đổi món. Thế là khi thoáng thấy bóng bảo xuất hiện, những đứa lớn nhanh chân băng đồng chạy trốn, chỉ có mấy nhóc là bị tóm.
Một cuộc “tra khảo” sẽ bắt đầu. Bọn nhóc non gan, chưa bị roi nào đã khóc ré lên rồi khai ra tất tần tật. Các “thủ phạm” dù có bỏ chạy nhưng đã bị ghi vào “sổ đen” thì thế nào cũng có ngày bị chộp. Các bác bảo vệ thường có những ngón đòn khá ác, nhẹ thì bắt tuột quần đét đít vài roi, nặng thì đem bỏ tổ kiến lửa.
Đòn thì đòn, đã theo “nghiệp” chăn bò thì sớm muộn gì bọn tôi cũng lì như... bò. Trò ưa thích nhất của lũ con trai vẫn là xóm trên xóm dưới thách nhau chơi đánh trận giả. Tháng Tám sau cơn mưa đầu mùa, đất ruộng cày ải xong được bỏ phơi khô trắng đồng. Hai phe dàn ngang, mỗi đứa một mũ đầy đất cục, vừa reo hò vừa ném nhau túi bụi. Những đứa lớn thì lùi lại phía sau phụ trách... “pháo binh”, ném những cục đất bự hơn lên cao tít. Đất rơi xuống đất phụt lên từng đám bụi trông như đạn pháo thật. Cũng có tấn công, rút lui “chiến thuật” hoặc co về phòng thủ trên gò mả. Cũng có thằng làm cảm tử quân xông thẳng vào “đất địch”, hứng liền mấy phát đạn... bốc khói trên trán. Không có “thương vong” những cũng có “thương binh”. Đó là những cu cậu né đạn kém lại không giỏi chịu đau. Cũng có khi bắt được “tù binh” đưa về “tuyến sau”, cột vào gốc cây rồi giao cho bọn con gái xử. Nhưng “tù binh” cứ cười hì hì đòi... đi tiểu nên bọn con gái mắc cỡ đỏ mặt đành phải phóng thích, chỉ tịch thu cái dây thừng dắt bò làm “chiến lợi phẩm”.
Đi chăn bò vui thú và tự do như thế nên những đứa “học không ra chữ” thường sớm bỏ trường về làm... mục đồng “chuyên nghiệp”. Số còn lại được cha mẹ chọn cho phương thức “bán chuyên”, nghĩa là một buổi đi học một buổi giữ bò. Đứa học buổi sáng ngồi trong lớp nhớ cánh đồng chiều. Đứa học buổi chiều còn thèm mấy củ khoai khi sáng. Vậy mà sau này có nhiều đứa nên danh nên phận, khi gặp lại nhau lại nhắc chuyện xưa tỏ tường mồn một. Có lẽ những mảnh ghép rời từ thuở mục đồng đã kết thành chiếc tổ ăn sâu trong miền ký ức bọn tôi, những kẻ vốn “sinh ra từ gốc rạ” .
Mượn hai câu thơ của nhà thơ Nguyễn Trung Bình thầy cho lời kết.
Lủi thủi lên bờ, đã thèm bông lúa chín
Bước vào đời qua tấm lưng trâu..
Tháng 6/2022
Nguyễn Hữu Đề
Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/ki-uc-tuoi-muc-dong-a13601.html