Không bao giờ quên

Ngày 20 tháng 6 âm lịch hằng năm là ngày giỗ của bố tôi. Năm 2002 ông mất, tính đến nay đã được hai mươi năm rồi. Bố tôi qua đời khi tuổi 103. Năm nay cũng là kỷ niệm 123 năm ngày sinh của ông.

ch3trong-bao-1659842035.jpg
Ảnh do tác giả cung cấp.

 

Trong ký ức của tôi, hình ảnh bố tôi một người nông dân nhỏ bé, hiền lành, áo nâu chân đất cần cù lao động trên đồng ruộng quê hương. Khi tuổi rất cao ông vẫn ra đồng cày bừa, nhổ mạ, vạ bờ. Khi không còn làm ruộng được nữa ông quanh quẩn lao động trong vườn nhà. Với cái cuốc cùn, cái xẻng cùn và cái chổi cọ cũng cùn ông rẫy cỏ, đào mương thoát nước quanh nhà, quét lá cây, nhổ cỏ. Không lúc nào ông ngơi tay lao động. Có lẽ vì thế mà ông luôn mạnh khỏe. Mãi đến một, hai năm cuối đời khi chân không bước nổi, mắt mờ không nhìn thấy gì nữa ông mới chịu ngồi yên một chỗ. Tôi nhớ khi còn nhỏ tôi đã theo bố lên rừng đốn củi, bẫy chuột, đốt ong đất lấy nhộng và ong non. Quê tôi nghèo, mùa đông rất rét phải chuẩn bị nhiều củi để sưởi ấm. Bố tôi thường bảo tôi chặt củi đem về, những cành củi gộc chất ngoài vườn cho khô để mùa đông đốt lên sưởi ấm. Ngày ấy chẳng có áo bông, áo len. Mùa đông mặc hai ba cái áo cho ấm rồi ngồi bên bếp lửa cho đỡ rét. Khi đi ngủ thì cũng chẳng có chăn bông, chăn len gì. Ngay từ đầu vụ gặt bố tôi đã bảo tôi ra cánh đồng làng xem nhà nào cấy lúa nếp thì xin rạ đem về phơi khô sẵn. Khi mùa đông đến dùng gỗ ván quây một góc nhà rồi cho rạ nếp vào làm ổ nằm rất ấm. Có mùa đông thì tôi và bố ngủ luôn ở kho chứa rơm ngoài vườn khi trời rét quá.

Tôi còn theo bố vào rừng chặt cây rui, cây nứa đem về đập cho vỡ ra rồi ngâm xuống ao bùn một thời gian vớt lên đem phơi khô làm đóm cháy rất đượm, rất sáng. Khi trời mưa rào đầu mùa hạ ếch nhái râm ran gọi nhau vào mùa sinh sản thì bố tôi bảo buộc ba cây đóm rui thành một bó đốt lên ra đồng soi bắt ếch. Quê tôi ngày xưa không có điện, người dân có đèn pin rất hiếm. Những đêm sau cơn mưa rào cánh đồng làng tựa như sao sa. Đó là ánh lửa của những cây đuốc người đi soi bắt ếch. Đường làng ngày ấy tre xanh phủ kín lối đi. Đêm xuống, ai có việc sang nhà nhau đều phải đốt đuốc soi đường. Bố tôi kể một tối mùa đồng khi cả nhà đang ngồi sưởi bên bếp lửa thì có tiếng chó sủa dồn ngoài sân. Mấy con chó vừa sủa, vừa tru lên hốt hoảng lùi dần vào trong nhà cụp đuôi chạy đến nép vào chân người. Bố tôi liền gộp hai bó đuốc lại đốt lên bước ra sân xem có chuyện gì xảy ra mà đàn chó hoảng sợ đến thế? Soi đến chỗ chuồng lợn, ông giật mình khi nhìn thấy một con hổ rất to đang ngồi nhìn con lợn. Trong chuồng, con lợn sợ hãi đến nỗi không kêu và bước nổi nữa. Bố tôi và con hổ nhìn nhau. Con hổ không dám tấn công người vì trên tay bố tôi đang cầm một bó đuốc to lửa cháy rần rật. Nó dập đuôi một cái rồi nhảy vút đi, biến mất vào bóng đêm. Sáng sớm hôm sau, một nhà ven núi kêu mất lợn. Mọi người theo dấu máu vào rừng nhưng không tìm thấy dấu vết của con hổ ấy.

Tôi hay theo bố tôi lên rừng, ra ruộng nên được ông kể cho nghe nhiều chuyện. Những câu chuyện về lịch sử truyền miệng mà ông nghe được rồi kể lại, tôi chưa đọc thấy viết ở sách nào. Ví dụ như chuyện bọn giặc phương Bắc tràn sang giết hại dân ta chúng chẻ cây tre ra kẹp trẻ con vào đưa lên đồng lửa để thiêu chết. Rồi chuyện vị nữ tướng xuất thân ở quê tôi theo Hai Bà Trưng đánh giặc. Đội quân của vị nữ tướng này chiến thắng rất nhiều trận, giết được rất nhiều quân giặc. Nhưng khi tên tướng giặc phát hiện ra đội quân của bà toàn là con gái đã hạ lệnh cho quân cởi hết quần áo ra khi giao chiến khiến các nữ binh trẻ đẹp chúng ta phải lui quân rồi thua trận. Vị nữ tướng ấy phải nhảy xuống dòng sông sâu tự vẫn. Đền thờ của bà ngày nay ở đầu làng tôi. Là một người hiền lành nhưng khi được cử làm tuần phiên bố tôi đã một lần đối mặt với tên tướng cướp nổi tiếng hoạt động ở khu vực Kèo Cài, Ngọc Mỹ, dốc dài Thản Sơn. Bố tôi còn kể cho tôi nghe nhiều chuyện về thời phong kiến ông từng sống, về làng xã ngày xưa, chuyện ông từng tham gia canh gác cho “hội kín” (tổ chức cách mạng) họp bàn khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945. Ông kể chuyện đi tản cư những năm đầu Pháp trở lại xâm lược nước ta, chuyện một quả bom rơi vào góc vườn nhà tôi tạo nên một cái hố sâu hoắm. May mà cả nhà đang ở nơi sơ tán. Cũng trận bom của giặc Pháp hôm ấy làng Dương Chỉ bên cạnh trúng bom, hàng chục gia đình bây giờ có cùng một ngày làm giỗ cho thân nhân của mình.

Bố tôi kể cho tôi nghe chuyện về cải cách ruộng đất. Nhà tôi ngày ấy có một mẫu ruộng, hai con trâu, hơn bốn mẫu rừng trồng cây lá cọ. Với số ruộng đất, công cụ sản xuất ít ỏi như vậy nhưng suýt nữa bố tôi trở thành địa chủ. Nguyên nhân lại ở lý do khác. Đó là chuyện ông nhận nuôi hai thanh niên thuộc các gia đình nghèo khổ trong làng xóm, cùng họ làm ruộng, chăm sóc, khai thác rừng lá cọ. Ông cưới vợ cho họ giúp họ có được một chút vốn liếng ra ở riêng. Khi cuộc cải cách ruộng đất nổ ra các cốt cán phát hiện bố tôi tham gia “bóc lột” nhân công, nuôi người ở làm việc trong nhà mà không trả công cho họ. Khi bố tôi chuẩn bị trở thành địa chủ bóc lột nhân dân thì có chuyện sửa sai, ông chỉ là thành phần trung nông. Sau này, khi tôi lớn lên ông đã chỉ cho tôi biết về bà bần cố nông “cốt cán” đã tố cáo mình là địa chủ trong cải cách ruộng đất. Ông cũng không còn thù oán gì nữa. Đó là lịch sử. Hai người được ông coi như con đẻ nuôi và giúp đỡ ngày ấy coi bố tôi như đã sinh ra mình, gắn bó rất thân thiết với gia đình tôi. Mỗi khi nhà tôi có công việc gì các anh đều có mặt trước nhất.

Bố tôi là một người vượt qua nhiều sóng gió của cuộc đời. Nhưng tôi đã chứng kiến một lần ông khóc. Đó là hôm chính quyền xã tổ chức báo tử và làm lễ truy điệu cho anh trai tôi. Suốt buổi lễ ông lặng lẽ, không nói câu nào. Sau buổi lễ truy điệu khi thấy tôi định đem cái vòng hoa làm bằng hoa dâm bụt héo quắt ra cổng thì ông bảo: “Đừng vứt đi con ạ! Đây là tài sản cuối cùng của anh con đấy. Con đem ra để ở chỗ gốc mít ngày còn ở nhà anh con hay ngồi ấy!”. Nói xong ông đưa tay chùi nước mắt. Tôi đem cái vòng hoa lơ thơ mấy bông hoa dâm bụt ra chỗ gốc cây mít. Nhà tôi ngày ấy có một cây mít già. Thân cây ngã nằm ra mặt đất nhưng ngọn cây vẫn vươn lên và ra hoa, kết trái. Khi còn ở nhà anh trai tôi hay ngồi ở chỗ cây mít đổ ấy đẽo cù, làm cạm bẫy thú rừng. Tôi thường hay theo anh đi bắt cá đồng. Tôi nhớ có một lần cùng anh tát cái chuôm ở Đồng Lão bắt được rất nhiều cá. Anh tôi đi bộ đội và hy sinh tại biên giới Việt Nam-Campuchia năm 1972.

Bố tôi không biết chữ. Một lần tôi dọn đống giấy tờ cũ thấy có tấm bằng ghi “Toàn gia biết chữ”. Tôi đoán chắc là năm 1946, để chuẩn bị cho cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên của thế chế nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ông được dạy viết chữ để đi bầu cử nhưng sau đó thì mù chữ lại và chỉ còn viết được mỗi một chữ tên mình để ký vào các loại giấy tờ quan trọng. Không biết chữ nhưng ông rất mong các con đi học. Anh trai tôi đang học lớp 7 thì nhập ngũ. Chị gái và các em không ai học hết cấp 3, chỉ có mỗi tôi học hết lớp 10 và đi thì đại học (ngày ấy miền Bắc lớp 10 là lớp cuối cùng phổ thông).

Nhớ những năm chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc chúng tôi đi sơ tán trong rừng, bố và chúng tôi phát cây trồng sắn. Nhà tôi cũng có một khoảnh nương ở quả đồi phía sau nhà trồng sắn ăn rất ngon. Sau tết nguyên đán thường là mùa cuốc đất trồng sắn. Một năm sau tết ông bảo tôi: “Năm nay không phải đi cuốc nương trồng sắn nữa”. Tôi thắc mắc hỏi lại thì ông giải thích: “Cái nương sắn ấy hợp tác xã công hữu rồi. Họ bảo không cho từng nhà trồng sắn nữa vì như thế là phát triển kinh tế tư nhân, tiến lên tư bản chủ nghĩa mất con ạ!”. Trước đó ruộng đất, châu bò, công cụ sản xuất và mấy mẫu rừng lá cọ, cái ao thả cá trước cửa nhà cũng đã được công hữu làm tài sản chung của hợp tác xã. Bố tôi ít học, ông không hiểu rằng chủ nghĩa tư bản phát triển không bao giờ đi qua cái nương sắn của ông đâu.

Hôm tôi lên đường nhập ngũ bố tôi tiễn chân ra cổng dặn: "Chiến tranh đạn tránh người, người không tránh được đạn, phải cẩn thận con nhé". Sau cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 2-1979 khi tôi về thăm nhà bố tôi và mọi người mới yên tâm. Có tin đồn tôi có mặt trong một cái hang đá bị bọn Tàu đánh sập ở Hà Quảng, Cao Bằng. Những năm 1990, tình hình đất nước kinh tế khá hơn. Thấy bữa nào cũng có cá thịt bố tôi nói: “Ăn như thế này thì sau này lấy gì mà ăn?”. Tôi bảo ông yên tâm, bây giờ không như ngày xưa nữa đâu. Nhưng nghe chừng ông vẫn chưa thật yên tâm. Hình như trong suy nghĩ, tâm trí của ông dừng lại ở thời bao cấp đói khổ mất rồi. Ngày ấy quê tôi cơm độn sắn chả đủ ăn, đến tết mới có miếng thịt. Tôi không quên những cảnh chia cá, chia thịt thời bao cấp, không quên cảnh khi nhận phần rơm từ sân kho hợp tác về nhà bố mẹ tôi kiên trì dắt trâu bừa lại mãi xem có thu được đấu thóc lép nào không? Ngày ấy làng tôi nghèo nhưng thường xuyên có những người ăn mày đến từng nhà để xin. Tôi nhớ một lần có một ông đeo bị vào cổng. Bố tôi gọi tôi đong một bát gạo đầy để ông chống gậy đem ra cho người ăn mày. Người ăn xin tỏ ý không muốn lấy gạo vì đeo nặng, muốn bố tôi cho tiền. Nhưng bố tôi có bao giờ cầm tiền đâu mà cho. Khi người ăn xin nhận bát gạo đi rồi bố tôi mới bảo: “Trông ông này lẽ ra là mình phải ăn xin của ông ấy mới đúng!”. Đoạn, ông dặn chúng tôi phải lao động để mà sống.

Bố tôi rất thích nghe đài để biết tình hình thời sự. Những năm 1990 nhà tôi có một cái máy vô tuyến truyền hình đen trắng. Buổi tối bà con quanh xóm kéo đến xem chật nhà. Bố tôi cũng xem vài lần nhưng vì tuổi già mỏi mắt không xem lâu được. Tôi nhặt nhạnh các linh kiện cũ mày mò lắp một cái đài thu thanh khuyếch đại thẳng để ông nghe tin tức. Một lần, tôi thấy ông nghe rất chăm chú bút ký “Làng tôi, làng lính” của tôi. Bút ký này được đăng trên báo QĐND và phát trên sóng Đài TNVN. Làng tôi ngày ấy thanh niên lớn lên chủ yếu là nhập ngũ rồi đi chiến đấu. Những người phục viên, xuất ngũ trở về làng đều là binh nhất, binh nhì, hoặc cấp bậc hạ sĩ quan là cùng. Những người không trở về thì giấy báo tử gửi về làng cũng chỉ thấy ghi binh nhất, binh nhì hoặc cao nhất là đến cấp bậc thượng sĩ như anh trai tôi. Làng tôi đúng là một "làng lính" thực sự. Làng của những người mà trong hàng quân danh dự họ đứng ở phía sau, trong đội hình chiến đấu họ luôn ở phía trước.

Bố tôi không được đi đâu xa bao giờ. Cuộc đời ông chỉ quanh quẩn trong xã, trên cánh đồng làng. Như ông kể thì đi xa nhất là lần cùng dân làng tham gia biểu tình kéo về thị xã Vĩnh Yên trong cuộc cách mạng tháng Tám 1945. Sau này, tôi có điều kiện đi công tác nhiều nơi, có thứ gì lạ tôi đều cố gắng đem về cho ông. Ông rất thích quả chôm chôm miền Nam, nó giống hệt quả thiều rừng quê tôi. Nhưng quả thiều cái cùi chỉ là một lớp mỏng và chua không gặm được như quả chôm chôm, ăn là phải nuốt cả hột, đầy bụng. Còn quả măng cụt ông bảo nó giống hệt quả bứa trên rừng. Mỗi lần tôi đi công tác về kể chuyện những vùng đất mới ông nghe đều rất thích. Mỗi khi về nhà tôi thường mặc thường phục, không bao giờ mang đeo quân hàm. Một lần, chắc là đắn đo mãi, ông mới hỏi tôi cấp bậc gì? Tôi nói: “Bố có nhớ cái thằng đồn trưởng Pháp ở đồn Phố Miễu ngày xưa hay dẫn quân vào làng bắt dân mình đi phu không? Con cấp cao bằng tên đồn trưởng ấy đấy!”. Bố tôi nói: “Thế thì là cấp to lắm rồi!”. Ông nói và nhìn tôi có vẻ rất hài lòng. Tôi đọc lịch sử của xã nên biết tên đồn trưởng Pháp ở quê tôi ngày ấy cấp bậc đại úy, khi ông hỏi thì tôi vừa được thăng quân hàm thượng tá.

Những chuyện của bố tôi kể tôi đều thể hiện trong các trang viết, trong các truyện ngắn, tiểu thuyết của mình. Mỗi khi viết về quê hương tôi không quên lần giở lại những câu chuyện mà ông đã kể với tôi. Hai mươi năm rồi bố đi xa nhưng trong tôi ông vẫn còn sống mãi…

Vĩnh Phúc, ngày 20 tháng 6 năm Nhâm Dần- 2022

Bút ký của Trọng Bảo

Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/khong-bao-gio-quen-a14525.html