Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 5)

Trân trọng giới thiệu sách “Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007)” của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Thanh niên ấn hành.

Kỳ 5.

Năm 557, cháu Lý Nam Đế là Lý Phật Tử sau một thời gian trốn chạy quân Lương, kéo phe cánh về đòi Triệu Việt Vương chia quyền lực. Triệu Việt Vương chia cho Lý Phật Tử một phần lãnh thổ, lấy địa giới ở xã Quần thần (Thượng Cát-Hạ Cát-Từ Liêm-Hà Nội) làm ranh giới, gả con gái cho Lý Phật Tử. Năm 571, Lý Phật Tử bất ngờ đánh úp triệu Việt Vương, chiếm toàn bộ lãnh thổ, xưng là Hậu Lý Nam Đế. Năm 602 nhà Tùy sai tướng Lưu Phương đem quân sang xâm lược, đánh bại Lý Phật Tử. Nhà Tuỳ cai trị nước ta. Nước Vạn Xuân tồn tại gần 60 năm với 3 đời vua: Lý Nam Đế (544-548), Triệu Việt Vương (549-571), Hậu Lý Nam Đế (571-603).

bach-dang1-1672306135.jpg
Tượng Ngô Quyền tại quần thể di tích Từ Lương Xâm, phường Nam Hải, quận Hải An, Tp. Hải Phòng. Nguồn: nguồn: baotanglichsu.vn

 

Nhà nước Vạn Xuân ra đời tồn tại được gần 60 năm đánh dấu bước trưởng thành về mặt chính trị của giai cấp phong kiến Việt Nam, của tinh thần dân tộc, tinh thần quốc gia. Là sự khẳng định nền độc lập dân tộc, sự phủ định dứt khoát quyền bá chủ đô hộ của phong kiến Trung Quốc. Với nhà nước Vạn Xuân, sự hình thành quốc gia,  nhà nước đã rõ nét, là kết quả của 500 năm lịch sử đấu tranh và phát triển triển toàn diện của Việt Nam, là bước chuẩn bị cho sự ra đời của quốc gia phong kiến độc lập sau này. Nước Vạn Xuân chỉ tồn tại gần 60 năm nhưng đã in dấu ấn không phai mờ trong tâm trí của nhân dân, là nguồn cổ vũ to lớn để nhân dân ta tiếp tục cuộc đấu tranh cho nền độc lập dân tộc.

Sau khi nước Vạn Xuân bị xâm lược, nhà Tuỳ và sau đó là nhà Đường cai trị nước ta. Năm 687 Lý Tự Tiên và Đinh Kiên lãnh đạo nhân dân vùng dậy, giết chết quan cai trị nhà Đường là Lưu Diên Hựu, phá thành Tống Bình. Khởi nghĩa bị tướng của Võ Tắc thiên Hoàng Đế là Tào Huyền Tĩnh và Phùng Nguyên Thường đàn áp.

Năm 722, Mai Thúc Loan phất cờ khởi nghĩa ở các Châu Hoan,  Diễn Châu (nay là Nghệ An). Mai Thúc Loan xưng là Mai Hắc Đế, xây thành Vạn An ở núi Hùng Sơn làm kinh đô. Nghĩa quân nhiều lần tấn công thành Tống Bình. Viên quan đô hộ nhà Đường Quách Sở Khách hoảng sợ bỏ chạy về nước. Vua Đường Minh Hoàng phải cử Dương Tư Húc và Quách Sở Khách đem 10 vạn quân sang đàn áp. Khởi nghĩa thất bại.

Sau Mai Thúc Loan, từ năm 766  Phùng Hưng, một hào trưởng ở Ba Vì -Sơn Tây (Hà Nội) khởi nghĩa. Quân khởi nghĩa đã tấn công chiếm thành Tống Bình, xây dựng nền tự chủ. Năm 773 Phùng Hưng mất, Phùng Hải lên thay. Năm 791 tướng nhà Đường là Triệu Xương dụ Phùng Hải đầu hàng, nền tự chủ duy trì được 25 năm thì chấm dứt.

Năm 803, Vương Quí Nguyên, một viên tướng người Việt trong quân đội nhà Đường khởi nghĩa, đuổi viên quan đô hộ Bùi Thái chạy về nước. Năm 806, Dương Thanh cùng 3.000 quân làm binh biến, hạ thành Tống Bình, giết chết Tiết độ sứ Lý Tượng Cổ khét tiếng tàn ác. Khởi nghĩa bị  tướng nhà Đường Quế Trọng Vũ đàn áp .

Đầu thế kỷ thứ X, nhà Đường trên con đường sụp đổ, cơ hội cho nhân dân ta giành độc lập dân tộc đang chín muồi. Năm 906, Khúc Thừa Dụ, một hào trưởng ở đất Hồng Châu (nay thuộc Hải Dương) nổi dậy chiếm thành Tống Bình, giành quyền tự chủ. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua Đường phải công nhận Khúc Thừa Dụ là Tiết độ sứ. Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo thay cha tiếp tục xây dựng nền tự chủ. Khúc Hạo  tiến hành cải cách hành chính, chia nước thành 5 cấp lộ, phủ, châu, hương, giáp, xã. Khúc Hạo là người đầu tiên  xây dựng chính quyền thống nhất. Dù chỉ xưng là Tiết độ sứ của nhà Đường và sau này của nhà Hậu Lương (Chu Ôn) nhưng nhân dân ta đã nắm đựợc toàn quyền tự chủ, ách đô hộ 1.000 năm của phong kiến Trung Quốc trên thực tế đã chấm dứt.

Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ thay cha nắm quyền. Năm 923 nước Nam Hán, một nước cát cứ trong cục diện 5 đời 10 nước sau khi nhà Đường diệt vong, lãnh thổ Quảng Đông, kinh đô Phiên Ngung (nay là Quảng Châu), sai tướng Lý Khắc Chính xâm lược nước ta. Khúc Thừa Mỹ thất bại và bị bắt. Năm 931 Dương Đình Nghệ (quê ở Ái Châu ( nay là Thanh Hoá), một tuỳ tướng của họ Khúc đánh bại quân Nam Hán, giành lại quyền tự chủ. Năm 937 Dương Đình Nghệ bị một tuỳ tướng là Kiều Công Tiễn (quê ở Phong Châu-nay thuộc Phú Thọ) giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Để bảo vệ địa vị của mình, Kiều Công Tiễn cầu cứu quân Nam Hán. Sẵn có dã tâm xâm lược, vua Nam Hán Lưu Cung huy động hai đạo quân thủy bộ tiến vào nước ta cuối năm 938. Đạo chủ lực thuỷ quân do con vua là Lưu Hoằng Thao tiến vào sông Bặch Đằng. Vua Nam Hán Lưu Cung tự chỉ huy đạo bộ binh đóng ở Hải Môn-Bác Bạch (Quảng Đông) tiếp ứng. Nền độc lập non trẻ của nước nhà bị đe dọa bởi thù trong giặc ngoài.

Trước tình hình nguy cấp đó, tháng 11 năm 938, Ngô Quyền (quê ở Đường Lâm-Ba Vì -Hà Nội-sinh năm 897 ) khi đó là quan trấn thủ Ái Châu (con rể Dương Đình Nghệ) được toàn thể nhân dân và các hào trưởng ủng hộ, gấp rút tiến ra thành Đại La giết chết Kiều Công Tiễn, trừ nội phản rồi chuẩn bị kháng chiến chống ngoại xâm. Ngô Quyền cho quân lấy cọc gỗ đầu nhọn bịt sắt đóng xuống cửa sông Bạch Đằng theo chiều nghiêng về phía trong. Khi thuỷ triều dâng ngập bãi cọc, quân ta ra khiêu chiến dụ toàn bộ binh thuyền giặc vượt qua bãi cọc tiến vào trong sông. Khi nứơc triều rút, quân ta nhất tề xông ra quyết chiến. Thuỷ binh giặc đại bại tháo chạy ra biển, xô vào cọc nhọn bị vỡ và đắm. Toàn bộ đạo thuỷ binh của Nam Hán bị tiêu diệt. Tướng giặc Lưu Hoằng Thao bị giết chết. Nghe tin thuỷ binh đại bại, đạo bộ binh của Lưu Cung khiếp sợ rút lui.

Trận thuỷ chiến Bạch Đằng là trận quyết chiến lược, trận tiêu diệt lớn nhất của dân tộc ta từ trước cho đến lúc đó, đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Nam Hán. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 kết thúc 1.000 năm Bắc thuộc, mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta, thời đại độc lập lâu dài, xây dựng quốc gia phong kiến hùng mạnh ở Đông Nam châu Á, tạo nên bước ngoặt sâu sắc trong lịch sử tiến hoá dân tộc. Có chiến thắng lịch sử này là do ý chí kiên quyết bảo vệ nền độc lập non trẻ của dân tộc ta,  có tinh thần đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh vô địch. Ngô Quyền-nhà quân sự kiệt xuất, Anh hùng dân tộc đã biết phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, sức mạnh của thiên thời,  địa lợi , nhân hoà,  biến thành sức mạnh trên chiến trường tiêu diệt địch. Ông đã kế thừa và phát huy truyền thống quân sự dân tộc lên một bước mới để hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc.

(Còn nữa)

CVL

PGS TS Cao Văn Liên

Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/lich-su-viet-nam-tu-tien-su-den-nam-2007-ky-5-a17112.html