Tiếng một người đàn ông:
- Chu cha, ngủ chi hung dữ? Một tuần liền đó, không ăn uống chi rồi.
Tôi mở mắt, mệt mỏi nhìn quanh và hỏi ông già:
- Tôi đang ở đâu đây?
Ông già nhìn tôi gật đầu:
- Cha con tao lượm được cậu ở đồi Mỹ đổ bộ; rước cậu về đây người sốt mê man bất tỉnh đã 6 ngày đêm. Con gái tao đã đắp thuốc, chăm sót cho cậu suốt ngày đêm đó, mệt hung. Nay cậu sống lại rồi, có chuyện chi cứ từ từ hãy nói, không vội.
Thì ra, hôm nay đã là ngày 18/4/1971. Cô gái bưng tô cháo lại, lấy muỗng bón cho tôi. Nước cháo làm mắt sáng dần, song vẫn chưa dậy nổi. Ông già giã lá thuốc gì đó cho uống. Cô gái lấy nước và khăn rửa mặt, lau người cho tôi.
Hôm sau 19/4/1971, cô gái nâng tôi dậy, dìu tôi tập đi. Lúc 8 giờ sáng mồ hôi toát ra thấy nhẹ nhõm hẳn. Đầu giờ chiều, cô gái đưa tôi đến một con suối, nước trong nhìn tận đáy chảy rì rầm, hai bên suối có nhiều cây dù dì. Một con suối đẹp rất nên thơ.
Tôi thẫn thờ buồn rầu, tự dưng lại nghĩ đến mấy ngày “phồn hoa hạnh phúc” dưới chốn âm ty mà ứa hai hàng lệ.
- Buồn chi vậy anh bộ đội, nhớ nhà phải không?
Cô gái hỏi. Tôi khẽ gật đầu:
- Đi lâu rồi, cũng không nhớ nhà mấy nữa. Nhưng nhớ anh em trong đơn vị. Giờ này không rõ họ ở đâu?
- “Ăn” yên tâm đi, tĩnh dưỡng cho khỏe rồi sẽ tính.
Tôi cởi đồ, để cô gái giặt, rồi cầm xà phòng camay Mỹ lượm được bữa trước gội đầu, xoa lên người.
Nước suối trong làm cho làn da tôi trắng đẹp trở lại. Những ngày gian khổ ác liệt vừa qua, đã làm cho râu dài, tóc tốt, soi qua đáy suối mà không cả nhận ra chính mình. Tôi về nhà tìm lưỡi dao lam cạo râu vệ sinh cái mặt, còn cái đầu tóc dài thì mặc kệ.
Đêm 19/4/1971, ăn tối xong, tôi mắc võng nằm vấn thuốc hút, rồi kể lại tất cả những gì xảy ra trước đó cho 2 cha con ông già nghe.
Ông lão vừa nghe, vừa à và ồ lên thích thú:
- Bộ đội đã đến đây thì cứ ở lại đây. Nơi này thuộc Bản Hiệp, có sông Ma Vương chảy qua Cổng Trời, từ đồi Mỹ đổ bộ đi đến đây mất ngày đường. Nhà tao có 4 người, là dân Ca Tu từ A Lưới bên Trị Thiên sang đây đã mấy mùa rẫy rồi. Vợ tao và con trai tao đều bị thằng Mỹ bắn chết hết rồi.
- Anh bộ đội giờ có một mình lại bệnh, đơn vị đi rồi, cố tìm chi cho mệt, ở lại với Trường Sơn thôi. Con gái tao nó cũng thích mày đó. Nếu ưng, tao cho 2 đứa lấy nhau.
Lúc này đang bệnh tật, ốm yếu, ông già nói gì mà tôi chả nghe. Nên cũng đành gật đầu cho qua. Thôi thì tuỳ duyên đến đâu, sẽ hay đó, trước hết là phải sống đã.
Ông già mừng quá kêu con gái lại:
- Anh bộ đội ưng mi đó. Sáng mai mi ở nhà chăm sóc nó, để ta vào rừng kiếm củ mài, củ sắn về eng.
Cô gái mừng ra mặt, má hồng cúi đầu e then, nhưng đôi mắt sáng lên long lanh nhìn tôi, như không muốn rời ra.
Sáng 20/4/1971, ăn sắn luộc xong, ông già xách dựa, đeo gùi đi vào rừng. Còn cô gái thì đi vào hang, lấy thùng đạn đại liên Mỹ, mở ra cạy cho tôi một cục đường ong bảo:
Anh ăn đi, cái ni khỏi sốt đó.
- Em tên Akay.
- Còn anh tên là Thậm.
- Cái tên Akay kỳ quá, xấu hung, không đẹp như người miền xuôi phải không?
Tôi trả lời Akay bằng một câu hỏi:
- Akay giống như trong bài hát “Lời ru trên nương á”?
- Đúng rồi. Em là Akay như trong bài vẫn hát trên đài đó. Nhưng sao họ lại biết tên em mà hát hả bộ đội?
- Biết chứ, bởi vì em xinh đẹp. Là bông hoa của núi rừng Trường Sơn. Chắc có nhiều người thích và ưng Akay lắm đó!
- Ủa em đẹp thiệt sao? Nhưng Akay chỉ thương có mình anh thôi. Thế anh coi em ra răng?
- Em như chim phượng trên rừng, ngơ ngác như con lại lạc mẹ trên núi. Em có duyên hấp dẫn đàn ông.
- Thế nào là “hấp dẫn đàn ông”?
- Là mỗi khi người con gái gặp người con trai, cái miệng hay cười, cái mắt hấp háy liếc ngang, nhìn trộm, làm cho người con trai động lòng.
- Em không nhìn trộm ai, chỉ nhìn lén và cười với anh thôi.
- Ngay lúc đầu anh đã thích em, mắt em đen láy, răng em đều trắng muốt, tóc em dài bén kheo.
- Ảnh bốc em nhiều hung. Akay mắc cỡ đó.
Cô gái thích thú nhảy chân sáo, miệng hát bài “Lời ru trên nương”. Tôi nhìn Akay sao mà đáng yêu đến thế. Cô bảo:
- Nếu bộ đội muốn làm chồng em. Thì anh phải đi tắm suối với em, để Thần suối, Thần rừng, Thần núi quen mặt mới công nhận vợ chồng, khỏi bị ma xó quấy rầy.
- Ối, nhưng anh sợ…
- Không sợ mô, anh ngoan, thật lòng với em, không giả dối, thì ma xó không động đến đâu.
- Anh sẽ ngoan với em, thật lòng mà!
Akay thích quá kêu lên, hôn vào má tôi:
- Anh Thậm ngoan thật nha. Không yêu giả đò đó nghe.
- Ừ, cùng đi tắm suối cũng được.
13 giờ chiều ngày 20/4/1971, tôi cùng Akay đến bên bờ suối ngồi ngắm dòng nước chảy, nước trong đến đáy nhìn rõ đàn cá hồng, cá bạc má phi ngược dòng, có con nhảy cả lên bờ…
Akay thích thú, ngạc nhiên:
- Ủa, sao tự dưng bữa nay nhiều cá hung?
Tôi bảo:
- Em đưa súng đây, để anh bắn vài con cá ăn.
Tôi núp trong lùm cây bắn mấy viên đạn. Akay vớt được chừng 2kg.
- Tắm rồi còn dề, giờ này chắc cha đã ở nhà rồi.
Akay thu gom cá gói vào lá chuối. Khí hậu ở đây dễ chịu thật, hai bên suối hoa dù dì nở rộ, hoa sim, hoa mua khoe sắc; bướm trắng, bướm vàng bay đặc khe, dòng suối bạc, bãi cỏ xanh, cảnh vật nơi này tưởng như tiên cảnh.
Tôi viết: Trường sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe lại tưởng đàn cầm đâu đây/ Hai bên đá mọc rêu đầy/ Ngồi êm như đệm nhớ ngày chăn trâu.
Đang tắm, một chiếc cán gáo OH6 từ dưới đồng bằng bay lên theo dòng suối vượt qua đầu chúng tôi.
Akay kêu lên:
- Chắc tụi địch sắp đi càn đó. Ta về thôi, nhanh kẻo không kịp!
Rồi cô mặc quần áo rất nhanh, chạy vào nhà, lấy ra một đống vũ khí Mỹ. Cô thắt dây lưng lựu đạn, lắp đạn, rất thành thạo, rồi xách súng AR15. Tôi cũng đeo súng M79 sau lưng tay cầm súng AK chạy theo..
- Anh Thậm ơi, đi thôi!
Akay giải thích:
- Gần đây có 2 quả đồi cách nhau 100m gọi là 2 đỉnh Vú Tiên. Nhiều lần trực thăng lên đây thường đỗ dưới bãi bằng giữa hai quả đồi rồi thả quân lính đi lùng sục. Mình phải chú động đánh trước, chúng nó sẽ không dám mò xuống đây phá nhà, nương rẫy của mình nữa.
- Akay giỏi quá!
- Không giỏi đâu. Nhưng vài lần là quen thôi. Giờ anh lên quả đồi bên ni, còn em quả đồi bên tê, ở đó có nhiều chỗ ẩn nấp, máy bay đỗ xuống thì bắn.
Tôi lên tới đỉnh đồi, thấy ở đó có cây cối lúp xúp và mấy cái hầm cóc khoét dưới hườm đá. Mấy chiếc UH1 bay vòng lại, bắn rốc két, quét đại liên xuống 2 quả đồi. Chiếc tàu gáo vè vè bay quanh hai quả đồi tung lựu đạn xuống. Một chiếc vòng lại đỗ xuống bãi bằng…
Tiếng súng AR15 của Akay nổ dàn dạt liên tiếp, đạn găm vào máy bay tóc lửa. Mấy tên biệt kích nhảy ra. Tôi bắn quả M79 trúng vào máy bay, cánh cửa vỡ tung, tên lái chết lộn cổ ra ngoài. Máy bay nằm tại chỗ, khói lửa bùng lên. Còn 5 tên lính chạy chỗ này bị bắn chặn, chạy chỗ kia bị bắn đón. 2 khẩu AK và AR15 chúng tôi bắn chết 3 tên còn 2 tên chui ẩn trong bụi cây lúp xúp. Tôi bắn 1 quả M79 vào đó, chết 1 tên, tên còn lại chạy ra ngoài bị Akay bắn một loạt đạn chết nốt.
- Chạy về hang anh ơi - A kay gọi!
Tôi thu súng cùng Akay chạy dọc suối đến một cái hang đá tương đối rộng. Chiếc UH1 và chiếc OH6 không dám xuống thấp, từ trên cao bắn đạn đại liên, phóng đạn rốc két xuống những nơi mà chúng nghi là có Việt Cộng.
Chúng tôi về nhà, nhưng không thấy cha Akay đâu. Đem được ít gạo mấy củ sắn vào hang. Tôi đi cắt lá chuối khô trải nằm, kiếm củi đốt thâu đêm. Akay nướng sắn, tôi ngả lưng vấn thuốc hút. Akay lo lắng:
- Cha eng không biết ra răng, giờ ni ông ngủ ở mô?
- Em yên tâm đi, máy bay, súng đạn bắn nhau như vậy thì sao cha dám về kia chứ! Chắc giờ này cha đã ngủ đâu đó trong rừng, mai mốt sẽ về thôi, khỏi lo…
8 giờ sáng 21/4/1971, chiếc L19 lượn vòng mấy lượt, bắn một quả đạn khói màu vàng. Hai chiếc F5 thả bom trần dọc 2 bên bờ suối; nhiều tốp máy bay A1 thay nhau đánh bom đến 14 giờ chiều làm cây rừng tan nát, khói bom mịt mờ.
Bom hết, máy bay đã bỏ đi, thì ông già đem cơm vào hang cho tụi tôi. Ăn xong mới 16 giờ chiều, Akay bảo đi thu chiến thắng phẩm.
Chúng tôi đến bãi bằng đã diễn ra trận đánh chiều hôm trước, kiếm được một số súng đạn, thịt hộp, gạo sấy, thuốc lá… ở trong máy bay rồi mang chuyển về hang.
Ông già đã đi lấy tre làm cho chúng tôi cái xạp đặt trong hang để nghỉ. Đêm trong rừng trời tối om, bên chiếc giường tre có bếp lửa vừa ấm vừa sáng, điếu thuốc rubi chiến thắng phẩm tỏa khói thơm ngào ngạt.
Akay bóc củ sắn lùi đưa cho tôi bảo:
- Anh Thậm ăn đi ngon hung đó.
- Chà, ở hang mà cứ thế này thì ở suốt đời được.
- Em cũng dậy, chỉ cần có anh dù ở hang hay ở hầm em cũng hạnh phúc, không cần nhà sàn, lán rộng làm chi.
Tuy thiếu thốn nhưng cũng rất ấm cúng; chiếc giường tre dã chiến không có chiếu, tôi lấy 2 chiếc dù pháo sáng, một cái trải nằm một cái đắp.
Chúng tôi mò ốc, kiếm măng lấy hoa chuối. Ông gìa thì bẫy sóc, bẫy gà rừng, cheo cheo; bắt rắn, tê tê, kỳ đà… Không được thứ nọ cũng được thứ kia, ngày nào cũng có thịt ăn, thế chẳng phải hạnh phúc là gì.
Akay bảo:
- Bao giờ hết máy bay, bom pháo, chúng ta cuốc đất trồng trọt ở dãy đồi bên kia suối.
- Đúng rồi, mình cùng là thì tha hồ ngô lúa mà ăn!
- Trời ơi, em thương anh hết nỗi, không có anh em sống sao nổi.
- Không có em và cha cứu giúp, chăm sóc tuần trước, thì anh cũng chết rồi, còn đâu mà đánh giặc, trồng ngô lúa cùng em chứ.
Akay ôm lấy cổ tôi. Tôi vén tóc Akay, ôm chặt em mà ngủ. Hơi ấm bên bếp lửa làm cho cái lạnh trong hang ở nhiệt độ dễ chịu.
Ngày 23/4/1971, lúc 13 giờ chiều, Akay rủ tôi lại lên bãi đổ bộ xem có gì kiếm thêm. Tôi xách súng tìm đến chỗ chiếc máy bay hỏng, trèo lên thấy 2 bên cửa có 2 khẩu súng máy Đại liên cỡ 7ly62; súng Đại liên 6 nòng nắp bên cửa trái; súng Đại liên 30 một nòng nắp bên cửa phải; dây băng đạn của Đại liên 6 nòng còn tới 1000 viên; dây băng đạn của Đại liên 1 lòng 500 viên.
Tôi hì hục tháo đạn, rút chốt dưới bụng súng, nâng khẩu Đại liên 6 nòng vác ra ngoài, súng không có chân càng. Tôi lại tháo súng, nhấc khẩu trung liên 30 một nòng vác ra ngoài. Khẩu súng này có cả 2 chân, một người chiến đấu. Tôi đưa Akay vác một khẩu, còn tôi vác súng Đại liên 6 nòng đưa về hang rồi chúng tôi khiêng tiếp 2 chuyến đạn.
Sáng 24/4/1971, tôi bảo ông già vợ:
- Súng không có chân, làm sao bắn được?
Ông già ngắm nghía lúc lâu mới đi đẽo 2 cái cọc đóng chéo, lấy dây mây cột chặt, đặt súng lên chạc lại cột tiếp thân súng vào cọc cho khỏi rung lắc. Chà! tuyệt quá. Tôi tháo khúc dây băng 18 viên, lắp đạn bắn thử, 6 nòng quay tít, đạn phun ra như mưa.
- Hay hung! - Ông già kêu lên.
Tôi trèo lên trên hang, thấy có một cái dông nhô ra, dưới hang có lối chui lên, tụt xuống rất tiện. Tôi bảo ông già:
- Ba à, chiến tranh vẫn còn tiếp diễn chưa biết bao giờ mới độc lập. Nếu quân Mỹ - Ngụy càn lên đây, ba có dám đánh không?
- Thằng Mỹ giết vợ con tao, chết tao cũng đánh.
- Vậy thì cha con ta phải chuẩn bị trước, củi rừng nấu thịt nai, ta lấy súng đạn của Mỹ bắn lại Mỹ.
- Mày nói trúng cái bụng của tao rồi đó.
Tôi bàn thêm:
- Từ nhà đến hang 200m, ta đào cộng sự chiến đấu. Ở trên đỉnh đặt súng Đại liên 6 nòng. Khi quân Mỹ càn vào đây, con sẽ bắn, Akay chặn giữ cửa hang. Nếu ở nhà một mình ba có dám đánh không?
- Có mi ở đây tao còn sợ chi thằng Mỹ.
- Vậy ta sẽ về nhà tìm chỗ thuận lợi cách nhà 100m, đặt khẩu súng trung liên 30 Mỹ trong rừng cách con suối để trận địa liên hoàn, địch khó tấn công.
- Mi được bộ đội dạy đánh giặc bài bản. Có gì cứ nói tao sẽ làm theo. Nhất định sẽ đánh được bọn địch nếu chúng dám vào đây!
- Tóm lại, khi quân Mỹ tấn công đánh vào hang, ba ở phía nam nhà dùng trung liên bắn vào sau lưng tụi nó. Còn khi chúng nó tấn công đánh vào chỗ ba, con ở hang phía bắc nhà, dùng súng đại liên bắn vào sau lưng chúng. Hai đầu bắn xả vào thì bọn chúng phải chạy.
Ông già kêu lên:
- Mày bày cách đó hay hung! Tao không sợ thằng Mỹ đâu.
Tôi và ông già làm xong trận địa súng trung liên, có hầm hố trú ẩn, xếp vào đó 3 quả đạn M72, súng AR15 và 6 quả lựu đạn Mỹ. Tôi giới thiệu cách sử dụng vũ khí.
Ông già cười, rồi phẩy tay nói:
- Những thứ này tao xài quen rồi. Tao đánh Mỹ từ 1965 đến giờ, loại nào cũng tháo lắp được bắn đủ loại. Tụi bay cứ ở hang, tao ở nhà với con chó có gì sẽ giúp nhau. Hàng ngày tao mang cái ăn vào cho tụi bây. Chớ có thập thò ra ngoài kẻo lộ.
8 giờ sáng 27/4/1971, Akay rủ tôi đi rừng cùng. Cô dặn ba ở nhà trông nom mọi việc và phải cảnh giác.
Chúng tôi thắt dây lưng, mang súng. Akay đeo gùi, tôi cầm con dao dựa vào rừng. Ông già nói với:
- Tụi bay nhớ cẩn trong, đi giỏi nghe.
- Dạ, chúng con đi sẽ về sớm!
Chúng tôi ngược dốc, đi đến đỉnh cao 602, nơi quân Mỹ thường hay đổ bộ. Ở đây có 3 mỏm cao thấp khác nhau, tôi quan sát địa hình, khu vực không có động tĩnh gì. Akay bảo tôi ngồi trong bụi cây gần đó sợ có bất trắc sẽ tiếp ứng cho nhau.
Akay đi nhặt chiến thắng phẩm, được thêm: 30 quả M79, 4 quả đạn M72, 300 viên đạn AR15, 17 hộp thịt, 1 kéo cắt tóc, 1 con dao đi rừng của Mỹ.
- Xong rồi anh ơi, về thôi - Akay gọi.
Chúng tôi đóng hàng xong đi xuống chân dốc, đi dọc suối tìm chỗ kín đáo xa đường trục ven suối thay nhau tắm.
Akay còn mò được gần một bao cát ốc suối; mỗi người ăn một hộp thịt rồi cắt lá trải nằm nghỉ. Tôi nằm hút thuốc.
Akay gác bên cạnh tiện tay nhổ râu cho tôi, bảo:
- Anh cứ ngủ đi, eng canh chừng.
Tôi hút hết điếu thuốc thì mắt díp lại.
Ngủ được một lúc thì Akay lay gọi:
- Anh ơi dậy đi, ông mặt trời sắp đi ngủ, về kẻo trễ.
Tôi xem đồng hồ, mới có 13 giờ 20 phút. Akay chỉ tay lên cây bảo:
- Anh nè, ăn cái ni khỏe hung đó!
Tôi nhìn lên, thấy một tổ ong to bằng 2 cái dép, mật vàng óng. Chúng tôi lượm tổ ong. Akay cắt từng miếng bỏ vào miệng tôi bảo:
- Em nhường anh đó. Ăn cho có sức, còn giúp em đánh giặc, trông lúa trồng ngô nghe.
- Em phải ăn cùng, thì anh mới chịu.
Akay gật đầu cảm động, mắt ánh lên đầy yêu thương và hạnh phúc. Chúng tôi bón cho nhau cùng ăn. Tôi cảm thấy ngọt dịu từ đầu lưỡi. Mật ong trôi đến đâu tỉnh đến đó. Cái bụng dễ chịu làm sao.
17 giờ 27/4/1971, trong hang đá tối mò, ông già đưa cơm vào. Tôi nói Akay nhớ lấy cho ba một phần số hộp thịt tìm được. Ông già bảo:
- Thứ này lượm ở mô ngon hung đó; hồi ở Thừa Thiên tao cũng ăn rồi à.
Chúng tôi nghỉ một hôm.
Ngày 29/4/1971, chúng tôi rủ nhau đi rừng.
Ông già vợ dặn:
- Tụi đi phải cảnh giác đó, cả địch với thú rừng nghe.
Tôi dặn lại:
- Ba ở nhà lúc nào cũng phải đem súng bên người.
- Tao biết rồi, tụi bay đừng lo.
8 giờ sáng, chúng tôi trang bị như đi chiến đấu, vượt dốc 602 xuống phía Bắc chân núi tới một nhánh cửa sông Bung chảy từ tam giác giáp nước Lào về phía bắc vòng về ngã ba sông Bến Rùng.
Suối chảy mạnh, tôi ngồi gác cho Akay tắm. Ở đây, rừng già khe sâu, mặt trời không dòm xuống được. Mải chơi quên cả thời gian, xem đồng hồ đã chính ngọ. Chúng tôi ăn sắn luộc mang từ nhà đi, rồi tiếp tục tìm xem có nương rẫy nào không.
Bỏ đường trục đi 30 phút đến m khu rừng già; núi cao, suối chảy cạnh chân núi, có một cái hang. Tôi chui vào chừng 5m, thấy một phiến đá to phẳng phiu, bên trong còn sâu nữa, tối om.
Akay mang đồ vào rồi đi cắt lá nón giải nằm. Chúng tôi phải ở tạm qua đêm vì về không kịp.
Tôi lấy 2 cây củi khô to làm bếp; nhặt tre nứa khô đốt bếp cho sáng còn mấy củ sắn và một hộp thịt Akay mang theo, chúng tôi nướng sắn ăn thịt hộp.
Tôi nằm nghỉ, gối đầu lên đùi Akay hút thuốc Sa lem của Mỹ nghĩ ngợi. Nếu bữa ở Hòa Nha một mình chạy lạc mà có 2 người như hôm nay thì đâu đến nỗi khổ. Lúc này ở giữa rừng già, người ngủ, người canh, không sợ hùm beo lang sói. Akay hỏi:
- Ở ngoài “Béc” thì “ăn” ở mô?
- Xa lắm, vượt Trường Sơn qua nước Lào, qua Tây Thiên, Quảng Trị rồi đi dọc miền Trung - Khu 4 ra Hà Nội, đi tiếp xe lửa Hà Nội – Hải Phòng đến Hải Dương thì về quê anh. Từ đấy vào đây đi bộ 6 tháng.
- “Eng” biết rồi. Rừng quê ăn có nhiều không?
- Quê anh ít rừng thôi. Hầu hết là đồng bằng, thẳng cánh cò bay 20km thì ra biển.
- “Eng” nói thế chứ, em có biết đồng bằng với biển ở mô. Nhưng em đã mơ được ra Hà Nội rồi đó. Một giấc mơ như thật và thật như mơ anh à!
Tôi ngạc nhiên, hỏi lại Akay:
- Em đi làm gì, với ai?
- Em mơ được đi với đoàn Anh hùng - dũng sĩ miền Nam ra Hà Nội báo cáo Bác Hồ năm 1967. Đó là sau Tết nguyên đán. Đoàn chúng em 11 người, gồm 7 nam, 4 nữ đi theo đường giao liên sang Lào, đến Tà Dúa có xe ô tô chở tụi em ra Quảng Bình. Chuyển xe đi tiếp đến Nghệ An rồi lại chuyển xe ra Hà Nội. Tụi em được nghỉ ở trạm 66 của Bộ quốc phòng. Một tuần nghỉ ngơi và bồi dưỡng, chúng em nộp giấy chứng nhận “Dũng sĩ diệt Mỹ, diệt máy bay, diệt xe tăng”; Trưởng đoàn nộp giấy giới thiệu của Cục chính trị Khu 5, rồi có cán bộ của Cục chính trị đến bồi dưỡng, học tập, dạy tụi em cách báo cáo thành tích với Bác Hồ…
- Vậy sao, vinh dự quá. Em có nhớ đoàn có hai bên Quân đội không?
- Trong mơ nhưng em vẫn nhớ, đoàn chúng em có anh Trần Đình ở Sư đoàn 2, Quân khu 5, không biết quê ở mô? Là anh hùng bắn máy bay làm Đoàn trưởng. Anh Trần Dưỡng, bộ đội tỉnh Quảng Ngãi, Anh hùng diệt Mỹ và anh hùng Đinh Banh, dân tộc De, bộ đội Đặc công tỉnh Quảng Ngãi, còn một số anh chị em khác em không nhớ mô. Anh nè, em đã diệt 40 tên Mỹ, chôn mìn làm cháy một xe tăng. Em còn bắn rơi 2 máy bay trực thăng Mỹ. Bà con cô bác gọi em là Anh hùng, có cái giấy của Cách mạng cho, có dấu máu ở bên dưới bảo là anh hùng. Cha em cho vô ống tre cuộn lá chuối đem chôn bảo rằng “bao giờ giải phóng miền Nam, thằng Mỹ cút mới được đem về nhà treo”. Ôi Bok Hồ - Bác Hồ đẹp như ông Tiên. Bác Hồ cho về Phủ Chủ tịch ăn cơm, thịt heo, cá kho, có quả cà, chua ngon hung đó. Bok Hồ bảo tụi em ăn nhiều vào còn đi đánh Mỹ, sau đó Bok Hồ ôm hôn em, hôn mọi người, rồi cho mỗi người một cái đồng hồ “bôn bốt” để đi rừng tính thời gian. Đây nè, eng vẫn giữ nó đây nè, kỷ niệm Bác cho không thể nào quên.
Tôi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác và thán phục Akay quá:
- Em hạnh phúc hơn anh rồi. Anh ở ngoài Bắc, gần Hà Nội, nhưng đã được gặp Bác Hồ đâu!
- Chúng em còn được cán bộ đưa đi tham quan hồ gì nhỉ? À, hồ Gươm. Ở giữa hồ có Tháp Rùa. Rồi chúng em được thăm bách hóa Tràng Tiền, cái gì cũng đẹp mà không có tiền mua. Lúc vào chợ Đồng Xuân, nhiều hàng hóa hung. Xe chở tụi eng qua cầu Long Biên, có con sông to hung. Chúng eng còn thăm vườn Bách Thú, người ta nhốt đủ thứ con. Ngày đó, máy bay Mỹ đang bắn phá miền Bắc, nên không được đi xa nữa. Tại sao miền Bắc giàu đẹp thế anh?
- À, là vì miền Bắc đang xây dựng Xã hội chủ nghĩa, làm ăn tập thể, có máy cày, mái kéo trợ giúp sức người. Lại không có chế độ bóc lột người. Lại thêm của cải vật chất do các nước Xã hội chủ nghĩa giúp.
- Người miền Bắc đẹp hung anh à!
- Akay cũng đẹp đó thôi!
Ngủ dậy sáng 30/4/1971, Akay lấy nứa khô làm cây đuốc soi đường lần vào mãi trong cùng hang. Một lúc em gọi tôi:
- Anh ơi vô đây coi này!
Tôi xách súng đi sâu vào hang, thấy một dãy hàng, toàn hòm gỗ. Tôi cầm đuốc soi kỹ: nào là đạn cối 82, cối 60, đạn ĐKZ, đạn B72, đạn ĐKB. Lùi vào trong nữa là những thùng mì chính, bột trứng, mỡ hóa học, lương khô, thịt hộp, một đống bao gạo. Tôi bảo Akay:
- Đây là kho hậu cần của quân giải phóng. Không có Thủ kho ở đây, ta cứ xin một ít về phòng khi chiến đấu.
Akay nhất trí. Chúng tôi chuyển một số hàng hóa đạn dược về hang và báo cho ông già biết.
(Còn nữa)
Đ.V.H
Trái tim người lính
Đặng Vương Hưng (Biên soạn và giới thiệu)