Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 37)

Trân trọng giới thiệu sách “Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007)” của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Thanh niên ấn hành.

Kỳ 37.

Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội tổ chức phong trào “Vô sản hoá”, đưa đảng viên vào lao động trong nhà máy, hầm mỏ để rèn luyện mình trở thành những người cộng sản, đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước, tạo tiền đề cho sự ra đời của Đảng Cộng sản.

          Do  chủ nghĩa Mác-Lê nin được truyền bá, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh đòi hỏi phải có chính đảng vô sản ra đời để lãnh đạo. Đảng Cộng sản ra đời trở thành đòi hỏi bức thiết của lịch sử.

b1a-vo-san-hoa-la-gi-81-1675067304.jpg

Tranh minh họa: Những năm 1924 - 1927, tại Quảng Châu- Trung Quốc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp học, lớp huấn luyện chính trị dành cho các thanh niên có lòng yêu nước, trong đó phần lớn các thanh niên đều là học sinh, trí thức yêu nước. Nguồn: Internet

 

 

          Tháng 3 năm 1929,  Chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở phố Hàm Long (Hà Nội) làm cơ sở cho ngày 7 tháng 6 năm đó Đông Dương cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc kỳ. Truyên ngôn và điều lệ của Đảng được công bố. Tờ “Búa liềm” cơ quan trung ương của Đảng ra đời. Đảng lập ra Công hội đỏ ở nhiều nơi. Dưới tác động của Đông Dương cộng sản Đảng, tháng 11 năm 1929, tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Nam Kỳ quyết định thành lập An Nam cộng sản Đảng, thông qua điều lệ và bầu ra ban chỉ đạo lâm thời do Châu Văn Liêm làm bí thư. Ngày1 tháng 1 năm 1930, Đảng Tân Việt cải tổ thành Đông Dương cộng sản liên đoàn ở Trung Kỳ.

          Sự tồn tại của 3 tổ chức cộng sản trong một nước sẽ khó tránh khỏi sự phân tán về tư tưởng, chia rẽ hành động. Cả 3 tổ chức đều tự nhận là chính đảng chân chính của giai cấp công nhân, ra sức vận động quần chúng theo mình. Sự chia rẽ này làm suy yếu lực lượng cách mạng. Thống nhất 3 tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản là một yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam. Điều này được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Quốc tế cộng sản quan tâm. Quốc tế cộng sản giao cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành một Đảng cộng sản. .

          Từ ngày 3 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930,  dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với tư cách đại diện Quốc tế  cộng sản, hội nghị thống nhất Đảng được họp trong căn nhà nhỏ của một gia đình công nhân tại Cửu Long (Hương Cảng) gồm hai đại diện của Đông Dương cộng sản Đảng và hai đại diện của An Nam cộng sản Đảng. Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua các văn kiện do Nguyễn Ai Quốc khởi thảo: Chính cương vắn tắt, Sách lược văn tắt, Điều lệ tóm tắt và Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ai Quốc gửi toàn thể nhân dân Việt Nam nhân dịp thành lập Đảng. Hội nghị cũng quyết định thành lập các tổ chức quần chúng của Đảng: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên cộng sản đoàn, Hội phụ nữ giải phóng, Hội cứu tế đỏ và thành lập Hội phản đế đồng minh (Mặt trận dân tộc thống nhất). Cuối tháng 2 năm 1930, Đông Dương cộng sản liên đoàn gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 7 năm 1930, đồng chí Trần Phú được bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương lâm thời.

          Từ ngày14 đến 31 tháng 10 năm 1930,  Ban chấp hành Trung ương lâm thời họp hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, cử ra Ban chấp hành Trung ương chính thức do đồng chí Trần Phú làm Tổng bí thư, thông qua Điều lệ và bản “Luận cương chính trị” do Trần Phú khởi thảo.

          “Luận cương chính trị” tháng 10 năm 1930 cùng với những văn kiện trong hội nghị thành lập Đảng tạo nên cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Những cương lĩnh chính trị đầu tiên này đều khẳng định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền. Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng này thì chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Cách mạng tư sản dân quyền làm hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập và ruộng đất cho nông dân. Các văn kiện đều khẳng định lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của họ là Đảng cộng sản lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin làm nền tảng tư tưởng. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho cách mạng thắng lợi. Phương pháp cách mạng là sử dụng bạo lực cách mạng quần chúng lật đổ chính quyền thực dân Pháp, giành lấy chính quyền. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải đoàn kết với vô sản thế giới, với vô sản Pháp và với các dân tộc bị áp bức. Tuy nhiên Luận cương chính trị tháng 10 -1930 hạn chế trong việc sắp xếp lực lượng cách mạng, chỉ thấy được vai trò của công, nông mà không thấy được mặt tích cực của tư sản dân tộc, tiểu tư sản, của một số cá nhân yêu nước trong giai cấp phong kiến để đoàn kết, lôi kéo họ vào mặt trận dân tộc thống nhất, cô lập cao độ kẻ thù chính nhằm đánh đổ chúng. Những hạn chế này của Luận cương sẽ được Đảng dần dần nhận thức và điều chỉnh trong quá trình cách mạng.

          Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời là một bước ngoặt trong lịch sử cách mạng Việt Nam, kết thúc quá trình khủng hoảng đường lối, khủng hoảng giai cấp lãnh đạo cách mạng, mở ra một thời đại mới, thời đại cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, theo đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương, đường lối sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lê nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Đảng ra đời cũng chứng minh quá trình tự giác của vô sản Việt Nam đã hoàn thành và bước lên vũ đài chính trị, độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

(Con nữa)

CVL

         

Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/lich-su-viet-nam-tu-tien-su-den-nam-2007-ky-37-a17469.html