Kỳ 58.
Giúp việc chuyên môn còn có các Ban do các Trưởng ban đứng đầu: Ban tổ chức, Ban tuyên giáo, Ban dân vận, Ban kiểm tra. Ở cấp huyện (quận, thị xã) Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện (quận, thị xã) bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ huyện (quận, thị xã) mà hạt nhân là Thường vụ huyện uỷ (quận ủy, thị ủy) đứng đầu là Bí thư huyện uỷ (Bí thư quận uỷ, Bí thư thị uỷ). Giúp việc chuyên môn cho huyện uỷ (quận uỷ, thị uỷ) có các Ban như Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo, Ban dân vận do các Trưởng ban đứng đầu. Còn có Văn phòng Huyện uỷ (quận uỷ, thị uỷ) do Chánh, Phó văn phòng đứng đầu. Ở cấp xã (phường, thị trấn), Đại hội đại biểu Đảng bộ xã (phường, thị trấn) bầu ra Ban chấp hành Đảng uỷ xã (phường, thị trấn) đứng đầu là Bí thư đảng uỷ xã (phường, thị trấn).
Ngoài ra các tổ chức Đảng còn được thành lập ở tất cả các cơ quan, các trường học, trong quân đội, trong công an, cảnh sát. Cách thức tổ chức như vậy bảo đảm cho sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng. Đơn vị nhỏ nhất của tổ chức Đảng là chi bộ Đảng mà hạt nhân là Ban chi uỷ đứng đầu là Bí thư chi bộ do Đại hội đảng viên bầu ra. Trong cách mạng tháng 8-1945 Đảng ta chỉ có 5.000 đảng viên mà đã lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công, lật nhào ách thống trị của phát xít, thực dân, phong kiến. Ngày nay với 3 triệu Đảng viên, Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối hệ thống chính trị và toàn xã hội trong công cuộc đổi mới và công cuộc bảo vệ tổ quốc. Sức mạnh của Đảng chính là sức mạnh của toàn dân, của dân tộc, từ niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Đó là chân lý, là qui luật lịch sử bất di bất dịch . Cùng với sự phát triển của đất nước, của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng ngày càng phát triển về mọi mặt. Ví như về số lượng năm 1930 Đảng có 560 đảng viên, năm 1945 có 5.000 đảng viên, Đại hội 2 năm 1951 có 766.349 đảng viên, Đại Hội 3 năm 1960 có 50 vạn đảng viên, Đại hội 4 có 1,4 triệu, Đại hội V có 1,7 triệu, Đại hội VI có 1,9 triệu, Đại hội VII có 2,1 triệu, Đại hội VIII có 2.130.000 đảng viên, Đại hội IX có 2,4 triệu, Đại hội X ta có 3,1 triệu đảng viên. Về tên gọi, từ 3-2-1930 đến tháng 10-1930 là Đảng Cộng sản Việt Nam, từ tháng 10-1930 đến năm 1951 là Đảng Cộng sản Đông Dương, từ 1951 đến 1960 là Đảng Lao động Việt Nam và từ 1960 đến nay là Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngoài xây dựng nhà nước và hệ thống chính trị, ta đã ra sức xây dựng một hệ thống pháp luật, trong đó đã xây dựng các bản Hiến pháp qua các thời kỳ làm đạo luật cơ bản. Hiến pháp đầu tiên là hiến pháp năm 1946 được Quốc hội khóa I thông qua trong kỳ họp 2 . Hiến pháp này đã xác định chế độ chính trị là nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân. Lần đầu tiên Hiến pháp qui định quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, bao gồm quyền chính trị, quyền lợi về kinh tế, quyền học tập. Công dân phải có nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp qui định hoạt động tổ chức của bộ máy nhà nước. Hiến pháp qui định điều kiện để sửa đổi Hiến pháp, đó là phải được 2/3 số đại biểu Quốc hội yêu cầu và phải được toàn dân phúc quyết. Hiến pháp năm 1946 đánh dấu sự phất triển của pháp luật Việt Nam, làm cơ sở để xây dựng hệ thống pháp luật và nhà nước cộng hoà. Hiến pháp 1946 còn là cương lĩnh để tập hợp lực lượng kháng chiến .
Hiến pháp 1959 được Quốc hội khoá 1 thông qua trong kỳ họp thứ 1, được công bố ngày 1-1-1960. Hiến pháp gồm lời nói đầu, 10 chương, 112 điều. Hiến pháp 1959 qui định bản chất nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng công nông liên minh do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hiến pháp 1959 xác định mục tiêu cơ bản đường lối kinh tế, xác định quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Hiến pháp cũng qui định về tổ chức bộ máy nhà nước.
Hiến pháp 1980 được thông qua bởi Quốc hội khoá 6 ngày 18-12-1980, công bố ngày 19-12-1980 gồm lời nói đầu, 12 chương, 147 điều. Hiến pháp khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và hệ thống chính trị, khẳng định quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Hiến pháp đã thể chế hoá đường lối xây dựng kinh tế mới, văn hoá mới, con ngươì mới và xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Hiến pháp khẳng định quyền và nghĩa vụ của công dân, qui định cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước .
Hiến pháp 1992 do Quốc Hội khoá VIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992 bao gồm lời nói đầu, 12 chương và 147 điều. Hiến pháp đã khẳng định thành tựu về mọi mặt qua nhiều năm đổi mới, khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đời sống xã hội và hệ thống chính trị. Qui định cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước có nét khác với hiến pháp 1980 như không còn chức danh Hội đồng nhà nước. Hội đồng Bộ trưởng được gọi là Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu. Hiến pháp qui định sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Hiến pháp 1992 là cột mốc lịch sử trong quá trình phát triển của dân tộc trong thời kỳ đổi mới.
Trên cơ sở Hiến pháp, chúng ta đã ra sức xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền. Luật Hiến pháp bao gồm các luật liên quan đến điều chỉnh các quan hệ quyền lực nhà nước như luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ta đã xây dựng các Bộ luật dân sự, Luật hình sự, Lụât tố tụng, Luật về kinh tế, Luật về văn hoá, Luật về xây dựng quốc phòng và an ninh .
Với công cụ là hệ thống chính trị mà nòng cốt là nhà nước đã thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Đối nội, nhà nước đã tổ chức, động viên, quản lý nhân dân xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội hướng tới thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo đối với nông thôn, thực hiện chính sách ưu tiên phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội đối cho các dân tộc thiểu số với các dự án chương trình 134, 135. Năm 2007 đã nâng cấp cơ sở nông thôn miền núi, xây dựng được 4.213 công trình cơ sở hạ tầng, góp phần nâng tỉ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm 96%, 97% xã miền núi có trạm y tế, 84% số xã có đủ trường lớp tiểu học và trung học cơ sở, 90% xã có điện lưới quốc gia, 81% số xã có công trình thuỷ lợi nhỏ. Năm 2007 cũng đã hỗ trợ 330.293 nhà ở cho đồng bào nghèo dân tộc thiểu số, đã giải quyết đất cho 78% số hộ với 74% diện tích theo kế hoạch, giải quyết đất sản xuất cho 70.549 hộ với diện tích 25.151ha. Năm 2008 chương trình 135 có vốn 3.043 tỉ đồng, trong đó vốn cho các xã dặc biệt khó khăn là 1.976 tỉ, vốn cho thôn bản đặc biệt khó khăn khu vực 2 là 635 tỉ, vốn cho các nhiệm vụ khác 432 tỉ đồng. (Báo Đại đoàn kết số 179 –2007). Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với những gia đình thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước. Tỉ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh từ 17% năm 2000 xuống còn 7% năm 2005. Theo chuẩn mới tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 22% đầu 2006 đến 2007 còn khoảng 14,87%. Đời sông nhân dân, nhất là các vùng nông thôn được cải thiện rõ rệt. Chính phủ cũng cương quyết cùng nhân dân chống bão lũ lụt, hỗ trợ kịp thời để khắc phục và giảm thiểu khó khăn, kiên quyết ngăn chặn và dập tắt các ổ dịch gia cầm, gia súc hoành hành dữ dội vào những năm cuối thê kỷ XX. Cấm và loại bỏ hoàn toàn hủ tục đốt pháo trong những ngày Tết Nguyên đán, kiên quyết trấn ấp các loại tội phạm, nhiều biện phạm quyết liệt để giảm thiểu tai nạn giao thông, qui định việc đội mũ bảo hiểm xe máy trở thành bắt buộc của pháp luật đối với người tham gia giao thông. Chính phủ đề ra nhiều chính sách để giải quyết nạn thất nghiệp. Năm 2003 nhà nước đã tạo được việc làm cho 1.325.000 người, năm 2007 đạt 1.700.000 người, đạt 105,3% kế hoạch (thời báo kinh tế Việt Nam số tháng 2-2008) .
Về đối ngoại, đang trên lộ trình xây dựng đường biên giới hữu nghị hoà bình với các nước láng giềng Cam pu chia, Lào, Trung Quốc. Việt Nam đã xây dựng được tình hữu nghị với các nước Đông Nam Á và gia nhập khối “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á” (ASEAN ) năm 1995, xây dựng tình hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới. Đầu năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và ngày 16-10- năm 2007 được bầu làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, được tham gia vào cơ quan quyền lực cao của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, góp phần giải quyết vấn đề hoà bình và an ninh thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao với 167 nước, trong đó có 50 nước ở cấp đại sứ. Viêt Nam là thành viên của ASEAN, Khối cộng đồng Pháp ngữ, Diễn đàn hợp tác kinh tế các nước châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (PECC), Liên hợp quốc. Nhà nước Việt Nam khẳng định cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của Cộng đồng dân tộc Việt Nam. Năm 2007, nước ta cũng đã thực hiện miễn thị thực nhập cảnh đối với Việt kiều .
(Còn nữa)
CVL
PGS TS Cao Văn Liên
Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/lich-su-viet-nam-tu-tien-su-den-nam-2007-ky-58-a17713.html