Vĩnh biệt Nhà văn Nguyễn Hiếu - Một khát vọng kịch

Thật đột ngột, bạn đồng môn k11 Ngữ văn Đại học tổng hợp của tôi, nhà văn, nhà viết kịch Nguyễn Hiếu vừa đột ra đi sau một cơn suy tim 10 h 50 sáng nay, 5/3, thọ 75 tuổi (1948-2023). Tôi thật nhạt lòng vì không hiểu bạn mình đã có 5 tel trong tim, có thể ra đi bất cứ lúc nào. Nhớ anh xin đưa bài tôi viết nhân 10 năm xuất bản bộ tuyển tập Nguyễn Hiếu 10 tập (2010-2020). Mong anh ra đi thanh thản.

 1.

Nhà văn Nguyễn Hiếu thường nói mình sở trường về văn xuôi, mạnh về tiểu thuyết. Điều ấy, Hiếu không nói thì những ai quan tâm đến văn chương nước nhà đều biết. Cách đây đúng 10 năm, năm 2010, nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Nhà xuất bản Hà Nội đã cho xuất bản Tuyển tập Nguyễn Hiếu với 10 tập hơn 6000 trang, trong đó có đến 6 tuyển tập tiểu thuyết, 2 tuyển tập truyện ngắn, 1 tuyển thơ, 1 tuyển kịch. Cho đến nay, đây vẫn là một sự kiện gây chấn động rất lớn làng văn chương và xuất bản Việt Nam. Chưa bao giờ một tác giả đang sống mà lại có một tuyển tập văn chương đồ sộ như vậy. Các tên tuổi lớn nhiều thế hệ vào hàng cổ điển của văn chương Việt Nam cũng chưa từng ai có được vinh dự như Nguyễn Hiếu, một nhà văn còn rất ít được biết cho đến lúc đó.

b1nh1-1678328563.jpg

Nhà văn Nguyễn Hiếu. Ảnh do tác giả cung cấp.

 

Tuy vậy, khi chịu khó đọc bộ tuyển tập, nhất là các tuyển tập tiểu thuyết và truyện ngắn, đa số những người công tâm, nhất là các cây bút văn xuôi hàng đầu, đều công nhận bộ tuyển tập của nhà văn quê gốc ở Phùng Khoan và làng Chèm, ngoại thành Hà Nội này là một phát hiện tinh tường, rất đáng được Nhà xuất bản Hà Nội thực hiện trang trọng như vậy nhân dịp đại lễ của Thăng Long – Hà Nội, đặc biệt là 6 tuyển tập tiểu thuyết. Phải nói, hàng loạt tiểu thuyết của Nguyễn Hiếu trong các tuyển tập đó như “Vết xoáy trên ngực làng”, “Dòng sông màu máu vẫn chảy”, “Con ngố”, “Tình nhân”, “Chuyện tình người điên”, “Người đàn bà quỷ ám”, “Chân trời vỡ đôi”, “Bốn bước đến chân trời”, “Lặng lẽ cuối cùng”, “Những mảnh trần gian”, “Tôi bán mình”, “Tuyết lạnh sau mặt trời”…làm không ít người, trong đó có những tiểu thuyết gia rất “hot” trên văn đàn, choáng ngợp bởi dung lượng lớn lao, sức ám ảnh mạnh mẽ của hiện thực đời sống, của những phận người được phản ánh, sự phong phú, biến hóa, hiện đại, phá vỡ mọi ranh giới các trường phái văn chương của bút pháp. Nhà văn Ma Văn Kháng từng khâm phục gọi Nguyễn Hiếu là “Lực sĩ của văn xuôi Việt” bởi số lượng tác phẩm “thì trao giải nhất chi nhường cho ai” của anh. Nhà văn Chu Lai.thì không mấy chú ý đến số lượng, điều làm ông kinh ngạc là cái chất lượng đáng nể trong khối số lượng không ai sánh nổi đó của Nguyễn Hiếu. Ông khẳng định: “Một lực sĩ văn xuôi là một danh xưng đáng tôn vinh. Nhưng một nhà văn biết chắt chiu, nghiêm cẩn với từng con chữ của mình lại còn đáng tôn vinh hơn. Cảm nhận đầu tiên và ấn tượng khá mạnh về tác giả này là sự táo tợn, táo tợn trong ý tưởng và trong cách triển khai, táo tợn cả về nội dung lẫn hình thức. Có cảm giác Hiếu không tuân thủ theo bất kỳ một khuynh hướng sáng tác nào nhưng tìm trong đó lại có tất cả các khuynh hướng, phong cách”.

2.

Tưởng những gì Nguyễn Hiếu đã làm được trong thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn đã là không tưởng với một nhà văn hiện đại: 25 cuốn tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn. Nhưng thật kỳ lạ, cái khối lượng khổng lồ ở cái thể loại mà Nguyễn Hiếu tự hào là sở trường, là thế mạnh của mình đó vẫn phải chào thua nếu so với những gì anh đã làm được với thể loại kịch, thể loại văn học thường được coi là khó nhất, thể loại có vẻ Nguyễn Hiếu không coi là sở trường của anh: Trong hơn 40 năm cầm bút, Nguyễn Hiếu đã viết đến hơn 70 kịch bản dài và gần 300 kịch bản ngắn loại kịch truyền thanh. Trong lịch sử sân khấu nước nhà cả xưa và nay, chưa có nhà soạn kịch nào viết nhiều đến thế. Xưa, như hậu tổ tuồng Đào Tấn kể cả sáng tác, nhuận sắc cũng chỉ có khoảng 40 kịch bản. Nay, như Lưu Quang Vũ, Nguyễn Khắc Phục nhiều nhất cũng chỉ hơn 50 kịch bản. Trong những kịch bản đã viết, ngoài 300 kịch bản kịch truyền thanh viết theo đặt hàng của cơ quan anh làm việc từ ngày anh tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội cho tới khi nghỉ hưu là Đài Tiếng nói VN, đã được Đài đưa lên sóng phục vụ nhân dân, có 10 kịch bản kịch dài của Nguyễn Hiếu được dàn dựng thành 12 vở diễn trên sàn diễn của Đoàn Kịch Công nhân Hà Nội, Nhà hát kịch VN, Nhà hát Chèo Quân đội, Nhà hát Múa rối VN, Đoàn Kịch Hà Nam Ninh, Đoàn Cải lương Nam Định, Đoàn Chèo Quảng Ninh, Câu lạc bộ Hội Nghệ sĩ Sân khấu VN, Chương trình sân khấu Đài Truyền hình VN. Trong số này có những vở diễn gây được ấn tượng sâu đậm với khán giả hay đạt được những giải thưởng Sân khấu vinh dự như các vở “Linh hồn đông lạnh”, “Hàng rào giữa hai nhà”, “Kiều” (Nhà hát kịch VN), “Người thầy của muôn đời” (Nhà hát Chèo Quân đội), “Thân phận nàng Kiều” (Nhà hát Múa rối VN), “Tấm Cám” (Sân khấu kịch Lệ Ngọc)…

“Người thầy của muôn đời” là vở diễn từ kịch bản “Thầy Chu” của Nguyễn Hiếu viết về danh sư Chu Văn An và câu chuyện “Thất trảm sớ” nổi tiếng trong sử Việt. “Cái nghiên, cây bút trông hiền lành vậy thôi nhưng sẽ là khởi đầu cho giông tố làm trời đất cuồng xoay”, tư tưởng của tác giả đã bộc lộ qua lời đề từ, mượn lời nhân vật Văn Xương Thuỷ thần đầm Cung Hoàng nói với Chu Văn An trong kịch bản. Đây là kịch bản lấy xưa nói nay rất thuyết phục của Nguyễn Hiếu với chủ đề trách nhiệm của người trí thức trước thời cuộc. Kịch bản mô tả khá sinh động triều đại của một vị vua hôn quân với các quan là bè lũ ô lại đang tâm bóc lột người dân đến kiệt cùng, sẵn sàng chà đạp luân thường đạo lý, mọi giá trị cao đẹp của cuộc đời để mặc sức ăn chơi phè phỡn. Kịch bản cũng đã lý giải tinh thần phê phán triệt để, quyết tâm mạnh mẽ trừ diệt tham quan bằng “thất trảm sớ|” của Chu Văn An là do vị danh sư đã đi vào cuộc sống của người dân, thấy hết nỗi khổ sở, cay đắng của nhân dân, đã lắng nghe được khát vọng công lý cháy bỏng của họ. Nguyễn Hiều từng tâm sự động lực của anh khi viết kịch bản này là sự vất vả, bất an của nhân dân ta trước bọn tham quan ô lại thời nay.

Với tài năng của đạo diễn Doàn Hoàng Giang và các nghệ sĩ xuất sắc của chiếu chèo hàng đầu đất nước là Nhà hát Chèo Quân đội, “Người thầy của muôn đời” đã đứng đầu bảng huy chương vàng của Hội diễn Sân khấu chèo toàn quốc năm 2013 tại thành phố Hải Phòng, rồi được trao giải thưởng “Vở diễn sân khấu xuất sắc nhất” cùng năm của Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật VN.

“Tấm Cám” là kịch bản Nguyễn Hiếu viết theo đặt hàng của sân khấu Lê Ngọc, sân khấu kịch nói tư nhân đầu tiên ở Hà Nội, từ khi xuất hiện đã làm sôi động hẳn hoạt động sân khấu vốn khá im ắng phía Bắc đất nước với các vở diễn không hề là hàng “chợ” nhưng thường rất ăn khách. Chuyện cổ tích “Tấm Cám” đã từng được đưa lên sân khấu kịch hát truyền thống, lên phim nhưng chưa hề được đưa lên sân khấu kịch nói bởi không ít người nghĩ nó không thích hợp với thể loại sân khấu này. Nhưng Nguyễn Hiếu thì không nghĩ không thể đưa lên sàn diễn kịch nói nước nhà chuyện cổ tích mà GS Đinh Gia Khánh, người thầy của anh thời Tổng hợp Văn, coi là tuyệt diệu hơn bất cứ áng văn chương hiện đại nào Để cho vở kịch giàu tính nhân văn hơn, phù hợp với cả đối tượng khán giả người lớn và trẻ em, Nguyễn Hiếu mạnh dạn từ bỏ chi tiết trả thù tàn bạo của Tấm, để Tấm xin hoàng tử tha tội cho mẹ con Cám, cũng như thay thế nhân vật ông Bụt thành hồn của mẹ Tấm, biến thông điệp “ác giả ác báo” của truyện cổ tích thành thông điệp của vở kịch mà anh muốn đưa đến khán giả: “Tình yêu thương và sự bao dung sẽ hóa giải tất cả”. Kịch bản “Tấm Cám” giàu tinh thần hiện đại nhưng vẫn giữ được hồn cốt của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam, không khí lãng mạn của cổ tích, màu sắc văn hóa truyền thống dân tộc, đã được đạo diễn Singapore Chua Soo Pong, Chỉ đạo nghệ thuật: NSND Lệ Ngọc và các nghệ sĩ của sân khấu Lệ Ngọc thực hiện trên sân khấu hết sức sinh động, tạo nên một trong những vở diễn ăn khách nhất của thương hiệu kịch này. Mùa hè năm 2019, vở diễn sốt vé suốt mấy tháng trời ngay tại thủ đô Hà Nội, dù có ngày phải diễn ba xuất. Sân khấu Lệ Ngọc cũng đã đem “Tấm Cám” tham dự Liên hoan Sân khấu Trung Quốc - Asean trong năm 2019 và đoạt Giải thưởng Hoa Dâm bụt, Giải thưởng dành cho các vở diễn xuất sắc nhất Liên hoan.

Đơn vị sân khấu dựng nhiều kịch bản sân khấu của Nguyễn Hiếu nhất cho đến nay chính là anh cả đỏ của kịch nói đất nước: Nhà hát Kịch Việt Nam với ba kịch bản “Linh hồn đông lạnh” (2008, đạo diễn NSUT Đỗ Kỷ), “Hàng rào giữa hai nhà” (2011, đạo diễn NSND Lê Hùng) và “Kiều” (2017, đạo diễn NSND Anh Tú).

Có thể nói “Linh hồn đông lạnh” là một kịch bản khá độc đáo của Nguyễn Hiếu. Không ít người nói đây là kịch bản theo đề tài viễn tưởng đầu tiên của sân khấu Việt Nam. Nhưng ở đây các yếu tố viễn tưởng như sự phục sinh của con người sau khi chết 50-60 năm, các tiện lợi cũng như trớ trêu của cuộc sống khi mọi thứ đều được mã hóa, con người di chuyển bằng tốc độ vũ trụ, muốn gì được nấy về mặt vật chất, chỉ là những giả định không mấy quan trọng với tác giả. Điều quan tâm chính của tác giả không phải ở những điều xa xôi ở tương lai mà chính là những cái ác và điều thiện, cái giả và cái thật, những gian khổ và hạnh phúc mà con người đã từng nếm trải và đấu tranh để né tránh hay giành lấy trong quá khứ và hiện tại. Như Nguyễn Đình Thi từng làm trong thơ, Nguyễn Hiểu chỉ thử du khảo về “bên ấy”, rồi “Nhìn về từ bên ấy” để khẳng định một chân lý: xã hội loài người dù tiến bộ đến đâu về vật chất về kỹ thuật thì tình yêu, lòng nhân ái, sự lương thiện luôn được bảo vệ, đề cao. Không may cho “Linh hồn đông lạnh”, là nó được dựng giữa lúc Nhà hát kịch VN gặp nhiều biến động về tổ chức, đạo diễn Đỗ Kỹ bị chuyển công tác khi chưa có điều kiện săn sóc vở diễn đến nơi đến chốn nên nó đã sớm “đông lạnh” thật đáng tiếc ngay sau khi ra đời.

May mắn hơn “Linh hồn đông lạnh”, chỉ được dựng sau 4 năm viết xong, kịch bản “Hàng mồng tơi gãy rập” của Nguyễn Hiếu vừa được giải B về kịch bản xuất sắc của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam năm 2010, đã được đạo diễn NSND Lê Hùng dựng trên sân khấu Nhà hát kịch VN giữa năm 2011 với tên gọi “Hàng rào giữa hai nhà”, có đời sống sân khấu lâu dài hơn. Đây là kịch bản giàu chất hiện thực của Nguyễn Hiếu, một tấn bi hài kịch cho biết công cuộc đô thị hóa và nền kinh tế thị trường hoang dã đã tàn phá thật khủng khiếp tình làng nghĩa xóm trong các làng quê Việt Nam như thế nào. Chuyện kịch bắt đầu từ mối tình rất đẹp của chàng Chén và nàng Vàng trong hai gia đình láng giềng ở cái làng Chiện quen thuộc trong tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch Nguyễn Hiếu, chỉ cách nhau cái hàng rào có “dậu mùng tơi xanh rờn” như thơ Nguyễn Bính, luôn có nhau khi "tắt lửa tối đèn", bỗng trở thành bi kịch khi “hàng mồng tơi gãy rập” vì tương tàn do tranh giành đất đai để đổi đời, gây nên án mạng và tình trạng “không đội chung trời” của hai nhà. Đôi bạn trẻ Chén và Vàng vì bảo vệ mối tình của họ đã buộc phải rời bỏ quê hương để ra chốn thị thành cạm bẫy với cảm nhận đầy tuyệt vọng "Đây không còn là làng của mình như trước nữa rồi".

Kịch bản “Hàng mồng tơi gãy rập” của Nguyễn Hiếu khá thành công trên sân khấu Nhà hát kịch Việt Nam nên sau đó hai năm, năm 2013, đã được NSND Lê Hùng dựng lại cho Đoàn Cải lương Nam Định.

Tuy vây, Nguyễn Hiếu chỉ thực sự thành công ở đơn vị sân khấu Quốc gia này với kịch bản “Kiều”, kịch bản anh viết từ đặt hàng của NSND Anh Tú, được đạo diễn này dàn dựng năm 2016.

Kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du, niềm tự hào của văn học dân tộc, đã được đưa lên sân khấu Việt Nam từ lâu trong các thể loại cải lương, dân ca kịch của nhiều đơn vị sân khấu Bắc Nam trong nhiều thời, nhưng cũng như truyện cổ tích “Tấm Cám”, kiệt tác này chưa bao giờ được thể loại kịch nói thực sự quan tâm. NSND Anh Tú, người đã dám biến “cái không thể thành có thể” là đưa thành công kịch thơ của thi sĩ Hoàng Cầm lên sân khấu hiện đại, cũng đã từ lâu ôm ấp nguyện vọng thực hiện bằng được một vở kịch nói về nàng Kiều vĩ đại. Và khi nắm quyền chỉ đạo nghệ thuật ở Nhà hát kịch VN, Anh Tú đã mời Nguyễn Hiếu đến và đặt anh viết kịch bản về Kiều và Anh Tú rất tâm đắc với chủ đề “cái đẹp bị vùi dập” mà Nguyễn Hiếu đưa ra..

Để thể hiện trường thiên tiểu thuyết bằng thơ của Nguyễn Du lên sân khấu kịch nói, Nguyễn Hiếu quyết định sử dụng kết cấu tự sự của sân khấu kịch Bertolt Brecht và sân khấu truyền thống Việt Nam với thủ pháp dẫn chuyện bằng dàn đồng ca, và cách điệu trong xử lý không gian và thời gian sân khấu. Dàn đồng ca trong kịch bản này khi là toán người đi du xuân trong tiết thanh minh, khi là đám kĩ nữ trong lầu xanh của Tú Bà, khi là binh sĩ của Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, khi là đám sai nha…

Tuy vậy, sáng tạo Nguyễn Hiếu tâm đắc nhất mà anh cho là mấu chốt thành công khi viết kịch nói “Kiều” chính là việc anh tạo ra nhân vật “Thằng bán tơ” chỉ từ bốn câu thơ của Nguyễn Du “Hỏi ra sau mới biết rằng/Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ/một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ/tiếng oan dậy đất, oán ngờ lòa mây”. Tuy ngoài bốn câu thơ trên Nguyễn Du không cho biết gì thêm dấu tích, lai lịch của nhân vật “thàng bán tơ” này, nhưng Nguyễn Hiếu lại cho đây là nhân vật rất quan trọng, làm ra mâu thuẫn kịch, gắn với chủ đề kịch nên không thể chỉ là một cái tên phiếm chỉ trên sân khấu. Bởi vậy, anh đã dành nhiều công phu để xây dựng nhân vật thằng bán tơ và động cơ hắn vu oan giá họa cho Vương ông, tạo nên cuộc “bán mình chuộc cha” và 15 năm lưu lạc của nàng Kiều. Nhân vật này được coi là hiện thân của một thói xấu muôn thuở của con người: lòng tỵ hiềm, sự hiểm ác, thói ghen ăn ghét ở, coi việc gieo rắc đau khổ cho người khác là khoái lạc của mình. “Thằng bán tơ” vừa là nhân vật động lực vừa cụ thể hóa thêm chủ đề “Cái đẹp bị vùi đập”: Không phải bởi chế độ phong kiến như một thời chúng ta từng nói, cũng không phải vì “chữ tài đi với chữ tai một vần” như lời cụ Nguyễn mà cái đẹp gồm cả sắc- tài - tâm của Kiều đã bị chính những thói hư tật xấu của con người vùi dập, đày đọa không thương tiếc.

Tất cả các sáng tạo tâm đắc đó của Nguyễn Hiếu trong kịch bản “Kiều” là cơ sở quan trọng để đạo diễn NSND Anh Tú, các nghệ sĩ của Nhà hát kịch VN cùng đạo diễn, NSND Nguyễn Tiến Dũng và các nghệ sĩ Nhà hát Múa rối VN tiếp nhận đầy trân trọng, hình thành nên vở kịch nói “Kiều” và vở múa rối cạn “Thân phận nàng Kiều” (NSUT Lê Chức chuyển thể rối) đều rất thành công và để lại dấu ấn sâu đậm trên đời sống sân khấu VN.

Vở kịch nói “Kiều “ của Nhà hát kịch VN được trao giải “Vở diễn sân khấu xuất sắc nhất” của Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2017, mở ra một giai đoạn các loại hình nghệ thuật biểu diễn đua nhau làm sống lại kiệt tác của Nguyễn Du trên sân khấu trong thế kỷ 21.

Còn vở múa rối “Thân phận nàng Kiều” của Nhà hát Múa rối VN, thì được dư luận coi là tác phẩm sân khấu hay nhất về Truyện Kiều trong lịch sử, trở thành vở diễn gây ấn tượng mạnh nhất trong Liên hoan Sân khấu Thữ nghiệm Quốc tế tại Hà Nội lần thứ IV, đứng đầu bảng vàng Liên hoan, được bạn bè trong nước và thế giới tham dự Liên hoan rất khâm phục…

3.

Kể ra, với một nhà văn viết kịch như Nguyễn Hiếu, thì có 12 vở diễn từ kịch bản của mình cũng là không tồi nếu so với hai nhà văn viết kịch thượng thặng là Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi, hai vị này chỉ được non 10 vở. Nhưng bản thân Nguyễn Hiếu thì chưa thể hài lòng vì số lượng đó là quá ít so với 70 kịch bản anh đã viết ra với bao hy vọng được đóng góp xứng đáng cho nền sân khấu đất nước. Nguyễn Hiếu từng tự hào anh nằm trong số không nhiều nhà văn sống được bằng nhuận bút tác phẩm, nhưng đó là anh nói đến nhuận bút ở thể loại tiểu thuyết, khi nhiều năm cái tên anh rất “hot” với độc giả và các nhà xuất bản liên tục đặt hàng anh. Còn ở thể loại kịch, Nguyễn Hiếu không may mắn như thế, dù anh thừa nhận đó là thể loại mà anh theo đuổi với tất cả sự đam mê, nhọc nhằn, nhiều trồi sụt, hy vọng rồi thất vọng trong nửa thế kỉ sáng tác văn học của mình.

Thực ra, Nguyễn Hiếu say mê kịch Shakespeare khi còn học phổ thông và đã bắt chước nhà soạn kịch vĩ đại người Anh tập viết kịch ngay từ khi đó. Năm 1976, kịch bản đầu tiên của anh "Chuyện như thế thì cần phải nói” đến tay nhà văn, nhà soạn kịch kiêm đạo diễn Lộng Chương và được bậc thầy của sân khấu Việt Nam đem dàn dựng cho Đoàn kịch Công nhân Hà Nội. Vở kịch khá thành công, gây được tiếng vang, và đây cũng là thời gian Nguyễn Hiếu được gặp nhà thơ Thế Lữ, Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu VN, được Thế Lữ đọc kịch bản, góp cho nhiều ý kiến quý giá về nghệ thuật biên kịch và động viên anh hãy theo đuổi nghề viết kịch mà theo Thế Lữ, Hiếu rất nhiều triển vọng đi xa. Được sự động viên và nghe lời Thế Lữ, Hiếu lao vào viết kịch như điên Từ đó đến năm 1990, Nguyễn Hiếu đã viết gần hai chục kịch bản nhưng tất cả đều nẳm im lặng trong ngăn kéo bàn làm việc của anh, không có vở nào được các đoàn sân khấu hay các đạo diễn sân khấu ngó ngàng. Mãi đến năm 1990, tức 16 năm sau, khi hai đạo diễn Lê Chức và Trịnh Quang Khanh vừa tốt nghiệp từ Liên xô về, muốn dựng vở ra mắt tại quê nhà, hai kịch bản “Bốn trái tim đau” và ”Hơn cả vàng mười” mới được hai ông này chọn dựng cho Câu lạc bộ Hội Nghệ sĩ Sân khấu VN (“Bốn trai tim đau”, Lê Chức) và Đoàn kịch nói Hà Nam Ninh (“Hơn cả vàng mười”, Trịnh Quang Khanh). Nhưng tất cả cũng chỉ có thể, Nguyễn Hiếu vẫn viết kịch rồi tiếp tục cay đắng cho vào ngăn kéo thêm 18 năm nữa. mãi đến năm 2008, cái kho kịch bản phủ bụi của Nguyễn Hiếu đã lên đến hơn 60 cái thì NSUT Đỗ Kỷ mới tìm đến và lôi “Linh hồn đông lạnh” ra đựng cho Nhà hát kịch VN.

Đọc vài chục kịch bản Nguyễn Hiếu đã viết, tôi mới hiểu những kịch bản đã được dàn dựng chưa phải là những kịch bản hay nhất, đáng tự hào nhất của anh. Sân khấu Việt Nam, nền sân khấu mấy mươi năm nay luôn kêu là thiếu kịch bản hay quả đã lãng phí cả một kho tàng kịch bản hay chưa được dàn dựng của nhà văn Nguyễn Hiếu. Tôi có thể liệt kê ngay nhiều kịch bản như thế: “Trong chiến tranh không có huyền thoại”, “Cu Tũn thích làm người lớn”, “Khi cánh đòng trở lại màu xanh lúa:, “Có những bông đào mãi nở”, “Điều kiện làm cha mẹ”, “Cuộc đời”, “Tình yêu của kẻ biến hình”, “Mạc Đăng Dung, ông vua làng chài”, “Cô gái điềm gầm cầu”…

Tôi thử ví dụ về kịch bản “Trong chiến tranh không có huyền thoại”, Nguyễn Hiếu viết năm 1988, tức là gần như cùng lúc nhà văn Bảo Ninh cho xuất bản tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”. Về một mặt nào đó, những phận người và những bi kịch của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại được Nguyễn Hiếu thể hiện trong kịch bản “Trong chiến tranh không có huyền thoại” cũng bất ngờ, táo bạo, dữ dội, đau đớn chẳng kém “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Tuy vậy, kịch bản của Nguyễn Hiếu thì cứ nằm im trong ngăn kéo hơn 20 năm qua trong khi tiểu thuyết của Bảo Ninh rất được hoan nghênh cả trong và ngoài nước. Tôi cam đoan rằng nếu bây giờ, chỉ cần sữa chữa chút ít rồi đưa vào dự thi cuộc vận động viết về chiến tranh cách mạng, kịch bản này chắc chắn sẽ được trao giải nhất và sẽ được Nhà hát kịch Quân đội dàn dựng ngay để thay thế cho khá nhiều vở diễn nhạt nhẽo, công thức mà họ dàn dựng nhiều năm qua.

Hay như kịch bản “Cu Tũn thích làm người lớn”, Nguyễn Hiếu viết năm 1991, là một kịch bản đề tài thiếu nhi rất hấp dẫn, nhiều sáng tạo mới lạ, rất có triển vọng trở thành một vở diễn xuất sắc cho thiếu nhi của sân khấu Việt Nam, từng làm xôn xao các nghệ sĩ Nhà hát Tuổi trẻ thời gian đó, nhưng rồi các cấp duyệt dựng vở cho rằng kịch bản thiếu tính hiện thực nên đành bị xép xó, rồi bị quên lửng luôn từ đó đến giờ…

Ngay hai kịch bản được sáng tác nhưng năm gần đây của Nguyễn Hiếu là “Mạc Đăng Dung, ông vua làng chài” và “Cô gái điếm gầm cầu”, một đề tài lịch sử, một đề tài hiện đại, được viết rất công phu, có nhiều sáng tạo mới mẻ, bất ngờ, mang giá trị nội dung, nghệ thuật cao, có tính thời sự nóng bỏng nhưng cũng chẳng có ma nào đụng đến. “Mạc Đăng Dung” là một kịch bản lịch sử nói về một ông vua chân đất ý thức được trách nhiệm với đất nước với nhân dân, sẵn sàng hy sinh lợi ích bản thân và dòng tộc, biết trọng dụng hiền tài, dù chưa được chính sử công nhận nhưng thực sự bất tử trong lòng dân. So với kịch bản về Chu Văn An, kịch bản này còn hay hơn về nhiều mặt. Nhưng không hiểu sao, người ta đã bỏ nhiều công phu để minh oan cho triều Mạc, đặt tên Mạc Thái Tổ cho một con đường lớn ở thủ đô nhưng lại bỏ qua một kịch bản xuất sắc như thế về vị vua này. Còn “Cô gái điếm gầm cầu” thì lại nói về vẻ đẹp tinh thần của những con người dưới đáy xã hội sống ở các vỉa hè, gầm cầu Hà Nội, những người đang gìn giữ, không để đánh mất hương thơm bất hủ của hoa nhài đất Tràng An đang bị giới trí thức gọi là tinh hoa mang tham vọng trọc phú dày xéo không thương tiếc. Tôi cũng không hiểu vì sao một kịch bản hay và cần như thế sau khi ra đời vẫn chưa được đơn vị sân khấu nào thực sự để mắt tới.

Một trong những thế mạnh của kịch bản Nguyễn Hiếu là đề tài hiện đại và đó cũng là điểm yếu của sân khấu Việt Nam những năm gần đây, làm cho nó không thể phục vụ đắc lực cho công cuộc chiến đấu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bị khán giả xa lánh. Thế mà các kịch bản đề tài hiện đại rất công phu, sắc bén và nóng bỏng tính chiến đấu của Nguyễn Hiếu thì cứ theo nhau xếp kho.

Không phải ngẫu nhiên mà cách đây 2 năm, Nguyễn Hiếu, với tư cách một đồng môn hậu sinh khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, đã phải viết tâm thư gửi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng để “than nghèo kể khổ” về việc trên như sau:

“Với sự phát động dũng cảm và kiên quyết của anh nên cuộc chống tham nhũng của toàn Đảng, toàn dân trong vài ba năm trở lại đây đã gặt hái nhiều thành quả làm nức lòng dân và mang lại niềm tin lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước. Chính vì vậy nên trong gần chục năm nay với tư cách là nhà văn, nhà viết kịch em đã hưởng ứng bằng việc viết hàng loạt tác phẩm bao gồm tiểu thuyết và kịch bản sân khấu về đề tài này. Đáng tiếc, nếu các nhà xuất bản đã bắt đầu cho xuất bản những tác phẩm này thì các Nhà hát, các đoàn kịch vẫn gần như bất động không dám cho dựng những kịch bản về đề tài này.

Năm 2009, em viết kịch bản sân khấu “Con tàu hoang” phản ảnh những mánh khóe lợi dụng chức quyền để trục lợi, tham ô qua vụ Vinashin. Năm 2015, em viết kịch bản “Mặt nạ trần gian” phê phán lợi ích nhóm trong cổ phần hóa ở ngành GTVT. Năm 2017 em viết “Linh hồn lang thang” phê phán những sai lầm trong công tác tổ chức, đưa con ông cháu cha vào hàng ngũ lãnh đạo. Hầu hết các kịch bản này đều được giới chuyên môn đánh giá cao nhưng không được sử dụng. Thí dụ như kịch bản “Con tàu hoang” thì mặc dù trong bốn cố vấn nghệ thuật của Nhà hát kịch Việt Nam thì ba vị đồng ý cho dựng nhưng vị thứ tư là Cục trưởng Cục biểu diễn lại gạt vì lý do “nhạy cảm”. Khi đưa sang Nhà hát Tuổi trẻ thì giám đốc Nhà hát này nói: “Em biết dựng kịch bản này thì Nhà hát em rất đông khách, bán được vé vì nói được lòng dân, nhưng sau đó em sẽ mất ghế!”.

Nguyễn Hiếu buộc phải kêu cứu như thế bởi vì sân khấu quả đã bất công với anh. Hiếu là một nhà văn, kịch của anh không được dựng thì vẫn có thể được in, được đọc. Nhưng anh hiểu rõ văn chương không thể có sức mạnh trực tiếp, rộng lớn, như sân khấu. Anh rất thấm thía cách đánh giá tác dụng kỳ diệu của sân khấu của danh nhân Đào Tấn: “Sân khấu có thể đến với tất cả mọi người, cả với các bậc học cao hiểu rộng, kẻ mới biết chữ và cả người chưa biết chữ. Sức mạnh của sân khấu như thủy ngân chảy xuống đất, không có lỗ nào là không thể vượt qua, mà công dụng của nó, tuy pháp luật nghiêm khắc và dày đặc, tôn giáo tinh vi, cũng không thể nào thắng được nó”.

Chính vì thế, gần 50 năm qua, nhà văn Nguyễn Hiếu đã theo đuổi một khát vọng kịch rực lửa, bền bỉ, gan góc, nhằm góp phần cho một nền sân khấu Việt Nam luôn có ích cho nhân dân đất nước với những kịch bản đầy tình yêu và trách nhiệm. Anh có quyền đòi hỏi một sự đối xử công bằng hơn cho mình.

Để công bằng với nhà văn Nguyễn Hiểu, xin hãy một lần đọc lại kịch của anh!

Nguyễn Thế Khoa

Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/vinh-biet-nha-van-nguyen-hieu-mot-khat-vong-kich-a17934.html