Một thời không quên

Chúng tôi đã ở tuổi xế chiều, thời gian lướt qua đời người, hun hút trôi về phía xa xăm, những nỗi buồn vui, những cung bậc thăng trầm, những vinh quang và cay đắng cũng theo năm tháng phai mờ hoặc cô đọng khắc sâu hơn trong ký ức đời người.

pham-thong-1680184486.jpg

Tác giả và cháu nội

 

Đi vi tôi, nhng tháng năm gian kh him nguy cùng cam cng kh vi đng đi đng chí Trường Sơn; nhng năm tháng hc tp, sinh hot dưới mái trường dành cho cán b, chiến sĩ min Nam trên đt Bc trong kháng chiến chng M là quãng đi luôn lng đng nơi tâm khm, là mt thi không th nào quên.

Tháng 8 năm 1971, t chiến khu Trà My, t Ban Tuyên hun Khu 5 tôi nhn quyết đnh lên đường ra min Bc cha bnh, sau 2 tháng leo núi vượt đèo li b hết Đông Trường Sơn sang Tây Trường Sơn, tháng 10 năm 1971 tôi đến trm C Nẫm, Qung Bình. Đây là Trm đu mi, là làng xã đu tiên đ nhng người tham gia kháng chiến min Nam đt chân ti đt Bc sau mt hành trình vô cùng gian kh. Như chúng tôi, t chiến khu Qung Nam đi mt 2 tháng, t Nam b mt 4 tháng, thương binh ct chân đi khiêng theo tng trm đường dây 559 mt na năm mi ti trm đu tiên này. T đây chúng tôi lên xe nhà binh qua Ngã Ba Đng Lc ra Vinh; t Vinh v Th đô Hà Ni bng tàu ho; t Hà Ni tp trung v K15 Hà Đông - Nơi đón tiếp cán b, chiến sĩ min Nam ra Bc.

Ti K15 Hà Đông, qua nghiên cu h sơ và khám xác đnh tình trng sc kho, tình trng vết thương, tuỳ theo mc đ bnh tt, thương tt  Cc B (Cc qun lý cán b min Nam) gii thiu chúng tôi nhp vin trong nước mà thường là bnh vin chuyên cha tr cho cán b min Nam như E1- Thch Tht - Sơn Tây, E2 T Liêm - Hà Ni... hoc đưa đi nước ngoài, ch yếu sang Quế Lâm, Trung Quc; người sc kho khá v thng các “K”  an dưỡng cán b min Nam. Như tôi v an dưỡng ti K75 - Kiến An - Hi Phòng.

Khi sc kho phc hi, Cc B sp xếp chúng tôi vào các trường dành cho cán b min Nam hc văn hoá, trang b kiến thc phc v s nghip cách mng lâu dài v sau. Người có trình đ hết cp I tr lên đưa v Trường HT2 – T H, người chưa hết cp I v K20 Vĩnh Yên nhp hc. 

HT2 -T H, nguyên thu là trường B túc công nông Trung ương hay là trường Ph thông lao đng Trung ương có t nhng năm 1954, đóng ti Giáp Bát - Hà Ni, chuyên bi dưỡng trình đ văn hoá cho cán b công tác ti min Bc, có th là trường đã hình thành t thi kháng chiến chng Pháp nm tn chiến khu Vit Bc nhm bi dưỡng văn hoá cho cán b kháng chiến. Trong giai đon kháng chiến chng M, cán b dân chính Đng các cp ti chiến trường min Nam b thương, đau m mt sc phi ra hu phương min Bc cha bnh, an dưỡng, khi sc kho hi phc được Ban Thng nht Trung ương b trí v HT2 hc tp. Trong nhng năm 1967 – 1968, cuc chiến tranh phá hoi min Bc ca đế quc M din ra vô cùng ác lit, trường HT2 đóng Giáp Bát – Hà Ni phi sơ tán v xã Yên Phú, huyn Yên M, tnh Hưng Yên. Nơi đây có xóm T H, có Ngã ba T H, có Bưu đin T H. Xóm T H, Bưu đin T H, Ngã ba T H nm thôn M Thượng, là v trí Trung tâm ca trường HT2, cơ quan Hiu b, Bnh xá nhà trường, các cuc sinh hot văn ngh, chiếu bóng, hp hành toàn trường đu din ra ti khu vc này… Đó là căn cơ đ cái tên Trường HT2 – T H xut hin và tr thành ph biến, thay thế cho cái tên Trường Ph thông lao đng Trung ương giai đon sau này, thm chí hc sinh thế h chng M như chúng ta, nhiu người ch gi, quen gi trường T H

Nói là trường, tht ra là mt khu vc trường gm các ging đường dã chiến mái tranh vách na, nm ri rác trong ba thôn M Thượng, M H, Đông Phú. Hàng chc năm nhà trường tn ti, phn ln hc sinh nh nhà dân, ăn bếp tp th. Nhiu gia đình t nguyn cho nhiu thế h hc sinh T H tá túc trong c chc năm tri. Dân lúc y còn rt kh, ăn sn, ăn khoai, nhà cht nhưng vn dành ch thun li nht đ chúng tôi trú ng. H đã yêu thương, giúp đ chúng tôi như con cháu, anh em trong nhà. Tình cm y chúng tôi không bao gi quên, mt khi còn sng trên đi này.

Ban Giám hiu có thy Lê Tin người Đà Nng, cán b tin khi nghĩa, nguyên Thành u viên Đà Nng thi chng Pháp, nay gi chc Hiu trưởng kiêm Bi thư Đng u nhà trường; Hiu Phó là thy Cát người min Bc, ph trách hc tp.

HT2 - T H có s lượng đng viên rt đông, có th đến c ngàn người, đây là mt Đng b ln. Nhiu hc viên nguyên là Thường v huyn u, Tnh u viên, Bí thư xã, anh hùng lc lượng vũ trang, dũng sĩ dit M, bit đng thành, tình báo ni thành, du kích tp trung các xã, cán b binh vn dân vn các cp, cán b tuyên hun, văn công gii phóng….Hu hết “hc sinh” được  trưởng thành t lò la chiến tranh, h là nhng chiến sĩ cách mng thc th kinh qua th thách nơi tin tuyến, trong các nhà tù đế quc. Mi lp hc đ 40 người thì đã có trên dưới 30 đng viên. Nhiu người trong h tng được c v Hà Ni gp các đng chí lãnh t, lãnh đo cao cp nht ca Đng, Nhà nước, được c đi báo cáo thành tích chiến đu nhiu nước trên thế gii….H rt tr nhưng chí ln, h là nhng chàng trai cô gái non tơ tóc chm ngang vai nhưng đã là dũng sĩ dit M cp ưu tú, là nhng anh hùng trn mc.

Các thy là nhng người dy gii, thông tho tính cách, trình đ, mc đ tiếp thu ca “hc sinh” ln tui, nhưng gián đon vic hc vì chiến tranh.

Tháng 1 năm 1972, cn k tết Nhâm Tý, tôi v T H. Sau cuc kim tra kiến thc gm 2 môn toán, văn tôi được nhà trường thu nhn vào hc lp 8, thuc khi cp III nm đc lp gia cánh đng, cnh mt ao sâu gi là Ao Cá. Ao sâu đến mc tôi là dân bin nhưng không th ln ti đáy. Nghe nói ao này có đường nước ngm thông vi sông Hng, theo truyn thuyết thì nó được hình thành bi mt lung nước xoáy rt mnh trong mt trn lt ln đã thay đi đa hình như “mt cuc b dâu”.

Năm tôi nhp hc lp 8, khu vc Ao Cá gm 2 lp 8, 2 lp 9, 2 lp 10. Đây là khu đc lp. không có nhà dân, hc sinh trong các lán tri tp th, ăn ti nhà ăn do cô Trương làm qun lý, thì có chú Đông người Qung Ngãi ph trách phn xây dng. Nghe nói chú Đông là du kích Ba Tơ, tp kết ra Bc được phân công v T H qun lý, theo dõi xây dng và sa cha nhà trường. Ăn ngày hai ba có cô Trương lo; có chú Đông theo dõi, chúng tôi ch có vic hc và tu dưỡng đo đc, lp trường cách mng, hướng v x s mà nuôi chí bn.

Đã là cán b kháng chiến min Nam, người nh nht cũng đến tui hai mươi. tui này ch có cách hc b túc văn hoá theo chương trình cp tc mt năm 2 lp mi đui kp mc thi gian trưởng thành ca mt đi người. Các môn hc được tinh gin, ch yếu hc k toán, lý, hoá, văn, lch s, đa lý, sinh vt xếp vào môn ph. Trong tng lp, trình đ tiếp thu không đng đu, người tr tiếp thu nhanh, người ln tui sc hc hn chế, các tiết hc thy đã ging t m, nhưng lúc không lên lp cán s b môn tranh th ph đo thêm theo kiu “Con béo kéo con gy”, giúp đng môn, đng đi cùng hiu, cùng tiến.

đây người t x t hi, nào là người các tnh Khu 5, Khu 6, Khu Tr Thiên, min Đông, min Tây Nam b… Có c người min Bc vào chiến trường công tác các cơ quan dân chính Đng các cp min Nam. Nhưng tt c chúng tôi đu cùng chung hoàn cnh kháng chiến, t chiến trường khói la tr v hu phương, rt d hoà đng hi nhp.

V T H, tôi gp được ch rut cùng thoát ly mt ln, cùng chiến trường Qung Nam, nhưng chiến tranh khói la mt mù, sut 7 năm tri ch em không th gp nhau. Nay trên đt Bc ch em đoàn t, chao ôi mng vui khôn t. Nhưng ri, tt c chúng tôi tuy sng trên min Bc XHCN, ăn go min Bc, ung nước Hưng Yên, được bà con min Bc s chia đùm bc mà quân s vn thuc min Nam. Ai còn sc kho, sn sàng tr li min Nam kháng chiến, nhiu người vài năm xung phong tr li chiến trường, có người giu vết thương đ được tr li chiến trường.

Tôi vào lp 8, ch tôi hc xong lp 10, hc thêm lp báo chí cp tc, cui năm 1972 tr li quê hương Qung Nam như mt phóng viên chiến trường. Và, ch em tôi đã làm "mt cuc chia ly không dám hn ngày gp li". Khi y tôi rưng rưng nh hai câu thơ ca H Thu "Chiến trường ai khóc chia phôi/ Khi hoàn ai nhc ti người hôm qua" mà dõi theo bóng hình tr trung ca ch đang nhón chân đi v phía quê hương may ít ri nhiu. Chiến tranh mà ai ơi!

Gia  năm 1972, M li tiến hành ném bom ác lit min Bc, trường HT2 - T H phi tiếp tc sơ tán lên phía Tân Yên, Bc Giang. Cui năm 1972 đu năm 1973, sau Hip đnh Paris ký kết trường li quay v đa đim cũ. Gia năm 1973 tt nghip lp 10, tôi v trường Đi hc Bách khoa Hà Ni hc d b đ thi Đi hc vào năm 1974.

Theo hc chương trình cp III b túc văn hoá mt năm 2 lp tp trung vào 4 môn toán, lý, hoá, văn, vì thế kiến thc các môn cơ bn khá chc, qua bi dưỡng thêm mt khoá d b, chúng tôi có th thi đi hc cùng mt đ, cùng mt kỳ thi đi trà vi hc sinh ph thông. Năm y khi 10 ca chúng tôi có nhiu người trúng tuyn vào đi hc trong nước, thi gian đã quá lâu tôi ch nh được mt s trường hp như: cô Lan Tin quê Duy Xuyên, c Kiu người Đi Lc vào Đi hc Dược - Hà Ni; Khoa người Phú Yên vào Đi hc Giao thông; anh Kháng, cô Bình, cô Thuý người Nam b vào trường Bưu din Vĩnh Phúc; ch Phan Th Quyên v anh hùng Nguyn Văn Tri, dâu Qung Nam vào Khoa kinh tế trường Bách Khoa Hà Ni… Mt s người đt đim cao, đ tiêu chun theo hc nước ngoài như: Phan Văn Tính người Bình Dương Thăng Bình, Nguyn Th Hà người Bình Thun đi Nga; anh Huỳnh người Tha Thiên đi Ba Lan; Phm Thông, Nguyn Công người Tam Kỳ, Lê Minh Hi người Bình Đnh đi Bungaria… Nhiu người sau khi tt nghip cp III, đ  chun b cán b cho s nghip xây dng min Nam sau này, Cc cán b B c h theo hc ti các trường trung cao cp chính tr, cao đng, đi hc thuc các ngành công an, báo chí, văn hoá, giáo dc, y tế …. Ngay trong khi đang hc ti trường HT2 - T H, theo yêu cu ca chiến trường nhiu đng chí được c theo hc các lp chính tr cp tc đ tr li min Nam chiến đu.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nước nhà thng nht, hc sinh HT2- T H tr v min Nam công tác, phn đông trong h được đào to tr thành nhng cán b có quá trình tham gia kháng chiến, có trình đ chuyên môn bài bn, góp phn xây dng quê hương trong thi bình.

Bây gi, sau gn na thế k chúng tôi đã tr thành lp người “xưa nay hiếm”, tr thành ông ni bà ngoi, nhìn li nhng chng đường đã qua, đã tri nghim; nhìn li nhng năm tháng sng trên đt Bc, nhng năm tháng hc tp ti trường HT2 - T H thì đó tht s là mt quãng đi đp, cha đng nhng ký c không th nào quên ca thi tui tr. Trong công cuc kháng chiên min Nam, quê hương, chúng tôi đã hn nhiên trong trng theo tiếng gi ca Đng, ca Mt trn dân tc gii phóng lên đường đường tham gia cách mng. Khi y, vì hoàn cnh chiến tranh chúng tôi ít được hc, ra hu phương min Bc Xã hi ch nghĩa chúng tôi được Đng, Nhà nước xem chúng tôi như nhng ht ging đ, cho chúng tôi ăn hc nâng cao trình đ văn hoá, m rng kiến thc đ bt kp tiến trình phát trin cách mng, tr thành cán b phc v lâu dài trong nhng năm sau này. Đc bit chúng tôi được nhân dân min Bc, nhân dân các làng M Thượng, M H, Bình Phú, T Tây, Đông To kính yêu năm xưa cưu mang, đùm bc, được các thy cô tn tình ch dy  tng phép toán, câu văn. Ơn nghĩa y chúng tôi luôn ghi lòng tc d.

Chúng tôi luôn quan nim trường HT2 - T H là cái nôi, mt mc xích quan trng mt thi trang b kiến thc cơ bn, to đng lc đ chúng tôi trưởng thành. Trong s “hc sinh” b túc văn hoá năm xưa y, có nhiu người đã tr thành tiến sĩ, thc sĩ, ging viên đi hc, ging viên chính tr, tướng lĩnh, cán b lãnh đo các cp…Nhưng cái quý nht là dù cương v nào trong xã hi, dù cư trú nơi ph th hay v an ngh tui già nơi làng quê, hóc núi; dù cuc sng kinh tế- xã hi có thay đi đến đâu, trong hoàn cnh nào chúng tôi vn gi trn được phm giá con người, mt lòng st son vi s nghip cách mng; vn gi được tm lòng trong trng, hn nhiên yêu nước thương dân ca cái thu ban đu: “Lên đường như đa tr thơ/ Qun chi gian kh bi b chông gai”. Và hôm nay trong bui gp mt này, du tui xế chiu nhưng trong mi chúng tôi vn tràn đy năng lượng, da diết tưởng v nhng năm tháng tr trung vi nhng ký c đp cái nôi kiến thc HT2 - T H trên đt M Thượng, M H, Bình Phú, T Tây, Đông To - Hưng Yên năm xưa.

Bút ký của Phạm Thông

Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/mot-thoi-khong-quen-a18239.html