Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (Kỳ 22)                             

Trân trọng giới thiệu tiếp "Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử" của PGS TS Cao Văn Liên do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành.

Kỳ 22

Khoa học quân sự cũng ra đời, các tác giả đã đúc kết lý luận quân sự: “Hổ trướng khu cơ” bộ binh pháp nổi tiếng của Đào Duy Từ (1572-1634). Ông không chỉ là nhà quân sự mà còn là nhà thơ, nhà văn, nhà kiến trúc tài giỏi. Nhiều tác phẩm đặt nền tảng cho khoa học địa lý nước nhà như : “Nhất thống địa dư chí “ của Lê Quang Định, Phương Đình địa dư chí của Nguyễn Văn Siêu, ”Hoàng Việt dư địa chí” của Phan Huy Chú. Các tác phẩm này đã nêu lên sự phong phú tươi đẹp toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam. Địa lý địa phương cũng được các học giả nghiên cứu, “Nghệ An ký” của Bùi Dương Lịch, “Gia định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức. Trong số danh nhân lỗi lạc của thế kỷ này nổi bật Lê Quí Đôn, nhà bác học xuất sắc thế kỷ XVIII với kiến thức uyên bác nhiều lĩnh vực: Thơ,  văn, sử,  địa lý, triết học, y học, thiên văn, nông học với 50 bộ sách bao quát tất cả cảc tri thức đương thời. Tác phẩm “Vân đài loại ngữ” của ông là bộ bách khoa toàn thư, tập hợp tất cả những tri thức của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên của  nhiều thế kỷ. Trong đó ông thống kê vào thế kỷ XVIII nước ta có 18 giống lúa.

b1lqd1-1685342458.jpg

Lê Quý Đôn (1726-1784). Nguồn: baotanglichsu.vn/vi

 

Y học cổ truyền tiếp tục phát triển mà tiêu biểu chói sáng là nhà y dược Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông:1720-1791). Ông sưu tầm được 305 vị thuốc nam, 2.854 phương thuốc chữa hàng trăm chứng bệnh. Ông cho rằng môi trường,  khí hậu có ảnh hưởng đến cơ thể con người. Từ nhận định khoa học đó ông đề ra phương pháp chẩn đoán bệnh và điều trị bệnh thích hợp. Bộ sách lớn của ông: “Hải thượng y tâm tĩnh” gồm 66 quyển đã tổng kết toàn bộ phương pháp y học cổ truyền, xây dựng toàn bộ lý, pháp, phương, dược của nền y học Việt Nam thời kỳ trung đại. Ông nêu cao y đức, chỉ cần giúp người mà không cầu lợi. Hải Thượng Lãn Ông còn là nhà văn, nhà thơ xuất sắc. Các tác phẩm của ông mang đậm tinh thần nhân đạo, yêu nước, thương nòi.

          Chế độ phong kiến không lưu ý phát triển kỹ thuật. Tuy nhiên Nguyễn Văn Tú (Quảng Trị) đã chế tạo được đồng hồ máy và ống nhòm. Những người thợ trong xưởng đóng tầu nhà Nguyễn thành công trong việc thử chế tạo tầu chạy bằng hơi nứơc.

           Ngoài Phật giáo, Hồi giáo, đạo Bà la môn đã có từ trước, thế kỷ XVII Thiên chúa giáo do các cố đạo Bồ Đào Nha và Pháp truyền bá vào Việt Nam. Năm 1668 “Hội truyền giáo nước ngoài” của Pháp được thành lập. Hội này ra sức truyền bá đạo Thiên chúa vào Việt Nam. Giáo sĩ Alếchxanđrốt đã hoạt động 30 năm ở Việt Nam và thu được nhiều kết quả. Để truyền đạo, các giáo sĩ trước hết phải biết tiếng Việt. Họ dùng chữ La tinh ghi âm tiếng Việt để học. Chữ quốc ngữ xuất hiện. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha dùng chữ quốc ngữ để soạn sách giáo lý và soạn từ điển “Việt- Bồ”. Năm 1649 giáo sĩ Alếchxanđrốt đã xuất bản ở Rôma (Ý) cuốn từ điển Việt- Bồ bằng tiếng La tinh và một cuốn “Giáo lý cương yếu” bằng tiếng Việt Nam. Các giáo sĩ Phương Tây chế ra chữ quốc ngữ ban đầu với mục đích truyền giáo. Sau này vào thế kỷ XX, người Việt Nam biết sử dụng làm thành chữ viết của mình. Tuy nhiên,  chữ quốc ngữ trong các thế kỷ này chưa có tác dụng gì trong sự phát triển văn hoá Việt Nam.

          Sự khủng hoảng, suy tàn của chế độ phong kiến và đạo đức phong kiến làm cho Nho giáo cũng sụp đổ, suy tàn dù thế kỷ XIX vương triều Nguyễn ra sức duy trì và củng cố.

          Về hoạt động lập pháp thế kỷ XVI, XVII, XVIII ở Đàng Ngoài không có gì đáng kể. Năm 1777 triều đình Lê-Trịnh ban hành bộ “Quốc triều điều lệ”, nội dung cơ bản như “Luật Hồng Đức”, có bổ sung thêm như cấm truyền đạo Thiên chúa vào Đại Việt. Ở Đàng Trong cơ bản thực hiện pháp luật nhà Lê. Thế kỷ XVIII, chúa Nguyễn có ban hành một số đạo luật về kinh tế, tài chính, luật về sở hữu ruộng đất và thuế ở ruộng đất mới khai phá. Dưới triều đại Tây Sơn vua Quang Trung ban hành một số văn bản mang tính chất pháp lý như “Chiếu lên ngôi năm 1788”, “Chiếu cầu hiền”, “Chiếu khuyến nông”, “Chiếu lập học” và một số qui định thuế khoá nhằm tiến hành cải cách kinh tế, văn hoá, xã hội.

          Năm 1815 vương triều Nguyễn công bố bộ luật Gia Long, gọi là “Hoàng triều luật lệ”. Bộ luật gồm 398 điều, 22 quyển, các điều khoản của bộ luật chia thành 6 loại mà nội dung tương ứng với công việc của 6 bộ phụ trách như hình luật, lại luật, công luật, lễ luật, binh luật và hộ luật. Nội dung chính của các qui phạm bao gồm những chế định về hôn nhân gia đình, về dân sự, hình sự, luật  tố tụng. Tư tưởng Nho giáo chi phối tuyệt đối trong “Hoàng Việt luật lệ”, tư tưởng đàn áp xuyên suốt bộ luật. Các học giả Pháp khi đó cũng phải thừa nhận đây là bộ luật tàn nhẫn rập khuôn theo luật nhà Thanh Trung Quốc, một thứ luật lệ của kẻ thống trị ngoại tộc.

         Giáo dục Thế kỷ XVI, XVII, XVIII, XIX và 20 năm đầu của thế kỷ XX vẫn duy trì Nho học. Kết quả thi cử Nho học như sau: Nhà Mạc số khoa thi 22 khoa, Tiến sĩ 485, Trạng nguyên 20. Nhà Lê Trung Hưng, số khoa thi 73, 493 Tiến sĩ, 6 Trạng nguyên. Nhà Nguyễn số khoa thi 40, Tiến sĩ 588 người, Trạng nguyên Không.

Nhà Nguyễn không lấy học vị Trạng nguyên trong thi Nho. Khoá thi cuối cùng của Nho học là năm 1919. Tổng cộng khoa thi đầu tiên năm 1075 triều Lý đến khoa thi cuối cùng năm 1919 triều Nguyễn đã có 185 khoá thi, 2.906 người đỗ Tiến sĩ, trong đó có 56 người đỗ Trạng nguyên.  Nguyễn Hiền người phủ Thiên Trường Nam Định đỗ Trạng nguyên năm 13 tuổi đời vua Trần Thái Tông năm 1247. Có lẽ Trạng Nguyên đầu tiên của nước nhà là Lê Văn Thịnh (Gia Lương-Bắc Ninh) đỗ khoa thi đầu tiên năm 1075 thời Lý. Trạng nguyên cuối cùng là Trịnh Huệ (Quảng Xương-Thanh Hoá) đỗ khoa thi năm 1736 đời Lê Ý Tông.

 (Còn nữa)

 CVL

PGS TS Cao Văn Liên

Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/quoc-hieu-viet-nam-qua-cac-thoi-ky-lich-su-ky-22-a19151.html