Kỳ 44
Từ sau năm 1945, triết học Mác Lê nin trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo của nhà nước Việt Nam, của xã hội Việt Nam. Từ nguồn gốc chủ nghĩa Mác- Lê nin kết hợp với những tư tưởng truyền thống tiến bộ của Việt Nam ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là thành quả lớn nhất của tư tương Việt Nam thời kỳ hiện đại. Bên cạnh đó việc nghiên cứu tư tưởng và triết học Mác-Lênin được đẩy mạnh. Trần Văn Giàu với các tác phẩm “Vũ trụ quan”, “Biện chứng pháp”, “Duy vật lịch sử” và bộ sách đồ sộ của ông “Sự phát triển của tư tưởng Việt nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám” gồm ba tập nêu lên lịch sử tư tưởng Việt Nam và những giá trị truyền thống dân tộc. Các nhà nghiên cứu triết học lỗi lạc khác như Giản Chi, Nguyễn Hữu Văn, Cao Xuân Huy, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Khắc Viện . v. v . Các nhà triết học tư tưởng nước ta đã làm rõ vấn đề “Vũ trụ luận”, “Tri thức luận”, “Nhân sinh luận” và “Chính trị luận”. Các nhà nghiên cứu cũng đã đạt nhiều thành tựu trong các lĩnh vực khoa học xã hội và khoa học nhân văn, Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khoa học quân sự Việt Nam hiện đại được hình thành, phát triển và được vận dụng thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong đó không chỉ hoàn thiện và phát triển cao độ lý thuyết quân sự chiến tranh nhân dân mà còn sản sinh ra nhà quân sự thiên tài Hồ Chí Minh và các tướng lĩnh tài năng kiệt xuất như Võ nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Trường Chinh, Lê Duẩn. Các ông không chỉ là những nhà cách mạng lỗi lạc mà còn là những nhà quân sự tài ba, đã vận dụng tài giỏi lý luận chiến tranh nhân dân để chiến thắng những đế quốc hùng mạnh nhất trong thời kỳ hiện đại là Pháp và Mỹ. Trong số học trò của Hồ chí Minh nổ bật lên Võ Nguyên Giáp. Điện Biên Phủ năm 1954, chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã phát triển bổ sung thêm về lý luận và nâng khoa học quân sự Việt Nam lên một đỉnh cao huy hoàng. Võ Nguyên Giáp “không chỉ trở thành huyền thoại mà có lẽ còn trở thành một thiên tài quân sự lớn nhất thế kỷ XX và một trong những thiên tài lớn nhất của tất cả các thời đại” (Cecilcurryy-nhà sử học Mỹ , trongcuốn vichtory at anycost- Báo tuổi trẻ 25-4-2000) .
Cuộc sống và chiến tranh đòi hỏi phải phát triển y học để phục vụ nhân dân và quân đội. Y học Việt Nam hiện đại kết hợp giữa y học Đông y cổ truyền với Tây y hiện đại. Đã xây dựng được một nền y học với những nhà khoa học tài năng, tận tuỵ với sự nghiệp và với nhân dân, đầy lòng nhân ái, y đức. Tiêu biểu là các bác sĩ Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Bách, Nguyễn Tài Thu . v. v. Tôn Thất Tùng (1912-1982) là người có công lao nghiên cứu cơ cấu mạch trong gan, người đầu tiên cắt gan có kế hoạch, góp phần xây dựng ngành phẫu thuật gan thế giới. Tác phẩm “Viêm cấp tính và phẫu thuật” của ông là tác phẩm khoa học về y đầu tiên được xuất bản tại Việt Nam. Đặng Văn Ngữ (1910-1967) là người có công xây dựng bộ môn sinh vật học và ký sinh trùng, sản xuất nước lọc Pênixilin, nước lọc Xteptômixin. Phạm Ngọc Thạch (1909-1968) có công lao phòng chống lao, chế tạo thuốc kháng sinh rẻ tiền, sản xuất thuốc phòng bại liệt. Ông là nhà Tây y nhưng lại đề cao Nam dược. Trong kỹ thuật , đã sản sinh ra những nhà sáng chế vũ khí như Trần Đại Nghĩa. Tiêu biểu cho các nhà khoa học xuất sắc như nhà nông học Lương Định Của, nhà vật lý Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Đình Tứ , Nhà toán học Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Văn Thiêm, Nhà giáo dục Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu v. v.
Sau cách mạng và đặc biệt từ khi đổi mới, Việt Nam đã tiếp nhận thành quả cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đạị Chúng ta đã ứng dụng tin học vào tất cả các lĩnh vực, ứng dụng thành tựu thông tin liên lạc. Có thể nói cuối thế kỷ XX, Việt Nam đã bùng nổ thông tin với phương tiện điện thoại di động và điện thoại cố định, phát thanh và đặc biệt là vô tuyến truyền hình. Năm 2007 trên toàn quốc VNPT đạt 27,8 triệu máy thuê bao, trong đó có 19 triệu thuê bao di động. Năm 2007 VNPT đã phát triển mới được 514.000 thuê bao intenet bằng megaVNN, nâng tổng số thuê bao VegaNN đến 740.000 máy. Việt Nam cũng đã áp dụng cách mạng xanh vào lĩnh vực nông nghiệp, tạo nên những giống lúa mới, vi sinh, phân hoá học. Đã ứng dụng công nghệ mới vào giao thông vận tải đường bộ, đường hàng không, vận tải đường thuỷ. Cơ sở hạ tầng đô thị được xây dựng mở mang phồn vinh sầm uất. Nhiều thị trấn phát triển thành thị xã, nhiều thị xã phát triển lên thành phố. Trước đổi mới chỉ có thành phố Hà nội, Hải phòng, Thái Nguyên, Việt Trì, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẳng, Nha Trang, Biên Hoà, thành phố Hồ chí Minh, Mỹ Tho và Cần thơ. Sau đổi mới cho đến nay nhiều thị xã phát triển thành thành phố. Đó là các thành phố Lào Cai, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Vĩnh Yên, Hạ Long, Hải Dương, Thái Bình, Thanh Hoá, Ninh Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Tuy Hoà, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Long Xuyên, Cao Lãnh, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá. Nhiều đường sá mới được xây, những đường sá cũ được nâng cấp và mở rộng. Trong đó lớn nhất là đường Trường Sơn được mở rộng thành đường cao tốc từ Nam ra Bắc. Nhiều cầu mới được bắc qua những con sông lớn như cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Tân Đệ, cầu Bãi Cháy, cầu Thanh Trì, cầu Hàm Long qua sông Mã, cầu Bến Thuỷ, cầu Nguyễn Văn Trỗi qua sông Hàn Đà Nẵng. Cầu Mỹ Thuận qua sông Tiền Giang hiện là một cây cầu lớn nhất Đông Nam Á. Nhiều khách sạn, dinh thự cao tầng mọc lên ở khắp các đô thị làm thay đổi diện mạo và bộ mặt đất nước qua mấy chục năm đổi mới .
(Hết)
CVL
PGS TS Cao Văn Liên
Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/quoc-hieu-viet-nam-qua-cac-thoi-ky-lich-su-ky-44-a19501.html