Âm Bản (Tập truyện)

bia-am-ban-1697163050.jfif
 

MỤC LỤC

 

 

  1. Cá ông
  2.  Chú bé vùng ranh
  3. Âm bản
  4. Cõi mơ
  5. Ngộ nhận
  6. Anh Bảy Trương
  7. Quả báo
  8. Sức mạnh
  9. Những người con gái quê hương
  10. Mùa trông đợi
  11. Đường xưa - đường nay
  12. Sự tích cây rù rì
  13. Về nơi bão phố
  14. Sự tích giống ngô hai tháng
  15. Lời nguyền của một bài ca
  16. Tiếng rao đêm
 

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

 

Với “B. trọc”, Phạm Việt Long đã trở thành cây bút được bạn đọc cả nước biết đến và quí mến, nhất là khi tác phẩm này của anh giành được mt s giải thưởng (Giải B dành cho tác phẩm văn xuôi của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Giải thưởng Đào Tấn của Hội đồng hương Bình Định, Giải thưởng Trương Hán Siêu của Hội Văn học nghệ thuật Ninh Bình) đồng thời được đài Truyền hình Việt Nam đề cập tới qua hai bộ phim tài liệu Giá trị muôn đời, và Từ đời thực lên trang sách, được Điện ảnh chiều thứ bẩy VTV chuyển thể thành 4 tập phim truyện truyền hình Nhật kí chiến trường. Phạm Việt Long còn là tác giả của mt s tập sách có giá trị khác, trong đó có Tiểu thuyết Giã từ (NXB Dân trí 2014), tập truyện ngắn Ngờ vực (NXB Dân trí – 2015...

NXB Dân trí trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc tập truyện Âm bản, do Phạm Việt Long viết những năm gần đây

.

                                                  Hà Nội, tháng 8 năm 2016

                                                            NXB Dân trí

 

 

Âm bản, tập truyện có nhiều thành công

 của Phạm Việt Long

 

Mười sáu truyện ngắn gọn ghẽ, xinh xắn và nói chung có khuynh hướng tuân theo các nguyên tắc cổ điển là có một cái gì đó có thể kể lại được; một cái gì đó được kể lại trong sự trọn vẹn của hình thức, tập trung vào một ấn tượng và có tính thống nhất về hiệu quả - những yêu cầu quan trọng của thể loại.

Cảm giác chung khi đọc tập truyện này là bắt gặp một tâm hồn dung dị, trong trẻo và hồn nhiên, chưa bị níu kéo, ràng buộc và do đó là tự nhiên. Tự nhiên cả trong những câu chuyện kể về cái ngày hôm nay bộn bề, có chủ định, có ý đồ giáo huấn về thế thái nhân tình, luân thường đạo đức.

Cá ông, Âm bản, Ngộ nhận, Quả báo, Đường xưa - Đường nay, Sức mạnh... Những truyện lộ rõ ý tưởng ngay ở cả tựa đề, đậm nhạt rung động và khác nhau về sự hợp lý, nhưng ở đây là sự tỉnh táo, rành mạch trong mỗi câu chữ, trong lý giải, nhất là ở sự tiếp nhận chất liệu đời sống khá tinh nhậy nên mỗi miêu thuật có sức thuyết phục ở sự sinh động và thêm nữa ở tấm lòng. Bỏ lại ở sau mình những đề tài ăn khách thời thượng, Phạm Việt Long quan tâm đến số phận những người lao động bình thường, quen thuộc trong cuộc sống hôm nay. Một chàng ngư dân chài lưới. Một người lính năm xưa nay bươn chải giữa cuộc sống thường nhật, vẫn giữ vững phẩm chất người lính. Một nhà báo và người vợ hám của, bạc tình. Một ông giáo và người con trai dốt nát, tàn nhẫn. Một cán bộ thuế tham lam, hư hỏng...

Chân dung mỗi nhân vật được khắc hoạ đây đó dẫu còn đôi nét chưa toàn vẹn, vẫn gây niềm tin tưởng về sự cần thiết phải hoàn thiện nhân cách như ý tưởng khá đặc sắc được bộc lộ ở truyện ngắn Âm bản của anh.

Cái khó của mỗi truyện ngắn là sự kết hợp hài hoà giữa câu chuyện được kể lại trong khoảng khắc với ý tưởng sâu xa gây xúc động lâu bền hàm chứa ở cốt truyện và mỗi tình tiết câu chuyện. Các truyện ngắn viết về những con người cụ thể trong chiến tranh ở tập truyện này thuộc loại truyện ấy. Và tôi có thiện cảm đặc biệt với chúng - những Chú bé vùng Ranh, Cõi mơ, Anh Bảy Trương, Mùa trông đợi, Những người con gái quê hương.

Ở những truyện này, người viết nhập thần vào nhân vật, vào dòng mạch chuyện kể, càng viết càng say, càng tự nhiên, đôi khi mất cả tự chủ, nhưng để lại những bắt gặp cảm động chân thành, trong những tình huống bất ngờ và cả những đối thoại ngẫu nhiên. Một chú bé liên lạc thông minh, gan góc. Những nữ giao liên, dân quân du kích hồn hậu, quả cảm. Những chiến sĩ Giải phóng quân dũng cảm nhưng thật hiền lành, chất phác. Các nhân vật này tự biểu hiện mình lần lần qua mỗi dòng kể và ở những giây phút cần thiết, quan trọng nhất, họ bất ngờ hiện lên trọn vẹn và chân thực, đó cũng là một điểm lý thú của loại truyện ngắn này. Đọc những truyện ngắn này thấy rõ tình yêu bền chặt của người viết với cuộc sống và nhân vật của mình. Cái tình ở đây tràn đầy, lắng động, tạo nên những trang viết xúc động và tin yêu, đôi khi đã lấn át cả cái nhược điểm đơn chiều sơ lược ở đôi chỗ. Một cô Nghị, một anh Bảy Trương, cái không khí rộn rực đêm du kích về thôn... đọc xong, gấp sách lại, tự hỏi: làm sao có thể viết được nếu không có sức quấn quyến của tình yêu và sự từng trải? Sự từng trải, tôi tin ở điều đó như tin một chân lý khi biết rằng: tác giả tập truyện này đã lặng lẽ, dòng dã viết đều đặn suốt 46 năm nay, kể từ truyện ngắn đầu tay viết 1970; Anh cũng đã là một người lính cầm bút của cuộc chiến tranh chống Mỹ, những truyện ngắn của anh đều là những kỷ niệm chắt lọc từ những gì anh đã trải qua, chứng kiến, chiêm nghiệm và in dấu trong trái tim.

Văn chương đem lại những xúc động cao quý cho người đọc. Đó là nguyên tắc bất biến. Nâng cao chất lượng nghệ thuật để văn chương có hiệu quả cao hơn trong việc bồi bổ tình cảm tâm hồn cho con người, đó cũng là một yêu cầu không thể dao động, điều đó có lẽ càng đặc biệt có ý nghĩa với tác giả của tập truyện ngắn đầu tay có nhiều thành công này.

 

Ma Văn Kháng

 

 

 

Cá ông

 

 

          Hôm ấy, biển lặng lờ, mặt biển tràn đầy một mầu xám ảm đạm. Nước triều đang lên. Châu dong tầu ra khơi. Qua vùng cửa sông Yên, gã thấy một con sóng thật lạ: không ào ạt xô bờ, cũng không chạy dài miên man, mà dềnh lên cao, di chuyển  hướng vào cửa sông. Châu lệnh cho con tầu rồ máy, tiến lại gần, thì nhận ra đó chính là làn nước do một con cá lớn làm dềnh lên.  Qua các lưỡi sóng, thỉnh thoảng lại thấy nhô lên một cái vây lưng xam xám. Một quyết định nhanh  chóng đến với Châu: bám theo con cá, tiêu diệt bằng được! Phen này, sẽ thu được một nguồn lợi to lắm! Là một ngư dân trẻ, Châu nổi tiếng là một kẻ táo bạo.

 

          Không hề dự cảm về mối nguy hiểm đang đến gần, con cá cứ rẽ nước tiến về cửa sông. Đang lúc nước cường, lòng sông rộng mênh mông và sâu  nên cá mặc sức vẫy vùng.  Châu lệnh cho tầu bám theo con cá. Như một con tầu ngầm chuẩn bị nổi lên, con cá lộ một phần thân mình trên mặt nước, lừ lừ ngược sông. Châu cho thuyền tăng tốc, nép vào tả ngạn, vượt lên.  Quan sát hằn nước do con cá tạo nên, Châu đoán nó to lắm, nhưng không dám chắc là to đến đâu. Phương án tiêu diệt con cá được vạch ra chớp nhoáng trong đầu Châu, và Châu tin chắc sẽ thực hiện được. Xưa nay, Châu luôn luôn táo bạo, dám làm những việc mà các lão ngư không dám nghĩ tới.  Do vậy, Châu phất nhanh ghê gớm: có tầu đánh cá, có nhà lầu, có một cuộc sống sung túc. Những thành đạt trong nghề khiến Châu ngày càng tự phụ, không cần nghe lời khuyên của các bậc lão ngư. Chẳng bao giờ Châu dự hội cầu ngư cả, mặc dù năm nào làng chài của gã cũng tổ chức lễ hội thật là trang trọng và tưng bừng. Trong khi người già, con trẻ náo nức kéo nhau ra đền làm lễ rước “Ông”, đua thuyền, cầu cúng cho một mùa làm ăn bình yên và phát đạt, thì Châu phỉ báng: “Toàn là trò nhảm nhí, mê tín dị đoan! Rạp mình cầu cúng, làm sao mà giầu! Muốn giàu, phải ưỡn ngực trước sóng gió đại dương, phải biết cách đánh cá hiện đại!”, rồì hùng hổ dong tầu ra khơi, không cần bạn chài. Bà con có người xầm xì rằng rồi sẽ có ngày trời đánh thánh vật Châu, nhưng cũng có người nuốt nước bọt thèm khát vì cái giàu cứ ùn ùn kéo đến với Châu.

 

          Con tàu đã vượt lên trước. Con cá vẫn ung dung rẽ nước ngược lên. Dòng sông hẹp dần lại, mức nước cũng nông hơn. Con cá phơi một phần thân lên mặt nước, bóng nhẫy. Lúc này vùng sông vắng lặng, chỉ có con tầu và con cá. Đã đến lúc hành sự... Châu gọi Chiến, vừa là em trai, vừa là trợ thủ, đem chất nổ lại (cái nghĩa “hiện đại” của gã là thế này đây). Gã nhẩm tính, rồi chọn gói thuốc nổ năm lạng, châm ngòi cháy chậm, quẳng về phía con cá. Con tầu vọt lên. “ục!”, tiếng nổ bị nén trong nước và một cột nước trắng xoá bốc lên. Nhưng mặt nước vẫn phẳng lặng, con cá vẫn lướt về phía thượng nguồn. Gã cho tầu chạy chậm lại, lấy gói chất nổ một cân, châm ngòi, quẳng xuống tiếp. Lại một tiếng nổ và một cột nước bốc lên, ở ngay vùng đầu con cá. Lần này, sức công phá làm cho con cá rùng mình, khiến cả một vùng sông nước nổi sóng cuồn cuộn. Con cá đổi hướng, rẽ ngoặt về phía tả ngạn. Nước xô ào ào, dồn lớp lớp sóng về phía con tầu. Con tầu nhỏ dềnh lên, chao đảo. Châu đứng chạng chân trước mũi tầu, lo lắng nhìn miếng mồi đang sắp tuột khỏi tầm tay gã. Gã gầm lên một tiếng:”Đừng hòng thoát!” rồi vớ lấy gói thuốc nổ 2 cân châm ngòi, dùng hết sức bình sinh quăng về phía con cá. Gói thuốc nổ chạy theo hình vòng cầu, kéo theo một đuôi khói xanh lét. Đúng lúc ấy con cá vọt lên khỏi mặt nước, há miệng. Khủng khiếp quá, trông con cá to lớn, dữ dằn như một loài thuỷ quái mà chưa bao giờ Châu thấy.. Trước khi con tầu vọt ra xa, Châu còn kịp nhìn thấy gói chất nổ rơi gọn vào miệng con cá. Và một tiếng nổ tắc nghẹn trong họng nó. Mặt nước lặng đi một giây, rồi cuồn cuộn nổi sóng. Sóng cuộn xoáy. Sóng xô dạt. Sóng ngầm đùn lên những bọng máu. Con tầu chao đảo... Rồi sóng lặng. Con cá chìm dần, chìm dần xuống lòng sông.

 

          Ngay chiều hôm ấy, hai thợ lặn được Châu thuê đến. Nhưng chỉ vừa mới xuống nước ít phút, cả hai đã vội nhao lên. Họ sợ tái xanh tái xám, chỉ nói lắp bắp hai tiếng “Cá Ông” rồi cuốn gói.

 

          Châu trở về làng và thấy một không khí khác lạ, với những ánh mắt khác lạ nhìn mình. Vợ Châu đón Châu bằng nụ cười héo hắt và dáng hình ủ rũ. Chị lẩm bẩm như người mất hồn: “Tai hoạ! Tai hoạ!”. Châu lầm lầm vào nhà, quăng túi xách, hằm hằm hỏi vợ:”Tai hoạ cái gì? Sao cứ như bị ma ám vậy?”. Lúc này, mẹ Châu, một bà cụ già quắt queo, mới bước từ trong bếp ra, rên rỉ: “Con ơi, con đem tai hoạ về cho cả làng rồi. Con đã giết Ngài, giết  ân nhân của cả làng, giết ...’’ Bà cụ tắc nghẹn giọng, không nói tiếp được nữa.

         

          Đêm ấy, có lẽ là lần đầu tiên trong đời, Châu ngồi nghe mẹ chuyện trò. Ai cũng bảo trẻ con đứa nào chẳng thích nghe mẹ kể chuyện. Nhưng Châu không phải loại trẻ con như thế. Từ bé, gã đã ngang tàng, bướng bỉnh. Gã chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện ngày xưa. Cứ tối đến, gã lại vọt ra bãi cát chơi trò trận giả, hoặc vật nhau với trẻ con trong xóm. Còn bây giờ, gần 30 tuổi đời, gã ngồi thu mình bên mẹ, mà hồn thì như lạc vào một xứ sở huyền thoại...

 

          Có lẽ tất cả người dân vùng này, trừ Châu, đều biết sự tích của làng. Ngày ấy, làng chài chưa thành hình, mới là một doi cát nhỏ có mấy cây phi lao còi cọc. Thuỷ tổ của làng không phải ở vùng này, mà do “Ông” đưa đến. Đó là cái thời xa xưa lắm rồi, không ai nhớ rõ năm tháng nào. Truyền thuyết chỉ kể lại rằng, ngoài khơi năm ấy, có mấy chiếc thuyền đánh cá đang kéo lưới thì chợt trời nổi giông tố. Gió hú lên. Biển cuộn sóng. Những con thuyền bé nhỏ trước biển động chỉ như những chiếc lá tre trôi dạt. Một chiếc thuyền đắm. Lại một chiếc nữa. Những ngư dân tội nghiệp bị sóng nhận chìm không thương tiếc. Giờ đây, chỉ còn một chiếc thuyền với năm thanh niên đang chèo chống. Sóng gió ngày một dữ dội. Bến bờ vẫn mịt mù. Hy vọng sống dần tiêu tan theo bọt sóng. Bỗng nhiên, như có một bàn tay thần diệu giữ lấy, chiếc thuyền không chao đảo nữa. Sóng vẫn cuồn cuộn. Nhưng thuyền chỉ lắc nhẹ. Và rồi, thuyền nhẹ nhàng lướt sóng tiến về phía trước. Bão tố cứ ào ạt xung quanh. Riêng con thuyền, như có một phép lạ, tiến mãi vào bờ.  Cho tới lúc lên được đất liền, năm chàng trai vẫn không khỏi ngỡ ngàng vì sự kì diệu đã giúp mình thoát khỏi hiểm nguy. Họ tiến về phía doi cát, nơi có mấy cây phi lao còi cọc...

 

          Cuộc sống cứ trôi đi. Năm chàng trai sửa thuyền, ra khơi đánh cá. Nhưng họ vĩnh viễn không trở về cố hương được nữa, bởi đây là vùng quá xa quê hương họ. Họ quyết định xây quê hương mới ở mảnh đất này. Năm người thuộc năm gia đình khác nhau, nay kết nghĩa anh em, cùng xây dựng cơ đồ. Họ dựng một căn nhà làm chỗ chung sống. Họ đem cá lên tuốt miền đồng ruộng đổi gạo và những thức tối thiểu cho cuộc sống. Tuy cuộc sống lao động cực nhọc làm cho họ hết thời giờ để nghĩ vơ vẩn, song từ trong sâu thẳm của mỗi con người, tự họ thấy có những khoảng trống vô tận. Họ cô đơn quá. Bởi vì tuy là năm người, nhưng chỉ có một giới - giới đàn ông!

 

          Rồi tới một hôm, trời lại làm giông bão. Trong khi 4 người anh đang ngủ thì Dương, chú em út, bỗng thấy lòng dạ không yên. Tiếng gầm thét của  bão tố như những ngọn roi quất vào trái tim chú. Chú nhỏm dậy, vạch liếp nhìn ra, thấy trời đang hừng sáng. Lạ nhất là hôm ấy bão tố, mưa tuôn mù mịt, nhưng mặt trời vẫn hiện ra chói lọi. Chú bước ra ngoài, dõi mắt nhìn ra khơi xa. Bỗng chú giật mình vì thấy một con sóng lạ, to như một quả núi lừng lững tiến vào bờ. ánh mặt trời như hào quang toả lung linh xung quanh lưng sóng. Con sóng tiến vào ngày một nhanh, một dữ dội. Như có một ma lực hút  về phía trước, Dương lao thẳng tới phía con sóng. Lạ chưa kìa, con sóng không dừng lại nơi mép biển, mà lại phóng mãi, phóng mãi trên bờ cát. Dương vẫn lao tới. Rồi chú đứng khựng lại khi nhận ra trước mắt mình không phải là một ngọn sóng, mà là một con cá voi khổng lồ. Con cá không chuyển động nữa, mà nằm xoài trên cát. Con cá đang bị chính sức nặng của thân hình nó làm dập nát lục phủ ngũ tạng, đang quằn quại đau đớn. Nó vật vã tấm thân khổng lồ, làm cát bị đào sâu thành những hố lớn. Duy chỉ có phía hông trái con cá, cát vẫn phẳng lì, mịn màng. Và Dương mở to mắt khi nhận ra trên nền cát mịn ấy là một người con gái nõn nà được phơi bầy như thủa mới lọt lòng dưới mưa và dưới ánh mặt trời le lói, dù bị sóng gió dập vùi, vẫn không mất đi vẻ đẹp đằm thắm. Người con gái thoi thóp thở, vồng ngực trinh nguyên lấp lánh nước. Dương nhào tới xốc người con gái lên, ấp vào tấm thân cường tráng của mình, sưởi ấm cho nàng bằng ngọn lửa trai trẻ rồi lấy quần áo ngoài của mình mặc cho nàng và cõng nàng về nhà...

 

          Người con gái được ở một buồng ngăn bằng lá dừa ghép, ngày ngày lo cơm nước cho các chàng trai. Từ đó, căn nhà như có một ngọn lửa luôn luôn sưởi ấm. Ngọn lửa trong cô gái vô hình mà mãnh liệt, không định hướng, cứ lan toả cả căn nhà, đem hơi ấm đến cho mọi người. Cô có biết đâu chính ngọn lửa ấy đang thiêu đốt các chàng trai, từng người, từng người một, lúc thì làm cho trái tim họ rung lên mãnh liệt, lúc lại làm cho những trái tim ấy co thắt đau đớn. Họ vẫn đi biển, đổi cá lấy vật dùng, nhưng khó nói với nhau hơn, ngượng ngùng và dè chừng nhau trong quan hệ với cô gái. Riêng chàng út, người duy nhất trong số năm anh em được thấy Nàng trong vẻ nguyên sơ với làn da mịn màng và bộ ngực tràn căng sức sống, thì ngày một ủ rũ.  Chàng đổ bệnh, không đi biển được. Hôm ấy, 4 người anh ra khơi. Khoảng trưa thì trời làm giông bão. Một tiếng sét nổ vang trời. Cây phi lao đầu doi cát bốc cháy rừng rực. Đang mê man trong cơn sốt, Dương nghe văng vẳng tiếng nói như từ khơi xa vọng về:”Hỡi người con của biển, ngươi hãy cứng rắn lên! Ta là cá voi đã lấy thân mình dìu chiếc thuyền trong đêm giông bão,  cứu mạng  năm anh em ngươi. Chính ta cũng đã đưa cô gái từ khơi xa về cho các ngươi, những tưởng sẽ đem sung sướng đến cho cả năm người. Vì cô gái không thể tự vào bờ như các ngươi đã chèo thuyền vào bờ, nên ta phải đưa cô gái lên hẳn bờ và rồi ta phải phơi xác trên bờ biển. Nào ngờ, chính cô gái đang trở thành hố ngăn cách giữa năm anh em các ngươi. Nay ta đã được Mẹ Biển phong thần, ta không thể để cho các ngươi sống héo hắt trong  niềm đố kỵ vì một cô gái. Vì ngươi là kẻ đã nhìn thấy hết  những gì trong trắng nhất mà trời đất đã ban cho cô gái, cũng vì ngươi đã truyền hơi ấm của mình cho cô gái và tiếp nhận cái dịu mát mà làn da cô gái đem lại, nên ta để cho ngươi chung sống với cô gái. Ta sẽ đưa 4 người anh của ngươi đến một bến bờ khác để họ có cuộc sống riêng cho mình. Ngươi hãy cùng chung sống với cô gái đến đầu bạc răng long, con cháu đầy đàn. Nhưng ngươi phải truyền lại cho con cháu, đời  này nối đời kia, rằng biển là mẹ lớn của các ngươi, biển cho các ngươi những gì đáng cho, đủ nuôi nấng các ngươi, nhưng các ngươi không được tham lam tàn phá biển, các ngươi phải thương yêu biển, thương yêu đồng loại!”. Lại một tiếng sét nữa nổ vang. Dương bừng tỉnh. Trời đột nhiên quang đãng, trong xanh, nắng rực rỡ. Nhìn ra bờ biển, nơi xác cá voi mắc cạn năm nào mà năm anh em đã cố đào hố chôn, nay bỗng xuất hiện một gò lớn, có cả các tảng đá và cây xanh...

 

          Dương và người con gái trở thành tổ tiên của dân làng này. Khi làm ăn khấm khá, Dương đã bỏ tiền xây ngôi miếu thờ thẫn cá voi. Lễ hội cũng sinh ra từ thời ấy, để tưởng nhớ “Ông” đã bỏ mình vì con người. Hàng năm,. qua lễ hội, với bài văn tế sâu sắc và các trò chơi sinh động, dân làng  lại ôn lại chuyện xưa của làng, nhắc nhau sống cho phải đạo làm người.

 

          Khi Châu vào giường thì đã qúa nửa đêm. Một giấc ngủ nặng nề ập đến, với những giấc mơ kinh khủng. Giấc mơ nào cũng có mìn và tiếng nổ. Những cột nước biển do mìn tạo ra tung bọt trắng xoá. Cá bị sức ép nổi lên lềnh bềnh. Những chiếc vợt múc vội múc vàng, chỉ hớt những con cá lớn, còn những con nhỏ thì phó mặc cho biển cả. Xác những con cá nhỏ trắng xoá cả biển, cứ xô ào đến Châu, như một lớp sóng bạc kì lạ, làm Châu tức thở. Châu hét to:”Cứu với!” và chồm dậy, nhảy xuống giường, chạy vụt ra khỏi nhà.

 

          Từ ngày ấy, Châu không ra biển nữa. Suốt ngày gã lang thang trong làng. Cứ nghe có tiếng nổ, dù nhỏ như tiếng pháo tép, gã cũng ôm đầu, ngồi dúi xuống đất và rên rỉ:”Mẹ biển ơi, cứu con với!”.

 

 

 

 

                                                                   Quảng Ninh, 22 tháng 7 năm 1996

 

Chú bé

vùng ranh

 

  Cô giao liên trạm hai mươi bốn tươi cười bảo chúng tôi: “Ba, giao liên mới của các anh đó!”. Theo tay cô, tôi nhìn thấy ở đoạn đường trước mặt một chú bé dẫn đầu một đoàn người đang bước tới. Chú đội cái mũ lưỡi trai to tướng, sụp cả xuống vầng trán, trông thật ngộ. Lưng chú mang một cái túi bằng bao bột mì. Vai chú khoác một khẩu AK báng xếp. Khẩu súng, mặc dầu đã được xếp báng lại khá gọn gẽ, vẫn có vẻ dài lượt thượt so với thân hình lũn cũn của chú. Bước tới gần chúng tôi, Ba ngẩng mặt lên, nhoẻn cười:

  - Chào hết mấy anh nghe!

  Hấp háy đôi mắt, chú nghiêng đầu về phía cô giao liên trạm hai mươi bốn:

  - Đi nhanh dữ chị? Rứa là em lại đến sau chị rồi, tức thiệt! Nói rồi chú cười. Trên khuôn mặt tròn vành vạnh của chú, nụ cười thật rạng rỡ. Với dáng dấp lanh lợi đó, Ba đã thu hút được cảm tình của tôi ngay từ đầu.

  Ba mang gùi công văn, vai vác AK đi đầu. Chúng tôi nối hàng một bước theo. Đường xuyên qua một khu rừng bị rải chất độc vào mùa hè năm trước. Mặc dầu đã là mùa xuân, khu rừng vẫn còn mang nặng dấu tích của sự tàn phá. Những cây to vẫn trụi lá, giơ những cành khẳng khiu, khòng khoeo lên trời. Chỉ những cây nhỏ là đang nứt lên những chồi non xanh mơn mởn. Tôi im lặng bước theo Ba. Đường chúi xuống dốc. Đất gan gà pha sỏi lạo xạo dưới chân trơn lạ lùng. Tôi trượt hoài. Ba ngoái lại, cười:

  - Con đường của em lạ rứa đó, nắng thì trơn, mưa lại êm! Đấy, anh coi, những hòn sỏi như những bánh xe lăn đôi dép đi ấy.

  Rồi em hạ thấp giọng, vẻ quan trọng:

  - Đi đường cũng phải rút kinh nghiệm anh nhỉ! Những đoạn này mà cứ cúm rúm dò từng bước, chỉ tổ trợt xoạc cẳng. Phải mạnh dạn bước từng bước chắc chắn, bước nọ tiếp bước kia mới được.

  Im lặng một lúc, như chợt nhớ ra điều gì, Ba hỏi tôi, một câu hỏi chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện đang nói cả:

  - Anh, ở căn cứ anh có nuôi gà rừng bao giờ chưa? Trên đó nhiều thứ gà, chim đẹp lắm nhỉ?

  - ừ, nhiều lắm, nhưng anh chưa nuôi gà rừng bao giờ cả!

  - Bữa hổm, em lượm được ba trứng gà rừng, cho gà của trạm ấp, nở ra ba con gà con. Chao, nó đen thui như Mỹ đen, trông phát phiền anh à!

  Rồi, như bị cuốn hút vào cái việc nuôi gà thú vị ấy, Ba dấn bước vượt lên đỉnh dốc, vừa thở phì phò, vừa nói liến láu:

  - Cái giống rừng nó vẫn quen rừng anh ạ! Vừa xuống ổ là chạy rúc bụi liền! Em phải đem cái lồng, nhốt chúng vào trong. Anh có biết làm cách nào cho chúng quen nhà không?

  Ba hay có những câu hỏi đột ngột, thật khó trả lời. Và em lại hay tự trả lời những câu hỏi đó. Em say sưa:

  - Chắc rồi hắn sẽ quen anh hỉ? Cứ đi trực về là em đưa sắn vụn vào tận trong lồng cho chúng ăn. Mình chăm hắn rứa, lẽ nào hắn lại không ưng mình?

  Tôi chăm chú theo dõi câu chuyện ngộ nghĩnh ấy của Ba. Ba vẫn bước thoăn thoắt phía trước, cái đầu lắc qua lắc lại. Khi lên tới đỉnh dốc, Ba dừng lại, quay nhìn chúng tôi:

  - Ráng lên các anh, tới đây mát lắm!

  Em tháo gùi, đặt xuống một tảng đá gần đó. Anh em trong đoàn lần lượt đặt ba lô, gùi xuống, thở phào khoan khoái. Tôi và Ba ngồi trên một tảng đá cao, to. ở đây, tầm mắt  chúng tôi trải rộng ra, phóng khoáng. Trước mắt tôi, con đường chúi xuống một cái dốc rồi khuất dần sau những dải đồi bát úp lúp xúp. Xa hơn nữa là những nà, những ruộng um tùm cỏ. Và tít tắp dưới kia, bao la, phóng khoáng, là đồng bằng, là biển. Lẽ ra, cái thảm cây cỏ đó phải phủ đầy màu xanh dịu dàng. Nhưng, chiến tranh đã ghi lên những dấu tích lở lói. Có những khoảng rừng cây cối khô trụi, phơi mầu mông mốc dưới nắng. Có những vạt rẫy cây cối vàng ruộm. Đó là kết quả của những trận máy bay Mỹ - Nguỵ rải chất độc hoá học. Lỗ chỗ khắp nơi là những hố bom, hố đại bác đỏ lói.

  Một luồng gió từ biển thổi thốc về, mát rượi. Ba chợt thốt lên:

  - Mát quá anh hè! Gió ni là gió cá chuồn đây!

  Tôi hỏi lại:

  - Gió cá chuồn?

  Ba lấy tay quệt mồ hôi trán, vẻ thành thạo:

  - Trời cứ gió như ri đi biển là trúng lắm, cá chất đầy thuyền!

  - Em có đi biển?

  - Quê em vùng biển.

  Ba đưa tay chỉ về phía xa xa:

  - Quê em, Kỳ Anh đó!

  Rồi em say sưa:

  - Ông già em làm nghề biển. Em chỉ được ra bãi biển đón thuyền vô, chớ chưa được đi biển anh à! Hồi đó em có chút chun mà. Má em gánh cá, em chạy theo. Chao, vui lắm.

  Ba lại chợt hỏi:

  - Anh được ăn cá chuồn với bánh tráng chưa? Chưa à? Chà, ngon tuyệt! Má em hay cho em ăn món đó lắm!

  Tôi hỏi:      

  - Giờ, ba má em vẫn đi làm biển?

  Giọng Ba chợt giận dữ:

  - Đâu có được, anh!

  Ba dừng lại một chút. Em nhìn mãi ra xa. Sao ở đôi mắt ngây thơ ấy lại có cái nhìn xa xăm đến như vậy. Một tràng bom nổ rền làm cắt ngang câu chuyện của chúng tôi. Ba đứng dậy:

  - Lại thằng B.57. Thôi, đi, mấy anh!

  Ba dặn dò:

  - Từ quãng này đường trống, địch chú ý lắm. Các anh nhớ đi thưa hàng và nhanh theo em nghe! Mà các anh sửa lại đai dép, dây mang cho chắc đã!

  Tôi đứng chăm chú nhìn Ba xốc lại gùi. Chú bé thật hồn nhiên, song lại có những nét thật cứng cáp. Bắt gặp cái nhìn chăm chú của tôi, Ba bỗng đỏ ửng mặt lên, lúng túng. Em giật cái mũ lưỡi trai trên đầu xuống, bóp nhàu trong tay:

  - Em đội cái mũ ni lấc cấc lắm hả anh? Trước, em cũng có chiếc mũ Giải phóng xinh lắm, nhưng pháo lượm mất rồi!

  Mọi người đã rục rịch bước đi. Ba bỏ dở câu chuyện, vượt lên:

  - Đoạn này em phải đi trước. Nhớ cảnh giác bám đường nghe mấy anh!

  Đường vượt qua một dãy đồi bát úp rồi trườn xuống một cái nà lớn. ở đây, cỏ dại mọc um tùm, thỉnh thoảng có vài bụi lách, tuyệt không có một chòm cây lớn nào! Một dòng sông lớn cắt ngang nà, nước loá lên trong ánh nắng. Nắng vàng ong ong. Cỏ và bùn hấp hơi nóng, bốc lên mùi hăng hăng, tanh tanh. Bầu trời trong xanh, tít xa điểm mấy chấm đen của những chiếc máy bay trực thăng. Im lặng một cách kỳ lạ! Ba vẫn đi trước, ghìm chắc trong đôi tay nhỏ bé khẩu AK. Chúng tôi rảo bước theo em. Chợt Ba ngoái lại, vẫy tay rồi rúc vào một bụi cỏ. Chúng tôi nhanh nhẹn làm theo em, ngồi im thin thít. Có tiếng động cơ máy bay phành phạch, phành phạch. Ba chiếc HU1A bay ngang đầu chúng tôi rồi lướt về phía Tam Kỳ. Ba gọi chúng tôi, vụt ra khỏi bụi và lại rảo bước. Sắp tới con sông, Ba ra hiệu cho chúng tôi dừng lại. Em men theo các bụi cỏ, lom khom bước tới. Phía trước em là một bãi cát trắng. Bãi cát loá nắng, vắng lặng, chỉ có tầng không khí bị nung nóng khẽ xao động. Ba nghe ngóng, dò xét rồi vụt chạy ra, vẫy tay cho chúng tôi chạy theo. Cát xào xạo dưới chân. Rồi nước! Nước con sông đã ôm gọn đôi chân tôi. Mát rượi! Dòng sông vào mùa này trong suốt, hiền từ như một dải lụa. Ba đã lội qua bờ bên kia. Chúng tôi cũng lội ào qua, đạp nước tung toé. Lại đạp lên cát xào xạo, sỏi lổn nhổn mà chạy vào xóm trước mặt. Thoáng nhìn, giữa bãi cát, một vũng máu đen kịt. Chắc lại có người bị bọn Mỹ “lết” phục kích bắn chết. Thoáng nghĩ vậy mà vẫn lao nhanh về phía trước...

  Vào tới xóm, Ba để chúng tôi ngồi nghỉ ở một vườn cây và bảo:

  - Các anh nghỉ chút, em đi nắm tình hình rồi quay lại liền!

  Vừa bước được mấy bước, gặp một tốp người từ phía Bắc đi lại, Ba chợt reo lên:

  - A, anh Luyện!

  Mới kịp giáp mặt, Ba đã tíu tít:

  - Sao anh, tình hình đường ra sao?

  Luyện nắm tay Ba, ân cần:

  - Lũ Mỹ “lết” mới qua Dương Tranh, Bầu Tre, không đi đường ni được em ạ!

  Ba nhíu mày:

  - Vậy phải vòng qua Đèo Sỏi?

  Hình như mỗi con đường đều hằn rõ trong óc Ba nên em mới có thể nói một cách chắc chắn như vậy. Luyện gật đầu:

  - Chỉ có con đường nớ thôi. Em đi, chú ý pháo nghe! Bọn anh đi bám địch đây!

  Ba dẫn chúng tôi rẽ ngoặt về hướng Tây. Luyện đưa anh em du kích tiến về hướng Bắc. Bóng những người du kích vai vác AK, CKC khuất dần sau những hàng cây rậm rạp.

  Trời đổ ập bóng tối xuống, trùm kín chúng tôi. Con đường chỉ hiện lên mờ trắng trước mặt. Trước khi vượt qua một cánh đồng lớn, Ba đứng lại căn dặn:

  - Các anh chú ý nghe pháo. Có chuyện chi thì lăn xuống con mương cạn ngay bên phải đường. Cánh đồng ni bọn em gọi là cánh đồng toạ độ đó!

  Bóng Ba mất hút trong màn đêm. Chúng tôi cứ căng mắt theo con đường mờ trắng mà vọt theo. Có tiếng pháo đề pa ở phía Nam “ùng”. Tiếp đó là tiếng rít: “víu...!”. Sau đó là tiếng nổ “oàng” ở phía xa. Tiếng Ba vang lên: “Kệ nó! Thằng Trà Bồng đó! Nổ xa”. Tiếng “ùng!... viu... oàng” cứ nối tiếp, nối tiếp điểm nhịp bước chân của chúng tôi. Rồi đột nhiên im bặt. Chỉ còn tiếng những bước chân chạy thình thịch trên đất. Gió đột nhiên tràn về mát rượi. Vừa thoáng nhớ tới lời Ba: “Gió cá chuồn” thì tôi bỗng giật nảy người lên vì tiếng thét: “Nằm xuống!”

  Chỉ kịp lăn bừa xuống con mương khô, đã thấy trước mặt bung ra một quầng lửa chói loà rồi một tiếng nổ dữ dội. Những quầng lửa như vậy cứ liên tiếp bùng lên khắp cánh đồng như những đốm ma trơi khổng lồ, nổ chát chúa. Rồi lại im. Tiếng Ba vang lên: “Có ai hề chi không?” Chúng tôi ngồi dậy: “Không!”. Ba dằn giọng:

  - Thằng Gò Gai đó! Các anh chú ý, nghe tiếng xoẹt trên không là lăn xuống mương liền nghe. Thôi đi!

  Con đường, cánh đồng với những đốm ma trơi nổ choang choác đã ở sau lưng chúng tôi. Ba dẫn chúng tôi rẽ vào một xóm nhỏ. Xóm im lìm chìm trong màn đêm đen đặc. Dò dẫm từng bước một thì vào một căn nhà nhỏ. Căn nhà bỏ hoang, không phên vách, không mái. Duy chỉ có cái hầm là còn tốt. Ba dẫn chúng tôi xuống ngồi trong hầm. Em cười:

  - Mệt không các anh? Các anh hút thuốc đi, ngồi đây hút được đó!

  Trong khi người lục túi lấy thuốc, người sửa lại bao mang, thì Ba đã nhảy lên khỏi hầm, biến mất trong bóng đêm. Lát sau, Ba trở lại:

  - Uống hớp nước, các anh. Chắc khát hung rồi!

  Chúng tôi ồn lên vì sung sướng. Trải qua một ngày nắng gắt, một thôi chạy, ai nấy mệt nhoài, khát cháy họng. Những hớp nước Ba mang lại lúc này thật quý vô cùng. Những đốm lửa thỉnh thoảng lại loé lên từ đầu những điếu thuốc. Có ai đó quẹt thùng diêm làm bừng sáng lên một góc hầm, Ba ngồi ở góc đó, mắt sáng long lanh, vẻ sung sướng. Đột nhiên, có một tiếng kêu: “Chết cha tui rồi!”. Ba thảng thốt:

  - Chi đó anh?

  Một tiếng đàn ông ồm ồm đáp lại:

  - Trời ơi, cái xắc tài liệu của anh sút đai, rớt lúc nào rồi!

  - Cái xắc? Nó mới rơi?

  - Chắc vậy, trước khi vượt cánh đồng, anh còn nắn đai nó mà!

  Ba ngồi im lặng. Còn anh em khác thì cứ ồn lên trách móc anh cán bộ già đã đánh mất cái xắc:

  - Sao không cột đai cho chắc?

  Anh cán bộ rầu rĩ:

  - Cực quá, xắc đó đựng toàn tài liệu quan trọng! Làm sao bây giờ?

  Ba đứng vụt dậy:  

  - Để em đi kiếm về!

  Có tiếng can ngăn:

  - Biết ở mô mà kiếm, em?

  - Pháo bắn dữ rứa!

  Nhưng Ba đã nhảy phốc lên mặt đất, mất hút trong màn đêm. Cả căn hầm rì rầm, xao động. Có ai đó thốt lên:

  - Thằng nhỏ dễ thương quá!

  Một giọng khác tiếp:

  - Thằng nhỏ mau lớn dữ! Mới cách đây chưa đầy năm, nó chút chun chứ mấy!

  Rồi vẫn giọng đó kể:

  - Hồi nớ bọn mình đi từ dưới lên, cũng qua vùng ranh này, nhưng đường còn tĩnh, không ác liệt như bữa ni mô. Các ông biết đó, cánh già bọn mình đi bết lắm, đã chậm lại nghỉ nhiều. Thấy giao liên là một chú bé mười hai, mười ba tuổi, bọn mình đòi nghỉ luôn. Cứ đi chừng hơn nửa tiếng lại: “Ba, uống nước cam đã em”, hoặc: “Chà, chỗ ni mát rứa, không nghỉ cũng uổng, Ba...”.

  Ba cứ lặng lẽ chiều theo bọn mình. Nhưng khi mặt trời gần đứng bóng, không nén được nữa, chú bé van vỉ: “Các chú đi mau lên, không quá giờ, trạm trên bỏ trực, con bị phê bình”. Rồi nó oà lên khóc.

  Một anh cười lớn:

  - Ô, thế thì chuyến đi của mình với Ba lại khác hoàn toàn. Bữa ấy không có Ba chắc mình chết mất. Chẳng là bữa ấy, Ba cũng dẫn mình qua bãi trống hồi trưa bọn mình vượt qua đấy. Chẳng may dép của mình tuột quai. Thằng “chuồn đen” ở đâu lại lùi lũi đến. Hoảng quá, mình chạy quýnh cẳng giữa bãi trống. Thằng “chuồn đen” nghiêng cánh, thế là pháo nã tới tấp, tung bụi mù mịt. Mình không biết chạy đường nào nữa. Chính lúc đó Ba lao ra hét lớn: “Nằm xuống!” rồi kéo mình nhào xuống một hố đạn gần đấy. Thằng “chuồn đen” quần lượn nhòm ngó, và mỗi lần nó nghiêng cánh là pháo lại dập tới. Ba ngước mắt nhìn trời, bảo mình: “Anh, chạy theo em nghe!”. Rồi Ba kéo tay mình, lao lên. Hễ thằng “chuồn đen” quay đi thì Ba kéo tay mình chạy. Lúc nào nó vòng lại thì Ba kéo mình nằm xoài xuống, giấu thân trong cỏ. Rồi cũng thoát. Hai anh em chạy vào trong xóm ngồi thở. Mình nhìn Ba bỗng giật mình. Trên đầu Ba một dòng máu đang chảy ri rỉ. Chiếc mũ tai bèo của em đâu mất...

  Một anh sốt ruột hỏi:

  - Sao? Ba bị thương à?

  - Bị thương, Ba bị thương... Nhưng em chỉ nhoẻn cười, đưa tay vuốt dòng máu: “Không hề chi anh, như con vắt cắn thôi”. Chúng mình lại đi. Lúc này, một chiếc “tàu rọ” cùng mấy chiếc HU1A nữa bay tới, quần sát sạt bãi nà. Thật hú hồn! Nếu cứ quýnh ở đó thì nó chộp cổ rồi!”. Điếu thuốc tắt từ lúc nào anh không hay. Anh móc thùng diêm quẹt quẹt... Bữa ấy, Ba cứ đầu trần vậy mà đi dưới nắng. Một anh trong đoàn có cái mũ lưỡi trai của lính nguỵ, không hiểu lượm được ở đâu, vẫn nhét trong túi ba lô, liền đưa cho Ba, nói mãi chú bé mới nhận. Nhưng vừa chụp nó lên, em lại giật xuống ngay: “Dị òm anh, cái mũ thằng nguỵ coi lấc xấc, thôi trớt”. Bọn mình phải xúm lại giải thích mãi, chú bé mới chịu...

  Lại một đợt pháo nữa dội tới. Chúng tôi nhổm lên nhìn lại phía cánh đồng. Trong bóng tối, những chớp sáng loé lên liên tục. Tiếng nổ chát chúa. Căn hầm rung lên. Trái tim tôi như có ai bóp thắt lại. Tôi lo cho Ba. Tôi bỗng thấy thương em vô hạn. ở em, sao cái ngây thơ, hồn nhiên lại kết hợp hài hòa với cái cứng rắn đến thế. Tôi bỗng nhớ đến những mầm non ở những cánh rừng bị chất độc hoá học. Những thử thách với chúng thật lớn. Song, chúng vẫn bật dậy mạnh mẽ và xanh tươi mơn mởn. Mỗi khi nhắc lại những ngày qua, Ba hay nói: “Hồi đó em còn bé”... Đúng là giờ đây em đã lớn, lớn vụt lên rồi.. Nhưng những gì ngây thơ của con trẻ, em vẫn còn nguyên.

Những chớp lửa ma quái, những tiếng nổ độc địa cứ chụp lên con đường kia. Những con đường đã biết bao lần in dấu chân em... Ngoài đồng, tiếng pháo vẫn nổ. Còn trong hầm thì im lặng. Chỉ có những đốm lửa thuốc lá loé lên và di động. Anh cán bộ già lại thở dài. Tiếng muỗi vo ve, vo ve thật khó chịu. Đột nhiên pháo im bặt. Sự chờ đợi như bình khí khổng lồ bị nén lại. Rồi, pháo lại gầm lên. Lần này, tiếng pháo nặng lắm và dồn dập hơn. Người có kinh nghiệm nhận ra ngay đó là đợt pháo bầy mà bọn địch thỉnh thoảng vẫn dùng nhằm huỷ diệt mục tiêu. Tiếng nổ trầm đục là tiếng pháo biển, xuyên sâu xuống lòng đất mới phát nổ nhằm phá hầm hố. Còn tiếng nổ chát chúa là tiếng pháo chụp nổ ngay trên không, toá mảnh xuống giết những người ở trên mặt đất. Pháo từ biển, từ mấy trận địa tập trung dội vào cánh đồng này, mỗi lúc một dồn dập hơn. Ba, em đang ở đâu?

  May thay, Ba đã trở về. Em như một làn gió mát rượi của vùng biển quê em đột nhiên tràn tới. Em nói như reo lên:

  - Cái xắc đây anh!

  Anh cán bộ già nhào ra phía cửa hầm ôm lấy Ba. Nhưng Ba đã nói to:

  - Đi, mấy anh! Đi mau về còn nghỉ!

*

  Buổi sáng ở đồng bằng thường đến sớm hơn ở miền núi. Mới khoảng bốn giờ, bầu trời đã chuyển sang mầu trắng đục. Chúng tôi dậy nấu cơm. Phải nấu cả cơm sáng, cơm trưa. ở những vùng gần địch, người ta quen làm như vậy.

  Ba ăn cơm xong từ lúc nào, đang ngồi băm vụn mấy củ sắn. Bên cạnh em là mấy cái lồng gà. Con gà mẹ xù lông, cục cục. Ba con gà đen thui kêu chíu chít, rúc mỏ qua những kẽ nan. Tôi hỏi:

  - Sao có ba con thôi em?

  Ba ngẩng lên:

  - Bữa địch càn, phải làm thịt con gà cồ. Sợ nó gáy, địch nghe thấy. Gà mái không có cồ, đẻ trứng ra không ấp được. Ba con gà ni, trứng gà rừng nở ra, mà em nói với anh đó.

  Ba nhoẻn miệng cười rồi chúm môi “huýt huýt”... Bầy gà con kêu chiêm chiếp... Ba nghiêng đầu, một tay mở cửa lồng, một tay vốc sắn đưa vào trong. Bầy gà tranh nhau mổ sắn trên tay Ba.

  Ăn cơm xong, chúng tôi xếp đồ đạc gọn ghẽ, ba lô sẵn sàng. Anh em trong trạm mang những đồ dùng lặt vặt trong nhà như con rựa, thùng nước... giấu vào những bờ bụi quanh trạm. Bầy gà được nhốt vào hai cái lồng lớn. Con heo độc nhất còn sót lại sau đợt càn vừa qua, cũng được cột chân lại, cho vào một cái rọ lớn. Đó là cách nghe ngóng xem địch có càn không. Nếu có thì có thể lánh kịp, không để cho địch phá.

  Mặt trời vừa dậy đã nhăn nhó phóng những tia nắng chói chang xuống. Bầu trời cao hẳn lên, vời vợi. Tiếng động cơ xe tăng rú phía xa. Nơi ấy là đồn địch. Vài chiếc tàu rọ quần lượn cao cao. Vài chiếc tàu vận tải bay qua bay lại nặng nề. Có những tiếng pháo điểm cầm chừng. Xa xa lại có tiếng súng máy nổ liên thanh. Và bầy bồ chao ngủ muộn giật mình choàng dậy, hỏi nhau rối rít, tranh cãi nhau loạn xạ. Như vậy là buổi sáng yên lành. Chừng chín, mười giờ có thể đi làm những việc cần thiết.

  Anh em trong trạm lục tục mang gùi, rựa, kéo nhau đi. Chỉ còn cô trạm trưởng ở nhà với khách. Chúng tôi lấy võng ra, cột nằm một chút. Căn nhà của trạm đơn sơ, giống như mọi căn nhà của đồng bào vùng ranh này. Nói nhà thì hơi quá, bởi vì nó không phên, vách, không bàn, ghế, giường. Chỉ có mấy hàng cột với hai mái tranh sơ sài. Tuy nhiên, căn hầm lại rất chắc chắn. Nó được đào rộng bằng cả nền nhà, trên lát một lớp cây lớn, lấp một lớp đất dầy. Căn hầm đủ chỗ cho chín mười người cột võng nằm được. Tôi nhìn khắp gian nhà, suy nghĩ mung lung... Cuộc sống của người giao liên vùng ranh này giản đơn vậy đó. Với căn nhà xuyềnh xoàng, với những đồ dùng gọn, anh chị em trụ bám ở một vùng ác liệt, thầm lặng đưa bộ đội, cán bộ qua lại. Họ nối liền căn cứ với đồng bằng. Con đường của ta thành mũi dao thọc vào tim kẻ thù. Hằng ngày, chịu biết bao gian khổ ác liệt, nhưng họ vẫn sống lạc quan, vui vẻ, yêu đời.

  Cô San, trạm trưởng, mang sổ ra hí hoáy ghi chép số khách. Xong, cô mở một quyền vở học sinh, lẩm nhẩm đọc:

  Em là mạch chứa dòng máu nóng

  Em nối liền căn cứ với tiền phương

  Con đường em cháy bỏng yêu thương...

  Đọc tới đó, San cười rúc rích và hỏi tôi:

  - Anh, có phải bài thơ ni nói về giao liên chúng em không?

  Tôi gật đầu:

  - ừ, bài thơ ca ngợi các đồng chí đấy!

  San lắc đầu quầy quậy:

  - Không, chúng em có gì đâu mà ca ngợi!

  Tôi cười:

  - Nói lạ chưa! Đó, như Ba chẳng hạn, thật là một cậu bé thông minh, dũng cảm!

  Nghe nói tới Ba, San kể:

  - Gia đình Ba tội lắm anh à! Cha hắn làm biển bị bo bo bắn chết cùng hơn chục bà con khác. Nhà chỉ còn hai má con hắn, lại bị bọn địch bắt vào khu đồn.

  Xếp chồng công văn lại, cô trạm trưởng hào hứng kể tiếp:

  - Rồi đồng bào cũng nổi dậy phá banh khu đồn. Bữa ấy có đội công tác về. Ba bám riết anh đội trưởng nằn nì xin đi. Bị từ chối, hắn khóc dẫy lên rồi kéo tay anh đội trưởng tới chỗ má hắn. Ba vừa nói, vừa nấc,  tấm tức: “Má, má nói giùm con... Con đi trả thù cho cha...”.  Anh đội trưởng không nỡ từ chối. Rứa là hắn theo về huyện. Các anh ở huyện lại chuyển cho trạm chúng em...

  Mải nói chuyện, xế chiều rồi mà chúng tôi không hay. Anh em trong trạm đã trở về, mang theo mấy gùi bắp. Những trái bắp nếp bao còn xanh, phốp pháp.

  Lại nhen lửa nấu ăn. Trạm bắc một nồi lớn, nấu đầy bắp trái. Cô trạm trưởng tươi cười:

  - Hôm nay liên hoan nghe mấy anh!

  Thế là cả trạm nhộn nhạo cả lên:

  - Hoan hô trạm!

  - Trạm sang dữ hè!

  - Mà sao lại ăn bắp non, uổng chết!

  - Không, trạm em không lãng phí mô! Những đám bắp trước thu hết rồi, trái nào trái nấy khô cứng, hạt rắn đanh. Đám bắp ni bọn em trỉa muộn, nắng quá, héo cả cây, cả trái, để cũng uổng.

  Chúng tôi, cả khách và giao liên, quây quần bên rổ bắp bốc hơi nghi ngút. Những trái bắp nếp ngắn ngày trông mỡ màng, ăn dẻo như xôi và ngọt lừ. Ba gặm hết một trái, quẳng cùi vào cái sọt, vui vẻ:

  - Các anh xem, trạm em nghèo rứa đó, ăn sắn, ăn bắp thôi!

  Một anh đế vào:

  - Khoai bắp, tình quê rất thiệt thà. Nghèo mà được như ri là quý rồi.

  Tất cả cười vang. Sau nhịp cười sôi nổi đó, San đứng dậy dặn dò:

  - Các anh ăn xong thu dọn đồ đạc cho gọn nghe! Dây mang cột cho chặt. Đai dép rút sít vô cho dễ chạy. Ba và anh Phước, trạm trưởng trạm hai mươi sáu, sẽ dẫn các anh đi.

  Chúng tôi vượt mấy cánh đồng trống, vượt một con sông thì trời đã nhá nhem tối. Lại vượt qua một bãi tranh lớn. Bãi tranh này bị bọn địch rải xăng đốt trụi, rộng thênh thang như một sân bay. Ba đi đầu. Phước đi cuối hàng. Khi qua khỏi bãi tranh, bước lên một đồi sim thì Phước vượt lên, khẽ gọi:

  - Ba, dừng lại đã!

  Chúng tôi cũng dừng lại, đặt ba lô xuống nghỉ. Ba và Phước ngồi chồm hổm bên một bụi sim. Tôi nghe hai người rầm rì:

  - Em ở chờ đoàn khách, anh bám đường nghe!

  - Không, em bám đường, anh ở chờ!

  - Không được, anh quen đoạn đường này hung rồi!

  - Không, anh đi họp về, anh cũng là khách thôi. Em là giao liên, em phải bám đường!

  - Thằng nhỏ này ngang dữ. Đoạn đường này thuộc về trạm anh. Anh là trạm trưởng, mi phải nghe lời!

  Hai anh em vẫn tiếp tục tranh cãi, mỗi lúc một gay gắt hơn. Tôi ngồi nghe, lòng đầy xúc động. Ai đã từng đi qua vùng ranh những ngày ác liệt mới thấy hết ý nghĩa cao quý của sự tranh giành đó. Phía trước kia là con đường xe chạy. Bọn địch thường ra phục kích. Cái chết rình mò trong từng bụi sim, trên từng bước đường.

Cuộc tranh cãi chấm dứt. Có lẽ là Ba thua. Phước đã ôm súng lẹ bước ra phía lộ. Ba hậm hực quay lại chỗ chúng tôi:

  - Anh Phước giành đi trước rồi! Các anh ngồi chờ một chút! Nếu nghe anh Phước ra hiệu thì khẩn trương theo em. Còn nếu nghe tiếng súng thì các anh chạy quay lại nhà ông Phấn.

  ... Bầu trời đen xẫm. Tĩnh mịch. Không một tiếng máy bay. Không một tiếng pháo. Ba ngồi nhấp nhổm không yên. Bỗng một tiếng súng vang lên. Ba bật dậy, lao vút đi. Tiếng súng AR15 nổ loạn xạ như mè rang. Tiếng AK đáp lại, nhịp ba viên một, chắc chắn. Rồi một tiếng lựu đạn M.26 nổ “ầm”. Và im lặng...

  Chúng tôi ngồi trong nhà ông Phấn, bồn chồn ngóng đợi. Ba đã về kia, tay xách một khẩu AK. Chiếc mũ của em đã văng đâu mất. Mái tóc tơ đẫm mồ hôi, dính bết trước trán. Trong ánh đèn dầu, gương mặt em trông vàng võ lạ. Chúng tôi hỏi dồn dập:

  - Phước đâu?

  - Phước về chưa?

  Ba chỉ ra sân, giọng lạc hẳn đi:

  - Anh Phước ngoài đó...!

  Chúng tôi xách đèn, đổ xô ra. ánh đèn dầu toả ra sân cỏ một vùng sáng vàng yếu ớt. Hai anh du kích đứng ở đó từ lúc nào, lặng im. Còn Phước thì nằm trên nệm cỏ. Tôi cúi xuống nhìn Phước, xót xa. Phước nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng, cánh tay phải bị gẫy nát, cánh tay trái nắm chặt, hơi giơ lên trong tư thế cầm súng bắn. Máu thấm ra ướt cả tấm dù bọc thi thể anh. Chúng tôi đều im lặng. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Tôi thấy hình ảnh Phước cứ hiện rõ trước mặt, vui tươi, cởi mở. Phước trạc ngoài hai mươi, cao gầy, có nụ cười rất đôn hậu, khiến người ta vừa nhìn thấy là mến, tin ngay...

  Hai anh du kích dậm chân, thỉnh thoảng lại chép miệng. Tiếng một anh trầm trầm chìm trong màn đêm: “Lũ chúng mình chậm quá! Nếu đi sớm một chút, đặt kịp mìn ở đoạn trên thì chúng “xoang” rồi, mà anh Phước khỏi hy sinh”. Anh kia ngậm ngùi: “Chúng mình có lỗi, đi phục kích lại bị trễ hơn chúng”.

  Ba từ trong nhà bước ra, giọng thảng thốt:

  - Anh Phước, anh Phước ơi!

  Các anh du kích lại bên Ba, dỗ dành:

  Thôi đừng khóc nữa em! Nhớ trả thù cho anh Phước! Em đi làm nhiệm vụ đi! Dẫn khách đi vào lúc này là tốt hơn cả.

  Hình như nghe nói đến nhiệm vụ, Ba tỉnh táo lại. Em lặng lẽ đứng dậy, xách cái bao bột mì loang lổ máu của Phước, mở ra lấy cái võng, tấm đi mưa, đưa cho anh du kích, giọng bùi ngùi:

  - Các anh đưa anh Phước đi dùm em!...

  Em chỉ cái bao:

  - Trong nớ còn một ít hom sắn, anh Phước xin ở trạm em, trù xuống đó trồng. Các anh lấy trồng quanh nơi anh Phước nằm. Anh Phước siêng lắm, cứ rảnh việc là lại cầm cuốc tăng gia.

 

 

  Quay sang chúng tôi, Ba giục:

Giọng em rắn đanh lại. Trong đôi con ngươi còn lóng lánh nước mắt của em, ánh đèn dầu sáng lung linh như hai ngọn lửa. Không hiểu sao, tôi bỗng nghĩ rằng, từ đôi mắt ấy sẽ phát ra những tia sáng diệu kỳ, soi tỏ màn đêm, rạch ròi từng bờ cây, bụi cỏ, rõ lối cho chúng tôi đi...

 

            (Kỷ niệm chuyến công tác vùng ranh Quảng Nam - 1970)

 

 

Âm bản

 

Bình bỏ vợ

          Không ai ngờ vợ chồng Bình bỏ nhau. Họ đã có với nhau 3 mặt con: hai gái, một trai. Hạnh, vợ Bình, làm kế toán ở công ty IMEX. Bình làm thợ ảnh. Gia cảnh không sung túc gì, nhưng cũng chẳng đến nỗi túng bấn. Cuộc sống gia đình thấy có vẻ êm ấm. Khi họ tuyên bố sẽ bỏ nhau, mẹ Bình khóc hết nước mắt. Cả bà cụ và anh em họ hàng đều đổ xô vào trách móc Bình. Biết ngay mà, cái nghề ảnh là lắm chuyện lắm. Chụp ảnh cho hết cô này đến em khác, tha hồ gần gũi, tán tỉnh. Lại những đám cưới ở quê nữa, đi hai ba ngày, ăn đâu ngủ đâu, chung đụng với những người đàn bà nào, ai mà biết được. Nhất định phải có chuyện lòng thòng gì đây, nên Bình mới bỏ vợ. Lúc Bình đem giấy ly hôn cùng 2 đứa con gái về nhà mẹ đẻ, bà cụ ngã ngất. Khi hồi tỉnh, bà nguyền rủa Bình là người phụ bạc, làm bà mất một dâu thảo. Nhưng chuyện đã rồi. Bình gom tiền mua một căn nhà lá lụp xụp ở chân đê Đại Cồ Việt và vẫn làm nghề ảnh.

Bình vào tù

          Trong nhà, chỉ mỗi mình Bình là liên tục gây ra những chuyện lộn xộn. Công an đến đọc lệnh bắt Bình vì tội “Lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa”. Bình im lặng đưa hai tay vào còng số 8, lẫm lũi đi theo hai anh công an. Đi một đoạn, Bình mới như sực tỉnh, quay lại dặn cô con gái lớn: “Thuý, bà đang ốm nặng. Thôi, nước cùng này thì con và em đưa nhau về ở tạm với mẹ vậy!”.

          Những lời trách móc lại đổ dồn vào Bình, dù rằng Bình không còn được tự do ở nhà mà nghe. Cái người tự phá nát gia đình mình, rồi cuộc sống sẽ chẳng ra gì. Cho nên, vào tù là phải. Với vợ là người đầu gối tay ấp còn bội bạc, huống chi đối với người dưng nước lã. Chắc định lừa quỹ tín dụng để cuốn gói vào Nam, chứ buôn bán gì. Cái ngữ ấy làm sao mà biết buôn. Chắc là có cô bồ nào, định rủ nhau chuồn vào Nam làm ăn mới tính hốt một vố đây. Nhưng lưới trời khôn thoát, mình làm mình chịu kêu mà ai thương.

          Suốt mười tháng ở tù, Bình không được ai trong gia đình đến thăm. Mẹ đã chết ngay sau khi Bình bị bắt giam. Hai con còn quá nhỏ. Anh em thì không thích liên luỵ với kẻ lừa đảo. Tù đã khổ. Tù trong nỗi cô đơn càng khổ hơn. Khổ quá bật thành thơ. Bình ghi chép thành một tập thơ mỏng nhan đề “Tâm sự người

 

tù cô đơn “. Nhưng đến khi sắp ra tù, Bình bị mất tập thơ ấy, nên đến bây giờ vẫn chưa ai biết nội dung  “Tâm sự người tù cô đơn” ra sao.

          Ra tù, Bình không làm nghề ảnh được nữa. Bây giờ người ta chuyên chụp ảnh mầu, dùng MINILAB, ai còn chơi ảnh đen trắng. Muốn chụp ảnh mầu, phải có vốn lớn. Bình lấy đâu ra tiền mua sắm phương tiện. Anh em trong nhà chẳng ai chịu cho Bình - kẻ lừa đảo - vay tiền. Chú em ruột Bình, một người khá giả, có cái xe quay nước mía bỏ không, nhưng Bình van vỉ đến bã bọt mép cũng không mượn được. Bình đành đi xúc cát thuê ở bến Chương Dương, cật lực mỗi ngày được 7 nghìn đồng. Nhưng không cạnh tranh nổi với nhóm dân Thanh Hoá, vì họ bán sức lao động quá rẻ. Sau đó, có một người quen bán bộ đồ nghề cắt tóc giá 100 nghìn đồng. Bình vay tiền chú Độ để mua, nhưng chú không cho vay - chú ấy bảo không tiếc gì, nhưng phải nghiêm khắc cho ông anh ruột rút được kinh nghiệm mà sống cho nghiêm chỉnh. Cũng may mà một số bạn bè đã góp tiền giúp Bình mua. Rồi Bình ra phố Nguyễn Huệ cắt tóc.

          Nhưng, kiếm sống không đơn giản chút nào. “ Đất có thổ công, sông có hà bá “, cả dãy phố ấy đã được phân chia đâu vào đấy; mua một chỗ trong dãy hàng cắt tóc, muốn “hợp pháp hoá “ cũng phải tiền triệu, lấy đâu ra. Bình rủ mấy bạn mở hàng ở góc tường đối diện, kiếm khách vãng lai. Thế là Bình trở thành kẻ tranh khách, thành cái gai trước mắt “hội cắt tóc“ Nguyễn Huệ. Họ không ra mặt đuổi Bình, mà lại thông qua các biện pháp ngầm nào đó. Cho nên, Bình bị hạch sách khá nhiều. Nay bị gọi lên phường phạt vì hành nghề không có giấy phép. Mai bị công an phạt vì lấn chiếm lòng đường. Uất ức đã chất đầy lòng Bình.

          Hôm ấy, Bình đến ngồi vào ghế cắt tóc của Điều - một đàn anh trong nhóm thợ cắt tóc Nguyễn Huệ - bảo cắt tóc cho mình. Suốt thời gian Điều cắt tóc, Bình chỉ lỳ lỳ cái mặt, không nói gì. Đến khi Điều cầm con dao cạo mặt lên, Bình mới cười khẩy và hỏi: “Mày có dám cắt cổ tao không?”. Điều tái mặt: “Sao bác đùa vậy, ai lại thế!”. Bình quắc mắt quát:

          - Ai đùa với mày. Nhưng tao biết là mày không dám cắt cổ tao đâu. Nếu có gan, mày đã không phải đi mách lẻo như tao biết. Còn tao, chẳng có cái gì làm tao sợ cả, cho nên tao mới ngồi đây cho mày cầm dao cạo mặt như thế này!

          Quát vậy, nhưng Bình vẫn ngồi nguyên trên ghế và ra hiệu cho Điều cạo mặt. Xong, Bình đứng dậy, cười gằn: “Mày hèn lắm. Toàn làm các chuyện sau lưng. Có giỏi thì dằn mặt ra mà đối chọi với nhau, chứ mách lẻo là hèn lắm. Tao cảnh cáo mày đấy!”. Chưa kịp nói câu nào, Điều đã lĩnh trọn một cú đạp khủng khiếp vào bụng, lăn đùng ra.

          Chẳng ai can thiệp. Vì chẳng ai muốn dây vào thằng tù về.

          Ngay lúc đấy, Bình thu dọn đồ nghề, buông một câu: “ở đây bẩn thỉu lắm, không thể chịu được, anh em ta kiếm chỗ nào sạch sẽ mà làm ăn.” Thế là Bình cùng nhóm thợ bạn xách đồ nghề, dắt díu nhau ngược về phía Bờ Hồ.

Thư tuyệt mệnh của con gái Bình

          Bố Bình của con! Bố Bình thân yêu!

          Con muốn gọi mãi tên bố. Nhưng không thể được nữa. Khi bố đọc thư này, con đã đi xa, đi mãi. Xin bố tha thứ cho con.

          Con biết bố yêu con lắm, bố đã làm mọi việc vì con. Nhưng con không thể nào sống được nữa bố ạ! Bố con mình toàn gặp tai ương; bây giờ con lại tàn tật, trở thành gánh nặng quá sức đối với bố. Vậy thì bố hãy vui lòng cho con ra đi để con được thanh thản. Con chỉ dặn riêng bố điều này và bố nhất định phải thực hiện: không được cho mẹ con có mặt trong đám tang của con.

          Con nhớ lắm lúc con còn bé, con bị đau khớp. Bố bảo do nhà ẩm thấp quá nên con mang bệnh. Những hôm trời nồm, nhà ướt sũng, các thứ mốc meo cả. Lại tối om om nữa. Nhiều đêm, khớp sưng lên, con đau quá. Con vừa khóc vừa ôm lấy mẹ cho đỡ đau thì mẹ đẩy con ra và gắt: “Để yên cho tao ngủ! “. Con phải bò xuống giường, lết xuống cái gầm cầu thang mà bố chữa thành buồng tối làm ảnh để cầu cứu bố. Có bao giờ bố ngủ trước nửa đêm đâu? Ngay hồi đó, con cũng biết rằng bố thức là để làm ảnh kiếm tiền nuôi chúng con. Trong ánh đèn đỏ mờ mờ, bố mỉm cười và ôm con vào lòng. Bó bóp chân cho con. Nhưng chỉ một lúc thôi, vì bố phải làm ảnh tiếp. Từng ấy cũng đủ cho con bớt đau đớn. Bố ôm con vào lòng và lại làm việc tiếp. Dưới bàn phóng của bố, hiện lên những hình người làm con sợ lắm: mắt trắng, tóc trắng, miệng cũng trắng, mà mặt lại đen xì xì. Bó bảo đó là những âm bản. Âm bản bao giờ cũng trái với dương bản, tức là với ảnh. Sợ, nhưng con rất thích xem bố làm, vì con quên được cơn đau, lại được thấy sự biến hoá lạ kỳ của tấm giấy ảnh trong khay thuốc. Hồi đó bố chuyên chụp ảnh chân dung. Bố bảo ghi lại được những chân dung đẹp cho con người là một nghệ thuật chân chính. Cũng vì thế mà bố khó tính với ảnh của mình lắm. Có những tấm ảnh con thấy cũng đẹp thì bố lại xé bỏ - bố bảo ảnh hiện chậm quá, bị xám, hoặc ảnh quá sáng phải tráng giật, xấu cả mặt người ta, bố không chấp nhận được. Bố bảo, một thợ ảnh giỏi có thể biến một âm bản xấu thành một tấm ảnh đẹp, có điều là phải biết yêu cái đẹp và chịu khó làm việc theo lương tâm, chứ không làm bừa cho nhanh mà kiếm tiền. Ngược lại, một người thợ tồi có thể biến một âm bản đẹp thành một dương bản xấu xí. Có lần, bố che chắn, phóng ra một tấm ảnh chân dung một thiếu nữ, mà nổi bật là đôi mắt to, đen, có cái nhìn đằm thắm. Bố so sánh tấm ảnh ấy với tấm ảnh bố làm theo đúng âm bản và giải thích: mỗi gương mặt đều có những nét đẹp nổi bật và nét xấu đặc trưng, phải biết tôn cái đẹp lên, làm mờ cái xấu đi, chẳng hạn cô gái này bố đã làm nổi đôi mắt đẹp và cúp bớt một góc trán dô, nên trông mới dễ chịu thế này. Dù sao, âm bản là gốc, muốn đẹp thật sự phải tạo được cái đẹp ngay từ âm bản. Niềm say mê của bố như liều thuốc mạnh giúp con vượt qua những đêm bệnh tật và nuôi một ước vọng là trở thành một phóng viên ảnh.

          Nhưng, một sự thật làm con đổ vỡ hết thảy. Bố có biết tại sao con bị xe lửa đâm không? Chính vì cái sự thật phũ phàng ấy. Cái sự thật đã ám ảnh con suốt những năm thơ ấu mà con không lý giải được đó là cái gì. Nhưng nó khủng khiếp lắm. Nó không buông tha con. Trời ơi, con viết sao đây để bố hiểu rõ ngọn ngành nhỉ. Con nói lung tung quá. Nhưng thôi, đây là lần cuối cùng con nói với bố trong tâm trạng rối bời, thì bố hãy chịu khó đọc nhé. Liều thuốc chuột đã ở sẵn trên bàn, bên ca nước lớn (cái ca Mỹ mà bố dùng trong những năm đi bộ đội ở chiến trường B, bố vẫn giữ làm kỷ niệm). Chỉ chút nữa thôi, tất cả sẽ hoà vào cơ thể con, cho con được về cõi yên hàn, khỏi buồn, khỏi sợ, nhưng lại không có bố. Trời ơi, sao trời không có mắt? Bây giờ con nói tiếp: không phải xe lửa đâm vào con, mà chính con lao vào đường tàu. Không hiểu tại sao con không bị nghiền nát dưới bánh xe sắt, mà chỉ bị văng ra, gãy một chân. Nằm trong bệnh viện, lúc tỉnh lại. con nghe mọi người nói là con may mắn thoát chết; họ có ngờ đâu chính đó là nỗi bất hạnh của con. Con lại làm khổ bố. Con thấy rõ bố gầy võ đi. Nào tiền thuốc. Nào tiền bồi dưỡng cho bác sĩ. Nào tiền chăm lo sức khoẻ cho con. Cái nghề cắt tóc ở vỉa hè nào có kiếm được bao nhiêu. Con phải cố hết sức cho mau khoẻ. Rồi con ra viện, với cái chân tập tễnh, còn nguyên bộ đinh đóng nơi xương đùi. Chân phải của con ngắn mất 2 phân so với chân trái. Rồi sẽ phải mổ lấy đinh ra. Nhưng tiền ở đâu cho đủ chi phí vụ mổ này? Bố lầm lũi làm việc, luôn an ủi con, nhưng con biết bố lo lắm. Thôi, con phải ra đi cho bố bớt gánh nặng! Con nhớ bố quá. Con lục tìm mà không thấy tấm ảnh nào của bố cả. Bố làm cho người ta những chân dung tuyệt đẹp, còn mình thì không một tấm nào! Trong những người mà bố nắn nót tạo nên những ảnh đẹp tuyệt ấy, có những người không xứng đáng với tấm lòng của bố chút nào. Người đó là mẹ đấy bố ạ. à, con nói thêm để bố biết là trong khi con nằm bệnh viện chữa chân, mẹ con có đến thăm con một lần. Mẹ bảo bố nhắn mẹ đến với con. Bố, nhắn làm gì? Mẹ cho con một cân cam và chục ngàn đồng, nhưng con không nhận. Con bảo mẹ về ngay đi, đừng làm cho con lên cơn sốc. Con làm sao quên được khi bố vào tù, dặn chị em con về ở tạm với mẹ, nhưng mẹ có nhận đâu! Con phải gửi em cho chú Độ, còn con thì lên tận Na Rì bán thuốc lá kiếm sống. Cho nên, dứt khoát mẹ không được có mặt trong đám tang của con, bố nhé! Thật uổng công bố đã tạo cho mẹ những bức chân dung còn đẹp hơn mẹ ở ngoài đời. Và một người đàn ông nữa bố ạ. Lẽ ra bố đừng bao giờ chụp ảnh cho lão ta mới phải. Đó là lão Giám đốc Công ty mà mẹ làm kế toán. Chả hiểu hồi ấy làm thế nào mà bố tạo được cho lão ta bức chân dung oai thế, khác hẳn cái lão béo phệ, bụng to, mắt bé, mặt phì nộn ngoài đời. Có lẽ, trong cái nhìn bao dung của bố, chân dung cuộc đời của hai con người đó đẹp lắm, nên bố cố tạo cho họ những bức ảnh tương xứng. Dường như những âm bản cuộc đời, đối với bố hoàn toàn là điều bí ẩn. Cái dương bản tốt đẹp mà mọi người phơi ra đó, trước mắt bố, chắc gì đã là hình ảnh thực mà chỉ là cái đẹp giả tạo do xảo thuật làm nên từ những âm bản xấu xí.

          Bố có nhớ lần con đi chơi với Hùng về, con nằm dúi vào một góc và lặng lẽ khóc, bố hỏi con không nói? Con rất cảm ơn bố đã không gặng hỏi gì con, không nghi ngờ gì Hùng trong buổi đi chơi tối hôm đó. Nhưng hôm nay, con xin giải thích cho bố rõ. Con chưa hề biết yêu đương là gì bố ạ. Bao nhiêu tình cảm, con chỉ dồn vào cho bố. Hùng, con rất quý, nhưng chỉ với đơn thuần tình bạn, mặc dù Hùng sống ngay thẳng và tốt bụng. Vậy mà tối hôm đó, Hùng đã ngỏ lời yêu con! Bố ơi, cái tình cảm mạnh mẽ ấy của Hùng đã đốt cháy bùng ngọn lửa quá khứ trong người con lên, và con thấy thấm thía vô cùng nỗi cay đắng của cuộc đời này mà bố phải chịu. Chính lúc Hùng khơi dậy tình cảm nam - nữ trong người con, thì con hiểu hết ý nghĩa của sự việc mà con chứng kiến từ lúc bé tý. Hồi ấy bố đi chụp ảnh cho một đám cưới tận nơi nào đó, mất ba ngày. Chính cái lão giám đốc béo ị ấy đến nhà ta. Lão ấy ôm mẹ, hôn mẹ và bảo rằng yêu mẹ! Cả đêm lão ta nằm với mẹ. Con không hiểu rõ tính chất của những việc làm ấy, vì lúc ấy con còn quá nhỏ, nhưng từ đó con bị một thứ gì đó ám ảnh khiến con ghê sợ mẹ. Còn bố, bố vẫn cứ cặm cụi với những tấm ảnh.

          Cũng từ đó, con biết rằng con chỉ có mỗi mình bố mà thôi. Thì ra mẹ đã phản bội bố từ những ngày gia đình còn rất êm ấm. Và em Vinh không phải là con bố, tuy nó chính là em con! Để rồi sau này bố mẹ phải ly hôn, cũng chính vì chuyện đó. Thế thì tình yêu là cái gì hả bố? Con không dám tiếp nhận tình yêu của Hùng. Con chỉ thấy đau đớn ê chề. Con bỏ mặc Hùng, chạy về nhà. Tại sao bố lại cắn răng chịu đựng khi mọi người chê bai bố là phụ bạc vợ trong cuộc ly hôn âm thầm hồi đó? Cay đắng và thất vọng quá, con tìm đến cái chết...

          Bố thân yêu của con! Cho đến bây giờ, con cảm thấy mình đã thạo nghề ảnh rồi. Con đã biết nhìn âm bản để thấy được chân dung con người. Mà chân dung của bố, đối với con, là đẹp hơn cả. Nhưng tại sao bố cứ không chịu làm chân dung cho mình? Tấm ảnh cuộc đời của bố, mặc dù có một âm bản đẹp, lại trở nên xấu xa, bị người ta khinh bỉ. Thì bố ơi, ai là người thợ ảnh tồi đã làm hỏng cả tấm ảnh của bố? Bố phải giành lấy cái quyền sửa chân dung cho mình.

          Thôi, bố ơi, con uống thuốc đây.

          Vĩnh biệt bố!

Tâm sự của Bình với con gái

          Con mong người đời nhận ra chân dung thật của bố, điều ấy thật hạnh phúc cho bố! Chính con đã nhìn được như vậy, con chính là người đời mà bố cần. Tại sao con nỡ bỏ bố mà đi?

          Bố không quen nói nhiều mà chỉ quen làm. Thanh minh thì bố cũng không muốn. Mặc, cứ để người đời hiểu mình thế nào cũng được. Miễn là mình sống đúng với lương tâm. Nhưng với con thì bố phải giải thích đôi điều.

          Quả thật, bố thất bại quá nhiều trong cuộc đời. Nhưng, con có biết không, cũng có lúc chính bố tự nhận thất bại về mình chứ không nỡ đổ sang người khác.

          Thất bại lớn nhất là bố phải vào tù. Cũng vì ham buôn bán để nhanh giàu mà nên nỗi ấy. Sau khi mẹ con bỏ bố, bố muốn bứt khỏi cảnh nghèo của gia đình. Bố đã bán hết đồ nghề ảnh chỉ được 8 trăm ngàn và vay quỹ tín dụng Ngọc Hồi 4 triệu đồng để làm vốn đi buôn. Chuyến đầu, bố vào tận nông trường Sông Hiếu Nghệ An buôn cam ra. Chẳng may gặp mưa, xe lại không có mui, về đến nơi thì cam bị thối quá nhiều. Bán không ai mua. Chở lên gần cầu Chương Dương mới có một bà cụ tốt bụng nhận bán giúp. Trời vẫn mưa, cam cứ tiếp tục thối. Bà cụ bán đổ bán tháo, thu lại chưa được 100 ngàn, lại phải thuê xe công nông chở cam thối ra đổ ở bờ sông Hồng. Bố không nỡ lấy 300 ngàn như bà cụ hứa. Thế là lỗ mất hơn một triệu đồng. Bố lại đi buôn lạc từ Vinh ra Quảng Ninh, bán cho bên Trung Quốc. Vài chuyến đầu có lãi, bố tính làm ăn lớn. Vay tiếp quỹ tín dụng một triệu nữa. Đánh hẳn ô tô tải lạc lên biên giới. Nhưng bố quá tin người nên trắng tay. Bởi vì lạc họ đóng cho bố chỉ có lớp trên là loại một, còn lại toàn loại kém phẩm chất. Bán đổ bán thảo cũng không xong. Thế là cụt vốn. Xưa nay, bố có đi buôn bao giờ đâu, vì lớn lên đi thanh niên xung phong, chuyển vào nhà máy giấy, rồi đi bộ đội, giải ngũ làm nghề ảnh. Khi kịp hiểu ra rằng buôn cũng là một nghề, phải học, phải thạo mới làm được thì đã muộn. Đúng dịp ấy thì quỹ tín dụng vỡ. Số tiền vay làm vốn là chung với 2 bác nữa, nhưng chỉ đứng tên bố. Không trả được nợ, thế là vào tù! Thôi thì một mình chịu tội còn hơn làm hai bác phải cùng khổ với mình.

          Bây giờ, bố ngồi ở đường Lý Thường Kiệt, cũng tạm ổn. Bố thuê thêm chiếc xe quay nước mía, định bán những lúc không có khách cắt tóc, rồi khi con khoẻ, con cùng lên bán với bố. Nhưng mới được 2 ngày, đã bị thu hết đồ nghề lên đồn, vì vi phạm trật tự lòng đường. Hôm ấy, còn nguyên 3 bó mía, bố vội mượn xe đạp đi báo với người bán mía, và bác ấy đã thuê xích lô chở hết mía về, không tính bố một xu chi phí.

          Khó thế đấy, con ạ. Con cứ hỏi tại sao bố không tự làm một bức chân dung thực của cuộc đời mình? Thực ra, mỗi người đều có sẵn một âm bản của cuộc đời, nhưng không phải  chỉ làm một lần là thành được ngay tấm ảnh toàn bộ cuộc đời. Cứ phải làm dần, làm dần theo năm tháng, đường nét, hình khối này chồng lên, hoà vào đường nét, hình khối kia và phải đến khi nhắm mắt xuôi tay, bức chân dung cuộc đời mới hoàn thành. Trong quá trình ấy, có lần tự mình làm hỏng, có lần bị người khác phá hỏng, thì cứ đành để dấu vết lại, chứ không thể vứt đi làm tấm ảnh khác được. Nhưng, điều quan trọng, là phải giữ được những nét cơ bản của chân dung cuộc đời mình. Đối với bố, dù có thế nào, thì chân dung cuộc đời bố vẫn là LƯƠNG THIệN. Chốc nữa, bố sẽ lên đồn chuộc chiếc xe quay mía về, tìm chỗ thích hợp để tiếp tục vừa cắt tóc, vừa bán nước mía. Cô Dung hàng nước chè chén, bác Tùng chữa xe đạp cho bố vay tiền chuộc đấy. Bố chưa bao giờ ngừng lao động. Dù có mắc sai lầm, thì bố cũng chỉ sai lầm trong lao động, cho nên, con cứ tin rằng bức chân dung cuộc đời bố không ai bôi bẩn được, nó mãi mãi là LƯƠNG THIệN. Và bố cũng còn có rất nhiều bạn bè tốt. Ngay con cũng có những người bạn chí cốt mà con cần nhớ họ suốt đời. Đó là những bạn học cũ đã cho con tới 4 lít máu lúc con bị tai nạn xe lửa. Ước muốn của bố bao giờ cũng hướng tới việc thiện. Có người hỏi bố nếu bây giờ bố có tiền, bố sẽ làm gì, bố trả lời rằng, việc đầu tiên là chữa chân cho con, tiếp đến là mua một túp lều cho 3 bố con ở, rồi mua một bộ máy ảnh, tiếp tục với cái nghề mà bố yêu thích.

          Nhưng, nhận chân được cuộc đời khó quá con nhỉ. Chính gói thuốc chuột mà con mua được ở trạm vệ sinh dịch tễ, con đinh ninh là liều thuốc cực mạnh, thực ra là thuốc rởm (người ta trộn với rất nhiều tạp chất để ăn bớt tiền của nhà nước mà). Thế là lần đầu tiên trong đời, chính cái giả dối đã cứu bố con mình. Con chỉ bị đau bụng, nôn thốc nôn tháo, và bây giờ đang nằm thiêm thiếp dưới ánh mắt bố đây!

 

 

          Cảm ơn cuộc đời vẫn để cho con còn hồn nhiên đúng là một đứa trẻ, chưa đủ lọc lõi nhìn qua âm bản mà thấy hết được chân dung thật của người đời. Nếu con đủ lọc lõi nhận ra của thực của rởm, chắc gì hai bố con còn được ở bên nhau như lúc này.

          Dù ngày qua biết mấy ê chề, cay đắng, dù ngày mai còn đầy gian truân, bố vẫn giữ được niềm tin. Con hãy tin bố và cùng bố vững bước đi lên.

 

                                                Hà Nội, tháng 9 năm 1993

 

Cõi mơ

 

  Hoà tới chiến trường vào cuối mùa khô năm 1968. Đã bắt đầu có những cơn mưa rào xối xả, nhưng không kéo dài. Khi Hoà cùng năm anh em khác vượt khỏi cánh rừng loòng boong, xuống hết một con dốc ngắn thì thấy một con sông trong xanh, lấp loáng dưới ánh nắng xế gay gắt. Mọi người đều ồ lên sung sướng. Sau những ngày đi xuyên những cánh rừng bịt bùng, mắt bị bưng bít bởi màu xanh bạt ngàn của lá, của cây, nay đứng trước con sông rộng với bờ cát trắng lấp lánh và bầu trời trong xanh vời vợi, ai cũng thấy tâm hồn như được chắp cánh bay lên. Chỉ riêng Hoà vẫn lầm lì, cắm cúi bước. Mãi đến khi đôi chân anh chạm phải dòng nước mát lạnh, anh mới bừng tỉnh. Vết thương ở mu bàn chân nhói buốt. Cách đây hơn một tuần, khi luồn vào rừng kiếm nấm, anh chẳng may đá phải mũi chông ba lá của đồng bào Kadong. Thật tệ hại, chưa đến chiến trường, chưa tham gia chiến đấu mà đã bị thương! Nhưng điều làm Hoà day dứt hơn là anh không được điều về đơn vị chiến đấu. Trạm đón tiếp Quân khu phát hiện anh là sinh viên trường Đại học Giao thông nên điều anh sang Trung đoàn 230 thuộc Cục Hậu cần, chuyên trách công tác giao thông...

  - Chào hết mấy anh nghen!

  Hoà giật mình ngước nhìn lên. Hoá ra lội qua sông, bước lên bờ từ hồi nào rồi. Bây giờ, nghe tiếng chào lạ tai, Hoà mới để ý thấy một cô gái mặc áo đen đứng bên một gốc cây sấu to tướng đang chào hỏi. “Giọng nói gì nghe chát như ổi xanh vậy!” - Hoà thầm nghĩ, nhưng vẫn làu bàu đáp lại:

  - Không dám, chào cô!

  Khi mọi người đã quây quần bên gốc sấu, người giao liên nói với cô gái:

  - Cô Nghị nè, tui giao cho cô đủ năm lính mới toanh đó nghe. Giấy tờ đây. Nhận được chớ?

  - Chớ sao! - Cô gái đáp gọn lỏn.

  “Chà, sao mà ăn nói cộc cằn”, Hoà xét nét nhìn Nghị. Dọc đường hành quân, trong những đêm dừng chân ở bãi khách, Hoà hay la cà vào nhà khách của trạm giao liên thăm dò tình hình “vùng đất mới”. Trong những câu truyện vui bên bếp lửa rực hồng, Hoà thường được nghe mấy anh lính cũ đùa đùa thật thật.

  - Cậu hỏi khu Năm à? Hay đấy. Nhưng phải cái giọng nói con gái khu Năm chát lắm. Mà mấy cô lại hay hút thuốc rê nữa. Chính vì vậy mới có câu: “Tiếng đồn con gái Quảng Đà, mất mùa thuốc lá chết ba ngàn người”.

  Còn chính Hoà, mới tuần trước thôi, cũng đã gặp một cô hút thuốc như vậy. Hôm ấy, Hoà đang ngồi nghỉ thì một cô gái xăm xăm bước tới:

  - Cho tui mượn con dao!

  Hoà chưa hiểu cô cần dao làm gì, nhưng vẫn rút con dao găm buộc cạnh túi cóc ba lô cho cô gái mượn. Cầm con dao, cô gái lẳng lặng tới khúc cây đổ bên đường. Cô rút trong túi ra một xấp lá thuốc, xếp chồng lên nhau, cuộn chặt thành một thỏi to bằng cán dao. Xong, một chân đạp lên thân cây, một tay cầm thỏi thuốc tì lên thân cây, tay kia cầm dao, cô gái ra sức thái. Hồi lâu sau, thỏi thuốc đã biến thành những sợi thuốc quăn queo, đen sẫm. Cô đưa trả Hoà con dao, rồi lại xin một mảnh giấy, cuốn một điếu thuốc to bằng ngón tay cái, hút ngon lành.

  Những câu chuyện và hình ảnh ấy đem lại cho Hoà ấn tượng không đẹp về con gái khu Năm. Lại thêm nỗi bực bội về chuyện công tác, Hoà thấy hết sức khó chịu với cô gái có cái tên Nghị - tên con trai này.

  Cái chân đau đã làm khổ Hoà. Miệng vết thương đã kín lại, nhưng bên trong lại làm mủ, nhức nhối. Cả bàn chân trái tấy đỏ, nóng như gạch nung. Vào đến đơn vị, chỉ kịp chào hỏi mọi người một lượt, Hoà đã bị cơn sốt quật ngã. Anh mắc võng, phủ bọc, nằm li bì. Chiều hôm ấy, đang mê man trên võng, Hoà nghe tiếng gọi: “Nè anh! Nè anh!” và thấy cái võng mình bị giật giật. Mở bọc võng, Hoà bắt gặp ngay khuôn mặt nghiêm nghị của cô gái dẫn đường hồi chiều hôm qua. Anh bực bội định phủ bọc võng lại, thì cô gái đã giữ lấy:

  - Dậy anh, em coi vết đau chút.

  Cô gái cầm hộp dụng cụ y tế. Thì ra cô là y tá.

  Hoà ngồi dậy, đầu nặng như chì. Cô gái ngồi xổm dưới đất, lấy tay nắn nắn chỗ sưng ở bàn chân Hoà.

  - Trời, làm gì mà mạnh tay vậy?

  - Vậy mà mạnh à? Ngồi im em rửa nghe!     

  Nghị lấy panh cặp bông, nhúng nước nóng, chà đi chà lại trên miệng vết thương. Hoà sởn gai ốc. Nghị giữ chặt chân Hoà, dùng panh khơi miệng vết thương cho bật mủ ra. Hoà thấy buốt đến tuỷ sống, song cố cắn răng im lặng. Nhưng nào đã xong. Nghị lại lấy panh cặp bông, thọc vào miệng vết thương, thọc theo vết chông, như thông nòng súng. Hoà thấy như bị bào từng thớ thịt ra. Anh hất tung chân.

  - Trời! - Hoà kêu lên, nhưng không phải vì đau, mà vì vừa làm một việc tai hại: cái hất chân của anh làm đổ cả hộp dụng cụ y tế, văng cả máu mủ vào người Nghị. Anh đợi một tiếng gắt. Nhưng không, cô gái chỉ khẽ lắc đầu, nhặt nhạnh những lọ thuốc nằm lăn lóc trên nền nhà rồi lại cắm cúi xức thuốc, băng cho Hoà.

  Nằm kín trong tấm dù rồi, Hoà thầm nghĩ: “Nói năng khô khan, nhưng lại không bẳn gắt, cũng lạ”.

  Mất gần một tuần, vết thương mới sạch mủ, Hoà chưa đi làm đường được. Anh được phân công ở nhà giúp chị nuôi. Buổi sáng, Nghị đưa anh cái gùi đan bằng mây, bảo: “Anh đi kiếm môn thục nghe!”

  - Hoá ra Nghị cũng là chị nuôi? - Hoà thầm hỏi rồi lẳng lặng xách giỏ đi. Công việc làm Hoà say mê. Những cây môn thục có cọng dài, lá to láng bóng mọc thành từng cụm rải rác khắp rừng. Dọc đường hành quân, Hoà chưa ăn môn thục, nhưng đã nghe anh em kháo nhau: “Môn thục là vị thuốc bắc, bổ lắm!”. Hoà suy luận: “Là cây thuốc, chắc bổ ở củ. Vậy lấy củ thôi, chứ lấy lá làm gì cho nặng?”. Thế là Hoà vặt sạch cọng, lá, chỉ để củ lại. Anh mải mê lần theo các bụi môn thục, hì hục nhổ nhổ, vặt vặt. Mãi đến gần trưa anh mới hăm hở bước về, như vừa lập được chiến công. Đặt cái gùi xuống cái giàn cây ngoài sân, Hoà gọi:

  - Cô Nghị ơi, lấy môn mà nấu này!

  - ủa, anh làm chi mà kỳ vậy? Môn thục chỉ ăn được cọng thôi, anh bỏ cọng ở đâu, để em đi lượm về.

  - Trên kia kìa! - Hoà làu bàu trả lời và chỉ tay về phía cánh rừng non trên dốc.

  Bước qua suối rồi, Nghị quay lại dặn:

  - Em đang nấu mắm trên bếp. Anh coi nó sôi thì lấy dá hớt bọt nghe!

  - Được rồi! - Hoà trả lời cụt lủn rồi vào bếp.

  Nồi mắm kho bắt đầu sôi, đùn bọt lên. Hoà ngó quanh bếp: chẳng có cái rá nào hết. “Quái, tại sao lại lấy rá hớt? hay là cô ta bảo mình lọc mắm bằng rá?”. Bếp lửa cháy phừng phừng. Nồi mắm sôi bùng lên, ngầu bọt. Hoà chưa kịp nghĩ phải làm gì thì nó đã trào ra, dội xuống bếp xèo xèo. Tro bụi bốc mù lên. Hoà vội bắc nồi mắm xuống. Chợt nhớ có cậu Vinh bị sốt nằm trên nhà, Hoà chạy vội lên.

  - Này, lấy rá hớt mắm là sao hả cậu? Cô Nghị bảo mình lấy rá hớt nồi mắm sôi, mà mình tìm mãi không có rá cậu ạ!

  Chợt hiểu, đang sốt đùng đùng, Vinh cũng cười sặc sụa:

  - Trời ơi, cô ấy bảo lấy cái vá, tức là cái muôi, để vớt bọt ấy mà.  Tiếng trong này thường lẫn V với D, ông tướng ạ!

  Chạy trở vào bếp, Hoà càu nhàu: “Thật ăn không nên đọi, nói không nên lời, rõ ngán!”.

  Chẳng bao lâu, Hoà đã làm quen được với cuộc sống mới. Đơn vị của Hoà là trung đội Sơn Hải có nhiệm vụ làm và sửa đường, bắc cầu cho xe đạp thồ đi. Đơn vị đóng quân ở đoạn cuối của đường thồ. Hướng Bắc, nó vươn mãi tới con đường ô tô đỏ lói chạy ngoằn ngoèo bên các sườn núi. Hướng Nam, nó bị dòng sông Thanh chặn đứng lại. Từ đây, người ta không dùng xe đạp thồ nữa, mà dùng thuyền vận chuyển hàng hoá, vũ khí cho các đơn vị chiến đấu. Hoà đã nhiều lần xem xét, nghĩ cách bắc cầu qua con sông này để nối đường thồ dài mãi ra, nhưng chưa được. Sông quá rộng, một bên là bãi cát, một bên là vách đá dựng đứng, không có thế để bắc cầu. Giữa những ngày ấy thì Hoà bị gục: cơn sốt rét đầu tiên đã tấn công anh. Nghị đưa thuốc ký ninh cho Hoà uống. Mới chưa hết một liều, Hoà đã thấy tai bùng lên, bùng lên lục bục như nồi bắp hầm. Nhìn vào đâu, Hoà cũng thấy như bị chói nắng. Miệng đắng như ngậm mật gấu, Hoà không ăn uống gì cả. Nghị ép Hoà ăn cháo, nhưng Hoà nuốt không nổi. Cổ họng luôn luôn ghê lợm, bắt Hoà nôn mửa suốt. Đêm, mắt chong chong, không ngủ được, đầu buốt thon thót. Mãi, cơn sốt không lui. “Chết chăng?” - Hoà lẩm nhẩm. Nhớ tới chục ống ký ninh mà mẹ đã cẩn thận đựng trong một ống tre nhỏ dắt vào thành ba lô lúc Hoà ra đi, Hoà bảo Nghị:

  - Tôi có thuốc, cô tiêm hộ nhé!

  Nghị nói:

  - Không được đâu, mới sốt phải ráng uống thuốc, chớ có tiêm.

  Hoà rên rỉ:

  - Trời ơi, ác độc vậy, không tiêm giúp, để tôi chết à?       

  Nghị cười ngặt nghẽo:

  - Chết dễ vậy sao anh ơi! Thôi đưa thuốc, em cất dùm, khi nào sốt ác tính hãy tiêm!

  Quả thật, cơn sốt phải lui. Nhưng người Hoà mềm oặt. Hoà nằm bẹp trên võng, tưởng không thể cất nổi cái đầu nặng trịch lên. Nghị luôn luôn đến giật võng Hoà:

  - Đừng nằm nhiều, bết người đi. Dậy cho thanh thản chút coi!

  Hoà lại phải ngồi lên. Đầu váng. Mắt hoa. Hoà cau có nhìn Nghị, nghĩ thầm: “Làm gì mà ám dữ vậy?”. Không để ý đến thái độ khó chịu của Hoà, Nghị lại giục:

  - Anh xuống võng, đi lại cho nó quen chút nào!

  Cứ thế, dường như ngày nào Hoà cũng không được nằm yên vì Nghị “ám”. Nhưng cũng lạ, anh thấy sức khoẻ hồi phục khá nhanh...

  Một hôm, Hoà được phân công ở nhà giúp chị nuôi. Nghị rủ: “Sáng nay, anh và em đi cải thiện cho anh em nghen!”. Hoà tán thành, nhưng chưa biết “cải thiện” bằng cách nào! Sau khi dọn dẹp bếp núc, Nghị bảo Hoà cầm rựa, mang gùi cùng mình ra khu rừng đót. Rừng khu Năm có những cây đót  thật kỳ diệu. Thân, lá trông giống hệt cây dừa, nhưng lại không có quả như dừa. Quả của nó mọc thành buồng, giống như buồng cau, mỗi quả chỉ bé bằng đốt ngón tay. Thử ăn vào quả đót  mà xem - ngứa móc họng ra. Vậy mà đồng bào dân tộc lại biết cách trích cuống buồng để lấy ra thứ nước tự lên men, biến thành rượu ngon tuyệt: thơm, ngọt, nồng nàn vị rượu nếp. Nghị nói rằng ở giữa ngọn nó có một cái lõi mềm, ăn ngon như củ sắn (tức củ đậu ở ngoài Bắc), gọi là hũ đót. Để lấy được hũ đót, phải vạc vỏ dần dần từ ngoài vào.

  Hai anh em lên tới rừng đót  lúc mặt trời đã vượt khỏi ngọn cây cao nhất rừng. ánh nắng cố len lỏi qua những tán lá dày của rừng, toả hơi ấm xuống, nhưng vẫn không xua nổi cái ẩm lạnh muôn thủa của rừng già. Những cây đót  mọc rải rác đó đây, chịu lép dưới những bóng cây cổ thụ ngút ngàn. Nghị bảo Hoà chọn một cây mọc nghiêng bên sườn núi, dễ chặt, còn mình chọn một cây nằm lưng chừng dốc. Hoà hăm hở chặt. Rựa thật sắc, nhưng gặp thứ gỗ dai, xốp, nên không ăn ngọt xớt được. Hơn nữa, cái mũi khoằm của rựa luôn luôn làm vướng víu, nhiều khi khiến con rựa bật ngược trở lại. Thỉnh thoảng dừng tay, Hoà vẫn nghe tiếng rựa của Nghị phồm phộp bập vào thân đót, nghe không dồn dập, nhưng cần mẫn, đều đặn. Hoà càng chặt mạnh hơn. Mồ hôi túa ra ướt sũng lưng áo. Hoà quyết lấy được hũ đót  trước Nghị. Chẳng bao lâu, Hoà đã chặt đứt phăng ngọn đót, làm nó rơi đánh rầm xuống, lăn hai ba vòng rồi mắc kẹt ở gốc một cây trường. Hoà reo to:

  - Xong một cây rồi, cô Nghị ơi! - rồi hăm hở chạy đến chỗ ngọn đót.

  Nhưng Nghị lại cau mày:

  - Trời ơi, ai lại chặt lìa nó ra, làm sao vạc được vỏ?

  Hoà bối rối:

  - Vậy phải bỏ à?

  Nghị bảo:

  - Thôi, ráng vạc dần vỏ mà lấy hũ, đừng bỏ phí mà phải tội với rừng.

  Hai người hì hục lôi khúc ngọn cây đót  lên chỗ bằng. Nghị lấy rựa róc lớp vỏ ngoài - tay này róc, tay kia kéo. Những lớp xơ lằng nhằng níu kéo lớp vỏ như muốn đánh vật với con người. Nhưng dần dần, hết lớp này đến lớp khác bị lột, để hiện ra cãi lõi trắng phau. Nghị khéo léo vạc nốt những đoạn xơ ở đầu, lấy được một hũ đót  to bằng cái bi đông. Cô lấy rựa, xắt một miếng nhỏ, đưa cho Hoà: “Anh ăn thử coi!”. Hoà bỏ ngay miếng đót  vào miệng, nhai rau ráu: ngọt và mát lịm.

  Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, nhưng không đủ sức xuyên thủng lớp mây mù dày đặc của bầu trời tháng mười. Rừng đã thoáng đãng ra, nhưng vẫn ẩm ướt, bốc lên mùi lá cây mục ngầy ngậy, nồng nồng. Không khí lành lạnh. Nhưng Nghị và Hoà vẫn thấy nóng ran. Họ vừa hạ xong cây đót  thứ tám. Những hũ đót  nằm lăn lóc trong gùi; những chỗ bị bầm vập đã ngả màu cánh gián. Nghị bảo: “Ta nghỉ trưa, rồi xuống suối bắt ốc, về nấu cơm chiều là vừa”. Cô xăng xái đeo gùi, rảo bước theo triền dốc về phía suối. Hoà ngoan ngoãn bước theo. Bây giờ anh mới để ý thấy Nghị có dáng người săn chắc, với những bước đi thoăn thoát mà vững vàng. Cô rảo bước trên con đường trơn nhẫy mà không hề trượt ngã. Đến bờ suối, Nghị đặt gùi lên một tảng đá. Dòng suối, mặc dù phải luồn lỏi giữa khu rừng, vẫn đón được những tia nắng hiếm hoi của bầu trời đầu mùa mưa, hắt sáng lên gương mặt Nghị, làm ngời lên đôi mắt to, lấp lánh của cô. Nghị bảo Hoà lượm củi, nấu cơm, còn mình thì lội xuống suối kiếm ốc, cá. Hoà lại ngoan ngoãn làm theo. Tìm kiếm mãi, Hoà mới lượm được một nhúm củi khô. Nhưng không sao. Chỉ cần chừng ấy làm mồi là đủ. Hoà đã học được ở Nghị cách đun bằng củi trường tươi. Cây trường có vỏ đỏ, bị chặt thì ứa ra thứ nhựa đỏ như máu. Gỗ của nó thẳng thớ, dễ chẻ, có thể tước mỏng như đóm tre. Thứ đóm ấy mau khô, chỉ cần dựng cạnh bếp lửa một lúc là đốt đã cháy đùng đùng. Bây giờ, bên bếp củi, Hoà đã có một lô đóm củi trường. Đốt xen lẫn với những cành tre khô, củi trường nổ tí tách, bắn ra những hoa lửa trông đến là vui mắt. Vừa nấu cơm, Hoà vừa chăm chú nhìn Nghị đang lom khom dưới suối. Đã nhiều lần Hoà tự hỏi: vì sao Nghị có thể sống một cách vô tư như thế giữa một cuộc sống gian nan là vậy? Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình Nghị, Hoà giải đáp được một phần.

  Nghị sinh ra trong một gia đình ngư dân ở vùng biển Sơn Tịnh, sâu trong vùng kiểm soát của nguỵ quyền Sài Gòn. Những năm tuổi thơ của Nghị gắn liền với những nỗi nhọc nhằn khi biển động, lúc trời nắng lửa, với những trận gió cát mịt mù. Nhưng cái dữ dằn của thiên nhiên lại không dày vò Nghị bằng cái dữ dằn của con người. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, Nghị phải đi ở cho một người bà con xa. Tiếng là người nhà, nhưng bị bóc lột chẳng kém người dưng nước lã. Mới hơn chục tuổi đầu, Nghị phải làm đủ việc, từ vá lưới, làm mắm, phơi cá tới nấu cơm. Một tiếng nói yêu thương, Nghị không hề được nghe. Suốt ngày chỉ cắm cúi làm lụng, để rồi thỉnh thoảng giật thót mình khi nghe tiếng quát của bà thím và lâu lâu lăn lộn một lần trong trận đòn oan của ông dượng. Rồi quê Nghị được giải phóng. Một không khí khác lạ đã tràn đến vùng biển này. Cũng là cuộc sống lao động, nhưng Nghị thấy mọi người cư xử với nhau thân ái hơn, hay quan tâm đến nhau hơn. Nghị được sinh hoạt thiếu nhi, được học hát, thật vui. Khi quân Giải phóng rút về căn cứ, Nghị trốn gia đình theo một đơn vị hậu cần. Từ đấy, Nghị phải nếm trải những gian lao mới, nhưng cũng được biết thế nào là bình đẳng và thương yêu. Dạo ấy, cuộc sống ở vùng căn cứ thiếu thốn lắm. Đơn vị hầu hết là những người lính trẻ quê ở miền Bắc, làm nhiệm vụ vận chuyển hàng từ miền Bắc vào. Cõng trên lưng súng đạn, lương thực, thực phẩm, quân nhu để tiếp tế cho các đơn vị chiến đấu phía trước, nhưng họ chỉ sống bằng những thứ tự túc được. Bữa ăn chủ yếu là sắn, rau rừng với mắm cái và thường thì không đủ no. Nghị thường được các anh dành riêng cho xuất cơm không độn sắn, với vài con cá nhỏ xíu bắt được ở suối, “để có sức mà lớn” - như các anh thường nói. Anh trung đội trưởng còn cho Nghị cả cái võng dù, ấm mà nhẹ, anh được cấp khi rời hậu phương, thay cho tấm võng nilông mỏng, lạnh lẽo. Tối tối, các anh lại mở đài cho Nghị nghe - các anh bảo rằng đó là tiếng nói thân thương được truyền đi từ miền Bắc Xã hội chủ nghĩa. Rồi các anh dạy Nghị học. Khi thì học vào lớp buổi tối, bên ngọn đèn dầu leo lét. Lúc lại học truyền miệng ngay trên rẫy, khi đang làm cỏ cho ngô. Sống giữa núi rừng thâm u nhưng trong tình thương yêu của đồng đội, Nghị vẫn lớn lên, khoẻ mạnh cả về thân thể và tinh thần. Bởi thế, nhiều khi Nghị nói rất chân thành: “Đi làm cách mạng sướng hơn ở nhà nhiều”. Cũng bởi thế, cô vượt qua sự vất vả, đói cơm, lạt muối mới nhẹ nhàng làm sao. Đồng thời, cuộc sống khắc nghiệt đã luyện cho Nghị thói quen sống nghiêm khắc - nghiêm khắc với chính bản thân mình.

  Mải suy nghĩ, Hoà không biết Nghị đã đến bên bếp từ lúc nào. Cô bày lên tấm lá chuối bốn con cá nhỏ đã làm sạch, một nắp cặp lồng ốc đã chặt trôn và một cái bắp chuối. Cô hồ hởi:

  - Em chiêu đãi anh Hoà một bữa cơm Xã hội chủ nghĩa nghen!

  Hoà giật mình bứt khỏi dòng suy nghĩ:

  - Chà, Nghị giỏi quá, làm sao lại bắt được cả cá thế này.

  - Giỏi chi đâu anh, liệng đá rầm rầm xuống suối, cá sợ rúc vô hang, lùa tay bắt đại được mấy con cá mù thôi mà.

  Hai anh em vừa ăn cơm bên con suối róc rách tiếng nước chảy vừa thủ thỉ tâm sự. Đến bây giờ Hoà mới thấy rằng Nghị thật giàu tình cảm. Hình như hằng ngày, do công việc dồn dập, do những căng thẳng của cuộc sống mà tình cảm ấy không có dịp được bộc lộ ra. Còn bây giờ, trong cái tịch mịch của rừng già, bên tiếng suối róc rách, hình như dòng tình cảm vốn tràn đầy của cô gái mới lớn ấy mới có dịp được khơi nguồn, tuôn chảy dào dạt. Nghị kể về cuộc sống cơ cực của mình ở quê, những trận sốt rét kinh khủng khi mới lên chiến khu, bước đường trưởng thành khi được sống giữa một đơn vị quân đội. Tại đó, cô đã được anh em dạy cho từ mù chữ lên lớp bốn, rồi lại được đi học lớp y tá ngắn ngày. Tại đó, cô bắt đầu làm quen với những cuốn sách văn học có giá trị như Ruồi trâu, Thép đã tôi thế đấy, Những người khốn khổ, Đội cận vệ thanh niên... Cô ngừng kể và hỏi:

  - Ngoài đó, Xã hội chủ nghĩa sướng lắm hả anh?

  Hoà chưa kịp nói gì thì Nghị đã tự trả lời:

  - Sướng thiệt đó chớ. Nội chuyện được đi học, được hiểu biết, đã sướng hết chỗ nói rồi. Mà nghe nói anh học cao lắm hả?

  - Cũng đang dở dang đại học, cao gì đâu.

  - Em thì mới đang bì bạch lớp tư. Em chỉ mong ngày mai thắng lợi rồi, sẽ được học lên đại học thôi...

  Cứ thế, Nghị vừa hỏi lại vừa tự trả lời và say sưa nói tới “ngày mai chiến thắng”. Cái ngày mai ấy như một con chim dẫn đường luôn luôn bay ở phía trước, cất tiếng hót lảnh lót chào đón Nghị.

  Cơm nước xong, hai anh em cùng đi bắt ốc. Vào những ngày này, rừng đã bắt đầu bị những cơn mưa xối xả đầu mùa tấn công. Những dòng suối đang trong vắt bỗng đục ngầu, nước dâng cao, trôi ào ạt. Nước chảy băng băng, cuốn theo đủ thứ nằm trong lòng nó: từ rác rưởi đến sỏi cát và cả những con cá, con ốc nhó bé. Để khỏi bị nước cuốn đập vào đá vỡ tan tành, bầy ốc khôn ngoan men vào bờ, chui tụt vào trong các hốc đá. Khi nước rút, chúng vẫn cố thủ ở đó để đề phòng những trận mưa khác. Bây giờ, hai anh em chỉ cần đi dọc mé nước, luồn tay vào các hốc đá là có thể vốc ra từng vốc ốc. Thứ ốc đá này chỉ to bằng đầu ngón tay cái, nhưng nấu canh ngọt phải biết. Mà cách ăn mới lạ chứ: chặt trôn, bỏ vào nồi nấu lẫn với rau, khi ăn thì bốc từng con mà hút lấy thịt từ trong vỏ ra.

  Mùa mưa đã thực sự đến rồi. Bầu trời xám ngắt, lúc nào cũng mọng nước. Mưa tầm tã, cơn này chưa kịp dứt, cơn khác đã sầm sập đuổi tới. Con suối nhỏ hiền lành phía dưới nhà bếp bỗng rộng ra dữ tợn. Đêm, nằm nghe tiếng mưa xối trên lá cây mà buồn nẫu cả ruột. Xen vào tiếng rì rầm của mưa là tiếng nước suối cuốn ào ào, sùng sục, lại có cả tiếng những hòn đá ông sư lăn theo nước cùng cục, cùng cục nữa. Mùa mưa kéo theo bao nhiêu khó khăn cho cuộc sống ở chiến khu: giao thông tắc nghẽn, lương thực thiếu hụt, bệnh tật bùng ra.

  Đơn vị đã cạn gạo rồi. Những bao sắn khô được chuyển từ nơi sản xuất về cũng nhanh chóng rỗng đi. Đường xuống đồng bằng bị kẹt do nước sông Thanh dữ quá. Phải đi ngược ra phía Bắc, lĩnh gạo ở trạm “Xã hội chủ nghĩa”. Khu Năm có hai loại trạm giao liên: trạm “Giải phóng”, bắt đầu từ đoạn đường cắt ngang Khâm Đức trở vào, do lực lượng của Mặt trận Dân tộc giải phóng phụ trách. Còn từ đó trở ra do đoàn 559 Quân đội nhân dân Việt Nam phụ trách, mà không biết ai đã đặt cho cái tên thật đáng yêu: Trạm "Xã hội chủ nghĩa".

  Nghe nói sắp được ra trạm "Xã hội chủ nghĩa" nhận gạo, Nghị nằng nặc đòi đi. Nhưng Nghị đang sốt. Nghị nài nỉ trung đội trưởng: “Anh Tuyên, em sốt nghĩa vụ đó mà, bớt liền thôi. Cho em đi với. Em đi ra cho biết trạm "Xã hội chủ nghĩa" là thế nào”. Với Nghị, những chữ “Xã hội chủ nghĩa” sao hấp dẫn và thiêng liêng nhường vậy. Chưa một ngày ở miền Bắc, Nghị chưa hiểu Xã hội chủ nghĩa cụ thể ra sao. Nhưng cứ thấy miền Bắc cử con em mình - những chàng trai mạnh khoẻ, thông minh, có học thức - vào cùng đồng bào quê hương chiến đấu, cứ thấy miền Bắc luôn luôn chi viện cho chiến trường từ vũ khí đến lương thực, thực phẩm, Nghị cũng mường tượng được ở đó con người sống tốt đẹp thế nào. Đó là ngọn lửa trong đêm, là tiếng hú gọi của đồng đội giữa rừng hướng Nghị đi tới. Đó là niềm tin, là hy vọng, tạo thành sức mạnh giúp Nghị vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống chiến khu.

  Nhưng, đúng ngày lên đường cõng gạo thì Nghị bị quỵ hẳn. Lần này, cơn sốt đến dữ dội quá, khiến Nghị không gượng dậy được. Trước lúc lên đường, nắm bàn tay giá lạnh của Nghị, Hoà động viên: “Cố uống thuốc cho khoẻ, về anh sẽ có quà Xã hội chủ nghĩa cho em!”.

  Đến ngày thứ chín, Hoà và anh em mới cõng gạo về. Cách nhà nửa ngày đường, gặp cậu Vinh đi lên Tiểu đoàn bộ, Hoà hỏi thăm mới biết rằng Nghị đang sốt bê bết, có chiều nguy kịch, đã uống thuốc liều cao lắm rồi mà không bớt. Giàu nghị lực như Nghị mà bây giờ cũng phải nằm bết trên võng. Không thể đưa Nghị đến bệnh xá Trung đoàn được, vì phải băng qua sông Nước Mỹ, nước lớn quá. Mà thuốc tiêm thì cả đơn vị không còn một ống nào... Nghe nói đến đó, Hoà giật tay Vinh:

  - Sao, cậu bảo phải có thuốc tiêm à? Trời ơi, chính Nghị giữ hơn chục ống thuốc của mình chứ đâu. Sao không lấy mà tiêm cho Nghị?

  - Có ai biết là Nghị giữ thuốc tiêm trong mình đâu...

  Hoà xốc gùi gạo, bươn bả đi. Những ý nghĩ u ám cứ bao phủ đầu óc anh. Có kịp không hả em? Anh về lấy thuốc tiêm cho em có kịp không đây. Trời ơi, nếu em có làm sao thì anh ân hận biết chừng nào! Anh có quà Xã hội chủ nghĩa cho em đây - một đôi dép nhựa Hải Phòng có quai hậu, hai chiếc cặp ba lá. Đứa bạn đồng hương của anh tặng anh để anh tặng em đây... Nghị ơi, cố chờ anh nhé!

  Tới nhà, quăng vội gùi gạo lên giàn, Hoà chạy xồng xộc lên lưng dốc, nơi Nghị ở. Cái giá lạnh của rừng mưa tràn ngập căn nhà. Một chiếc võng treo ở góc nhà, phủ bọc kín mít. Im lặng và lạnh lẽo đến rợn mình. Chỉ có tiếng mưa rả rích một điệp khúc buồn tẻ. Không kịp lau khô tay, Hoà đến bên võng, mở tung bọc ra. Hoà muốn trào nước mắt: Nghị nằm co quắp trong tấm dù hoa, trán lạnh ngắt. Hoà lay lay:

  - Nghị! Nghị! Tỉnh lại em! Anh về đây!

  Nghị từ từ mở mắt - đôi mắt to, đen, vốn luôn luôn sáng lấp láy, nay dại hẳn đi. Nghị chỉ mấp máy môi: “Anh Hoà!”, rồi lại thiếp đi. Hoà cuống quýt lay Nghị:

  - Nghị, Nghị ! Thuốc đâu, sao không tiêm?

  Nghị lại hé mắt, nói đứt quãng:

  - Trong ống tre... ba lô, dành cho anh...

  - Trời ơi! - Hoà kêu lên mà nghe tim mình nhói buốt. Thương quá! Sao lại nghiêm khắc tới cứng nhắc như vậy hả em?

  Phủ bọc võng lại cho Nghị, Hoà lại góc nhà tìm hộp kim tiêm đem luộc và chuẩn bị thuốc. Chuyến đi vừa qua, anh được anh bạn đồng hương tặng cho một hộp thuốc B12. Nhờ chịu khó học tập khi tập trung huấn luyện để đi B, Hoà tiêm khá thành thạo.

  Thuốc tiêm đã làm lui cơn sốt, nhưng Nghị vẫn đuối sức lắm. Mưa thì tầm tã không dứt. Làm sao đưa Nghị đi bệnh xá được. Có lẽ hồng cầu của Nghị chỉ còn vài triệu. Hoà nhìn Nghị nằm mê man mà tâm trí rối bời, ruột gan quặn thắt. Rồi anh quyết định: phải băng qua sông Nước Mỹ, mời bác sĩ về.

  Trong chiến trường, có những việc được giải quyết ngoài sức tưởng tượng của con người. Trường hợp Nghị là một. Cả một tốp bác sĩ, xét nghiệm viên đã cùng Hoà vượt qua được sông Nước Mỹ hung dữ chỉ bằng sợi dây mây căng ngang sông. Anh em đã xét nghiệm và lấy máu của ba người, trong đó có Hoà, truyền cho Nghị. Thế mà Nghị dậy được. Chẳng bao lâu sau, Nghị lại khoẻ mạnh, lại xốc vác mọi công việc của đơn vị. Nghị thường đùa: “Em được tiếp máu Xã hội chủ nghĩa nên mạnh hơn trước nhiều!”.

  Hôm ấy, vào buổi chiều tà, Nghị đi lấy măng về. Chưa kịp ăn cơm, cô đã chạy đi tìm Hoà, hồ hởi khoe:

  - Anh Hoà, em tìm ra chỗ bắc cầu rồi!

  - Sao, chỗ bắc cầu nào?

  - Bắc cầu qua sông Thanh ấy. Mải đi kiếm măng, em đã vượt qua khu rừng nứa, sang tuốt ngọn núi bên kia. Ai dè, ở đó hai bờ sông gần nhau quá, lại có những tảng đá chạy ngang sông.

  Nơi Nghị tìm ra quả là tuyệt vời: hai bờ sông có độ cao tương ứng, giữa sông lại có những tảng đá lớn nối đuôi nhau, làm trụ cầu thật phù hợp. Qua bên kia sông, vượt khỏi mỏm dốc là đến con đường 14, xưa kia địch làm, nay vẫn bỏ không.

  Phương án làm cầu của Hoà được đơn vị thực hiện thật chóng vánh. Anh em hạ những cây gỗ lớn hai bên bờ bắc lên những tảng đá, rồi ghép gỗ nhỏ và phên nứa thành chiếc cầu khá vững chãi. Con đường thồ được nối dài, vượt sông Thanh, vươn sang tận đường 14, kéo xuống tận Tý, Xé. Chiếc cầu ấy mặc nhiên được anh em gọi là cầu Cô Nghị. Cũng từ đó, đơn vị kiếm thêm được một khoảnh đất mầu mỡ bên kia sông làm nơi trồng rau, khoai. Thỉnh thoảng Nghị ra đó kiếm rau tươi về cho đơn vị.

  Dạo này, chuẩn bị sang giai đoạn Việt Nam hoá chiến tranh, bị tấn công liên tục ở đồng bằng, bọn địch điên cuồng đánh phá lên căn cứ của ta. Lũ máy bay B57 bay lẻ, thỉnh thoảng quăng xuống núi rừng những trái bom nổ chát chúa. Đã có những trận B52 rải thảm đó đây. Tuy không chà đi xát lại tạo thành thảm bom dày như trước, nhưng mỗi loạt bom thả từ ba chiếc bay song song cũng đủ tạo ra một thảm chết dài cả cây số. Dọc đường thồ, đã có vài đoạn bị tấm thảm đó phủ lên: cây cối đổ nhào, đất đá bị cày xới đỏ quạch, tạo thành những hố sâu hoắm. Đơn vị của Hoà bận túi bụi với việc sửa đường, bắc cầu. Nghị quay tròn với công việc phục vụ: chăm sóc người ốm, kiếm thức ăn và nấu cơm. Đôi ba ngày, Nghị lại đi qua bãi rau bên kia cầu Cô Nghị một lần để lấy rau lang về. Thường thì phải sau bữa cơm chiều, khi chim rừng đã xào xạc về tổ, Nghị mới cõng gùi rau nặng trịch về nhà. Những hôm như thế, Hoà ra tận gốc sấu bên bờ sông Thanh đón Nghị. Gốc sấu già sần sùi đã trở thành nơi in dấu những kỷ niệm dịu êm của hai người .“Chừng nào em mới được ra miền Bắc, anh Hoà?” Nghị đã hỏi Hoà câu hỏi ấy không biết bao nhiêu lần. “Chừng nào, chừng nào”... Hoà day dứt, khổ sở. Bởi anh không sao trả lời được câu hỏi ấy.

Hôm nay, Nghị lại ra bãi sông hái rau lang. Chim muông xao xác về tổ. ánh nắng quái chiều đang dần dần nhạt đi. Chỉ bãi sông và chiếc cầu là còn nhận được những tia nắng cuối ngày, nổi bật lên giữa mầu xám của núi rừng. Nhìn chiếc cầu mang tên mình, Nghị lại thấy lòng tràn ngập một tình cảm đằm thắm. Các anh trong trung đội đã bỏ bao công sức làm nên chiếc cầu, Nghị làm được gì mà được gắn tên mình cho chiếc cầu? Thật là những gì tốt đẹp nhất, các anh ấy đều dành cho mình. Nghị bỗng thấy chiếc cầu đẹp lạ lùng. Dường như nó đã bứt khỏi mặt đất, lửng lơ giữa bầu trời, khoe những đường nét gãy gọn, khoẻ khoắn, còn phía dưới nó, bụi nước đang ánh lên muôn hồng ngàn tía như ở cõi mơ nào đó. Bỗng có tiếng gầm gào quái dị của bầy B52. Đúng lúc Nghị đi đến giữa cầu thì đất trời rung chuyển. Một quầng lửa bùng lên, bốc lên cao, cuốn theo cả những mảnh vụn của chiếc cầu, thả rơi lả tả xuống lòng sông. Nghị cũng đã tan biến vào cõi mịt mù đó.

  Chỉ mấy phút sau, cả Trung đội Sơn Hải đã tập trung bên mố cầu, lặng đi trong nỗi đau vô hạn. Hoà đăm đăm nhìn vào cái nơi mà anh đã quá gắn bó - cầu Cô Nghị - bây giờ chỉ còn là một khoảng không lạnh ngắt.

  Dòng sông Thanh đục ngầu như giận dữ, vật vã băng mình qua hẻm núi, cuồn cuộn cuốn về xuôi...

  Cứ xuôi mãi con sông này, sẽ tới một dòng sông lớn hơn, chảy êm ả giữa một đồng bằng phì nhiêu. Đó là quê Nghị. Dòng sông có đưa Nghị về quê không? Và em có biết rằng cứ ngược mãi theo con sông này, sẽ gặp con đường đất đỏ vượt Trường Sơn ra miền Bắc. Ngọn lửa dẫn đường của Nghị ở phía đó, Nghị có vượt được thác ghềnh mà tới đó không?...

 

 

NGộ NHậN

 

 

          Những ngày ấy sao thật gian khổ, nhưng sao cũng thật đầm ấm. Khoa làm phóng viên thường trú tận Quảng Ninh. Còn Thịnh làm công nhân mạ ở Hà Nội. Anh thì ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân. Còn em thì chăm con bé Nghĩa mới 2 tuổi đầu, ở trong một căn nhà rộng đến trống trải do ông bà để lại. Lâu lâu có việc về Tổng xã, anh mới ghé nhà được một, vài hôm. Rồi lại tất tả ra đi. Làm báo thời chiến mà. Những lúc ấy, Thịnh bịn rịn đưa chồng ra bến xe, nước mắt kìm lại dưới đôi mi nặng trĩu...

          Xa thật đấy, nhưng có lúc nào Thịnh cảm thấy mình thiếu gần gũi với chồng đâu! Cái con Nghĩa, ai cũng bảo giống cha như đúc, lúc nào cũng quấn lấy mẹ, là một phần máu thịt của anh, luôn ở bên Thịnh. Rồi những tin, bài của anh đăng trên báo, đọc trên đài, Thịnh đều đón nhận chúng với tình cảm thật đằm thắm. Thậm chí chỉ mấy dòng tin về Quảng Ninh thôi, không có tên tác giả, cũng khiến Thịnh bồi hồi nghĩ tới anh: “Tin về Quảng Ninh, chắc anh viết phải không? Anh ơi, lăn lộn trong bom đạn, anh gắng giữ mình nghe anh!”

          Nhưng, chiến tranh thật tàn khốc, có bao giờ chiều theo lòng người. Khoa bị thương! Mà bị thương trong hoàn cảnh mới trớ trêu làm sao: một máy bay B.57 bay cao ném hú hoạ một quả bom xuống lưng núi lúc nửa đêm. Bom nổ, đá núi văng lên, rơi lịch bịch xuống chân núi. Một tảng đá to rơi thủng mái nhà, đè dập chân anh! Nghe tin ấy, Thịnh ngất lịm. Rồi, gửi con về quê, Thịnh bám theo đoàn xe hàng ra tận Quảng Ninh chăm sóc anh. Vất vả lắm, nhưng cũng đằm thắm lắm. Xí nghiệp cho phép Thịnh nghỉ hẳn một tháng để chăm sóc chồng. Cũng may, chân Khoa chỉ dập xương ống, bó bột là khỏi...

          Đó là những ngày đã qua, gian khổ và đầm ấm.

          Còn bây giờ... Cuộc sống có những bước ngoặt lớn quá, và con người cũng thay đổi đi biết bao. Họ đã có thêm một thằng con trai. Anh đã về làm biên tập ở Hà Nội. Thịnh, sau năm năm đi học ở Đức, đã trở thành kỹ sư về ngành mạ. Cái nghề của Thịnh mới hợp thời làm sao. Bây giờ đất nước đã hoà bình thống nhất rồi, sản xuất - nhất là phụ tùng xe đạp - phát triển, nên làm mạ “ăn tiền” lắm. Thịnh không ngờ mình vô tình chọn được cái nghề quý giá làm vậy. Nhưng Thịnh lại cũng không ngờ rằng chính từ cái nghề ấy mà Thịnh đã mất tất cả. Đâu phải cái nghề nó bạc với mình, mà là lòng mình đã bạc với chính mình đấy chứ. Mãi sau này, khi đứng trơ trọi một mình giữa sân bay Tân Sơn Nhất để trở ra Hà Nội trong niềm thất vọng ê chề, Thịnh mới cảm nhận rõ được điều đó...

          Những điều không hay ấy bắt đầu xảy ra cũng chỉ cách đây ba, bốn năm thôi. Đó là khi Sĩ len vào cuộc sống gia đình Thịnh. Quê tận Quảng Trị, Sĩ sớm lang bạt trên mọi miền để kiếm sống. Không hiểu cạy cục ra sao, Sĩ được vào làm tại phân xưởng mạ do Thịnh phụ trách. Nhanh nhẹn, tháo vát và khéo nói năng, Sĩ nhanh chóng chiếm được thiện cảm của mọi người. Riêng với Thịnh thì Sĩ có thái độ trân trọng đặc biệt. Kém Thịnh đâu bốn tuổi, nói với Thịnh bao giờ Sĩ cũng mở đầu bằng câu: “Dạ thưa chị...” ngọt sớt. Khi có dịp gần Thịnh, Sĩ tâm sự vẻ chân thành: “Chị thật là thần tượng của em! Có mấy phụ nữ vừa có bằng cấp, vừa có kinh nghiệm sản xuất như chị. Chị hướng dẫn em đi sâu vào nghề, nghe chị!”. Mà Sĩ cũng ham học hỏi thật. Gặp một mẻ mạ bị rỗ, Sĩ lăn xả vào tìm tòi trên thực tế và hỏi cặn kẽ Thịnh về lý thuyết. Sĩ nói: “Có thế mới rút được kinh nghiệm, bữa sau nâng được chất lượng mạ lên”. Những điều đó khiến cho Thịnh ngày một mến Sĩ.

          Một hôm, nhân buổi trực đêm, Sĩ hỏi Thịnh:

          - Dạ thưa chị, ở nhà chị có làm gì thêm không?

          Thịnh lắc đầu:

          - Bận chết đi được, làm thêm gì cơ chứ!

          Sĩ lại hỏi:

          - Thế anh chị có nguồn thu nhập nào thêm không?

          Thịnh thật thà:

          - Thỉnh thoảng cũng có nhuận bút của anh Khoa.

          - Dạ thưa chị, bao nhiêu ạ?

          - Bài khá thì 2 đồng, bài ít thì năm bảy hào.

          - Trời ơi, chừng ấy có mua đủ thuốc hút mà thức đêm không? Vậy mà cũng gọi là thu nhập thêm! - Sĩ nói to, rồi cười sặc sụa, quên cả ý tứ.

          Thịnh sững người nhìn Sĩ, cảm thấy trong giọng cười của cậu ta có cái gì đó vừa ngạo mạn, vừa châm biếm. Tự nhiên, Thịnh thấy thật khó chịu. Giá như Thịnh lưu cái cảm giác ấy lại, lấy nó để soi xét Sĩ thì mọi chuyện chắc đã khác.

          Sĩ giật thột, đổi thái độ:

          - Dạ thưa chị, điện áp hình như hơi cao, để em đi giảm...

          Hôm khác, nhân lúc thằng Thắng - con trai Thịnh - bị ốm, Sĩ tới thăm. Đúng dịp này, Khoa lại đi tận Đà Nẵng viết điều tra về thâm canh lúa.

          Đặt hộp sữa, khúc giò, nải chuối lên bàn, Sĩ sởi lởi:

          - Dạ thưa chị, có chút quà bồi dưỡng cho cháu...

          Thịnh sững sờ:

          - Trời, sao chú cho cháu nhiều thế?

          Sĩ lửng lơ:

          - Dạ thưa chị, chị chớ phiền lòng...

          Rồi, Sĩ ngồi bên mép giường, vừa cầm tay thằng Thắng vuốt nhẹ, vừa thủ thỉ tâm sự với Thịnh. Giọng nói ngọt ngào, vẻ mặt chân thành của Sĩ đã lừa dối Thịnh, bắt đầu dẫn dắt Thịnh đi vào con đường xa lạ...

          Sĩ bảo:

          - Dạ thưa chị, tình thiệt mà nói, ai mà chả phải lo cho đời sống của mình. Như em, lương công nhân bậc ba làm sao đủ ăn, còn nói chi đến tiêu sài, mua sắm.

          Thịnh thở dài:

          - Kể cũng lo thật, nhưng biết làm sao...

          Sĩ đón lời:

          - Lo thì phải biết xoay chớ chị. Mà không phải là xoay xở bất chính đâu. Xoay bằng cái óc của mình đây này.

          Sĩ buông tay thằng Thắng, gõ gõ vào trán mình. Giọng cậu ta lên bổng xuống trầm:

          - Em thấy chị có một không hai đó. Tài năng, nghề nghiệp như chị mà để hoài, để phí... Không, không phải để hoài, mà không biết sử dụng phục vụ cho riêng mình thì uổng quá.

          - Phục vụ cho riêng mình là sao? Chú thấy đấy, tôi cũng cố gắng đem kiến thức và kinh nghiệm vào sản xuất để đưa năng suất lên...

          - Dạ thưa chị, em biết rồi. Nhưng, ở đây là em nói chuyện ngoài giờ sản xuất của nhà nước kia. Lẽ ra, chị phải sử dụng tài năng riêng của mình trên những bể mạ riêng, để có thu nhập riêng. Em nói thiệt tình, dốt nát như em mà cũng là chuyên gia của một tổ mạ đấy, công việc là chỉ bảo cho họ, không phải nhúng tay làm, mà vẫn có tiền ngàn hàng tháng.

          - Tiền ngàn?

          - Dạ thưa chị, đúng vậy, tiền ngàn là còn ít đấy chị ạ. Giá như chị cộng tác với tụi em...

          Thế là Thịnh xiêu lòng. Thịnh bồn chồn chờ Khoa về để bàn bạc. Nếp gia đình Thịnh là vậy, việc gì hai vợ chồng cũng bàn bạc với nhau kỹ càng trước lúc thực hiện.

          Như thường lệ, về nhà là Khoa đem bài viết của mình ra đọc cho Thịnh nghe. Tác phong của anh là vậy: viết bài ngay tại hiện trường, về nhà chỉ cần tu chỉnh để nộp Ban biên tập. Hôm nay, nghe anh đọc phóng sự, lần đầu tiên Thịnh thấy sốt ruột quá. Sao chỉ giống với phân, mạ với lúa mà anh viết nhiều thế. Nể chồng, Thịnh kiên nhẫn ngồi, nhưng đầu óc chỉ nghĩ mông lung đến những bể mạ.

          - Em thấy có được không? - Khoa hỏi, làm Thịnh giật mình.

          - Được, được anh ạ.

          - Có chỗ nào vô lý không em?

          - Không, không, có lý cả anh ạ. Mà này anh, bài báo của anh thế là tốt rồi, anh cất đi, cho em hỏi việc này đã...

          Trong đêm ấy, Thịnh đã cố thuyết phục để Khoa đồng ý cho mình đi làm thêm.

          Từ đấy, các buổi tổi Thịnh thường vắng nhà, cùng Sĩ đi làm chuyên gia cho một tổ hợp tác “ma”, chuyên mạ phụ tùng xe đạp.

          Nếu sự việc chỉ dừng tại đó thì chuyện chẳng có gì đáng nói. Nhưng, đã là sông thì nước không bao giờ ngừng chảy, đã bước vào làm ăn thì phải đi tới cùng. Sĩ bàn với Thịnh phải tự mở xưởng mạ để thu được lợi nhiều hơn. Sĩ bảo: “Nghề ta có, khách hàng ta có, mối manh ta đã nắm hết rồi, đã đến lúc ta làm ăn lớn.” Thịnh thoáng ngỡ ngàng khi được biết: trong quá trình làm ăn ở đây, Sĩ đã khéo léo làm quen với các khách hàng và lôi kép họ sang làm ăn với mình. Nhưng rồi, vốn hời hợt, Thịnh không lưu lại cái thoáng suy nghĩ ấy về bản tính Sĩ để phân tích kỹ càng...

*

          Có lẽ Sĩ là con người của mọi thành công. Nhiều điều mới hôm qua còn nằm trong óc anh ta, hôm nay đã thành hiện thực. Sĩ bắt đầu điều khiển Thịnh xoay như chong chóng. Căn nhà của Thịnh bỗng chốc biến thành xưởng mạ. Và rồi, Khoa - Thịnh cứ xa dần nhau. Cả ngày bận việc nhà nước, chỉ còn bữa cơm chiều là dịp để họ ngồi với nhau lâu một chút. Nhưng ngay cả lúc ấy, Thịnh cũng vội vội vàng vàng vì còn lo chuẩn bị cho việc sản xuất buổi tối. Thói quen cả nhà quây quần chuyện trò vui vẻ bên bàn nước sau bữa ăn đã biến mất. Thịnh bao giờ cũng là người rời mâm cơm trước tiên. Chị uống vội ngụm nước rồi bước khỏi phòng, xuống xưởng mạ. Tuy thấy không vui, nhưng tính điềm đạm, Khoa lặng lẽ ăn cho xong, rồi ngồi uống nước một mình. Hai đứa bé cùng nhau thu dọn mâm bát, sau đó về bàn học. Khoa cũng đến bàn làm việc, đọc sách hoặc viết bài.

          Trong khi đó, nếp sống của Sĩ cũng thay đổi hẳn. Hầu như mọi thời gian rỗi Sĩ đều dành cho xưởng mạ. Trong ánh điện vàng vàng, trong màn hơi hoá chất mờ ảo bốc lên từ bể mạ, Sĩ cùng Thịnh điều hành hoạt động của xưởng. Sĩ luôn mồm hỏi đủ điều về kỹ thuật mạ. Hình như với anh ta, hiểu biết về nghề này bao nhiêu cũng thiếu.

          Dòng đời vẫn trôi đi, mỗi ngày một sôi động và mãnh liệt hơn. Tiền thu về như nước. Nhưng với Sĩ, có lẽ tốc độ ấy còn chậm quá. Anh ta tiếp tục tác động để nó quay nhanh hơn. Anh ta yêu cầu được ăn ở hẳn nhà Thịnh và thuê vài ba thợ để nâng công suất của xưởng lên. Một lần nữa, Thịnh lại bị cuốn hút theo nhịp sống của Sĩ. Thịnh thuyết phục chồng làm theo ý Sĩ. Vốn rất tin và nể vợ, tuy hơi ngỡ ngàng, anh cũng đồng ý.

          Có ngờ đâu, lòng tốt, sự cả tin, cả nể của con người lại chính là mảnh đất mầu mỡ cho tội lỗi đâm hoa kết quả độc. Giờ đây, người luôn luôn gần gũi Thịnh không phải là Khoa nữa, mà là Sĩ. Một hôm, đã khuya lắm, khi thợ đã về hết, Sĩ bảo Thịnh nán lại một chút. Chẳng e dè, Sĩ nắm lấy tay Thịnh, kéo ngồi xuống chiếc ghế băng ngay bên bể mạ, rồi đột ngột ôm ghì lấy Thịnh. Đã lâu bị những công việc do Sĩ bày ra cuốn hút, ít gần gũi chồng, giờ đây nằm trong vòng tay của một người trai trẻ, Thịnh bỗng thấy run bắn người lên, không còn tự chủ được nữa. Và thật dễ dàng, Sĩ đã chiếm đoạt trọn vẹn Thịnh... Trong đêm ấy, Thịnh lạc hẳn vào một thế giới khác lạ, một thế giới đầy quyến rũ với những ma lực cứ xô đẩy Thịnh đi, đi mãi. Cái phong thái tự tin, chủ động của Sĩ trái hẳn với cách sống tế nhị có phần cả nể của Khoa. Sự khác nhau ấy của hai người đàn ông tạo ra cái hố ngăn cách giữa Thịnh và chồng, để rồi trở thành một biên giới không sao vượt qua nổi. Mọi việc, Khoa cứ ứng xử theo lòng tốt. Rồi một ngày, lòng tốt ấy được đáp lại bằng một vụ ly hôn. Cũng vẫn bằng lòng tốt thái quá, Khoa tự nhường toàn bộ căn nhà của mình cho Thịnh, để vào thành phố Hồ Chí Minh. Hai đứa bé nhất quyết theo bố.

          Thế là nghiễm nhiên Sĩ trở thành chủ tất cả: chủ ngôi nhà, chủ xưởng mạ, chủ cả Thịnh nữa. Một tình yêu cuống si luôn luôn xô đẩy Thịnh ngã hẳn vào sự kiềm toả của Sĩ. Sĩ nhanh chóng cưới Thịnh và nhanh chóng nhập hộ khẩu vào nhà Thịnh. Thịnh tưởng rằng thế là đã nhanh chóng bắc xong nhịp cầu hạnh phúc mới. Nhưng, mọi việc lại quay ngược chiều. Trong câu chuyện hàng ngày, lời lẽ yêu đương đã vắng bóng. Đậm đà là lời trao đổi về kỹ thuật mạ. Sĩ khai thác triệt để kiến thức của Thịnh. Một hôm, Thịnh nũng nịu:

          - Anh phải yêu em đi. Đừng hỏi về mạ nữa, chán lắm. Mà em cũng hết vốn rồi.

          Sĩ giật thót mình, giọng thảng thốt:

          - Sao, hết vốn thật rồi sao? Vậy kỹ thuật mạ trên nhựa, trên thuỷ tinh thế nào, cô không biết à?

          Thịnh chân thật:

          - Đó là kỹ thuật mới của Nhật, em học ở Đức, làm sao nắm được.

          Nói xong, Thịnh sà lại dụi má vào đầu Sĩ. Đột nhiên, Sĩ nhảy dựng lên, lùi xa, nhổ nước bọt:

          - Chớ động vào người tôi, tôi ghê tởm cô lắm!

          Thịnh bàng hoàng, ngồi phịch xuống ghế. Trong cơn bực bội, Sĩ quát tháo ầm ĩ. Sĩ vò đầu, bứt tai:

          - Trời ơi, cái con đĩ già mặt rỗ kia, mày tưởng tao yêu mày lắm hả? Tao chỉ yêu cái nghề của mày thôi. Tao đã liều hiến cả cái thân trai tơ này cho gái nạ dòng, cốt để moi hết nghề ở mày. Nào ngờ, nghề của mày cũng cạn rồi. Vậy thì cút đi, cút ngay đi !

 

           *

Mối tình tội lỗi vụt đến và vụt đi như vậy đấy. Như một trận cuồng phong, nó đã quét sạch mọi niềm hạnh phúc trong gia đình Thịnh. Lại một cuộc ly hôn. Bây giờ, phần thua thiệt là Thịnh. Sĩ nghiễm nhiên được sở hữu một nửa ngôi nhà, cả cái xưởng mạ. Chán chường, Thịnh không buồn tranh chấp gì hết.  

          Cuộc sống không thể nào nguôi ngoai được. Nỗi đau về những kỷ niệm ngọt ngào xưa mà nay mãi mãi không còn với tới được nữa, nỗi nhớ con, thương chồng cũ ngày ngày gặm nhấm tâm can Thịnh, để rồi, nó trở thành một sức mạnh nén xuống hết mọi mặc cảm, đưa đẩy bước chân Thịnh tìm trở lại Khoa. Thịnh ôm ấp một niềm hy vọng vào lòng vị tha vốn tràn trề của anh.

          Tình yêu hình như có mắt nên đã dẫn dắt Thịnh tìm đến nhà Khoa thật dễ dàng. Bấm chuông, đứng chờ, trong lòng Thịnh trào lên một cảm xúc mạnh mẽ và khó tả - đó vừa là sự hổ thẹn, vừa là niềm hy vọng, và bao trùm lên là một tình yêu cháy bỏng như chưa bao giờ có. Khuôn mặt thân quen nào, Khoa hay các con, sẽ xuất hiện ở khung cửa sắt này đây? Thịnh nén thở nghe tiếng chân bước nhè nhẹ, tiếng khoá kêu lách cách. Một phụ nữ trẻ có thân hình cân đối, khuôn mặt bầu bầu xuất hiện:

          - Chào chị, chị cần gặp ai ạ?

          - Tôi muốn gặp anh Khoa.

          - Thật tiếc, nhà tôi vừa đi công tác Hà Nội. Mà mời chị vô nhà đã.

 

 

          Người phụ nữ má bầu bầu nhỏ nhẹ nói với chị bằng giọng Nam Bộ ngọt ngào. Hướng đôi mắt to đen, dịu dàng nhìn vào gương mặt Thịnh, chị lộ rõ vẻ thông cảm. Rồi, chị cất tiếng gọi:

          - Thắng ơi, có khách từ Hà Nội vào, con nè!

          Tiếng gọi thân tình và vô tư ấy của người phụ nữ chẳng khác nào một mũi khoan xoáy vào óc Thịnh. Thịnh lùi hai bước rồi đột ngột xoay người, chạy như kẻ bị ma đuổi...

 

                                                1983 - 1992

 

Anh Bảy Trương

 

Toán dân công gái xã Mỹ Đức mới bắt đầu bước đi thì bỗng nghe một tiếng gọi giật giọng:

- Khoan đã!

Mấy cô đi đầu đứng sững lại, làm mấy cô đi sâu dồn lên, xoong nồi va vào nhau lạch cạch. Anh giao vận xã lật đật chạy tới, gọi tíu tít:

- Này, khoan hẵng đi. Để anh Bảy Trương nhập vào đoàn với!

Có những tiếng hấm hứ của mấy cô khó tính:

- Gớm, tưởng sắp lọt ổ phục kích đến nơi, ai dè...

Theo sau anh giao vận, một người đàn ông  lù khù bước tới. Trong ráng chiều nhập nhoạng, các cô gái không nhìn rõ mặt anh, chỉ thấy một khối người to lớn với cái đầu vuông vuông có cột khấc một cái khăn, hơi lúc lắc theo bước đi. Trông dáng người, các cô đoán chắc anh cũng đứng tuổi rồi. Khi hai người đến gần, những tiếng hấm hứ nổi lên:

- Không được đâu. Đoàn toán đủ rồi, không nhận thêm người nữa đâu.

Kể ra, nhận thêm một người nữa vào đoàn thì cũng chẳng có gì khó khăn. Nhưng đằng này, trong 14 đứa con gái lại lọt thỏm vào một người đàn ông, kì cục quá. Mà lại là một người đàn ông đứng tuổi, có vẻ ít nói nữa chứ. Kiểu đó thì đi đường có cấu chí nhau đôi chút, ông ấy cũng la cho, chớ đừng nói đến chuyện nô dỡn.

Thấy các cô cứ ồn ào miết, anh giao vận phải vỗ hai tay vào nhau kêu bôm bốp rồi giải thích một hơi:

- Này, các cô đừng có cục bộ nghe không. Đương không được thêm một người như anh Bảy Trương vào đoàn, còn làm bộ làm tịch hả? Tưởng là mình  giỏi lắm đấy. Các cô nhìn kỹ ảnh coi: đi dân công đợt một  mới về lại xung phong đi đợt 2 liền, được ăn gạo Chính phủ chứ tầm thường đâu?

Anh còn nói một thôi một hồi nữa, nào là nhà anh Bảy nghèo mà ảnh không quản. Nếu anh Bảy không về trễ thì cần gì phải đi cùng với mấy đứa con gái lanh chanh, nội nghe mấy tiếng nói the thé của mấy cô cũng đủ mệt, nào là anh Bảy siêng năng, hiền lành hiếm có... và vân vân.

Hiển nhiên là các cô gái phải chấp nhận anh Bảy vào đoàn rồi.

 

*

 

Tính con gái hay tò mò, nên cô nào cũng cố xem xét xem anh Bảy Trương là người như thế nào. Chỉ sau mấy lần nghỉ dọc đường, các cô đã bấm nhau:

- Ăn nói lảu bảu bay ạ.

- Ưa ngọt.

- Có vẻ thật khù nữa chớ bay!

Thực tình mà nói, xét nét như vậy kể ra cũng xấu. Nhưng được cái các cô coi xét là để thoả tính tò mò, chứ không có ác ý gì. Sau khi đã rút ra được những kết luận tạm coi là chính xác ấy, các cô xoay qua đùa bỡn nhau. Con gái vùng biển ăn sóng nói gió, cứ cười nói bô lô ba la làm cho anh chàng du kích dẫn đường phải đứng hẳn lại, lên đạn lách cách mà doạ:

- Muốn chết hết hả? Đoạn này địch hay phục kích, coi chừng đó!

Các cô nín thinh được một hồi khá lâu. Mãi khi đi qua  đường số một rồi, tình hình đỡ căng, các cô mới lại rúc ra rúc rích. Đứa nào cũng mong mau lên tới rìa núi, nghỉ một chập và đùa một chập cho thoả. ở vùng sâu, kề  bên địch, mấy khi được tụ tập mà nô dỡn? - ấy là một lý do, ngoài lý do chính là đi phục vụ cách mạng, khiến các cô hăng hái đi dân công.

Cả đoàn ghé vào một xóm nhỏ yên tĩnh. Các cô gái quăng nồi xoong loảng xoảng, vứt gùi lịch bịch rồi ngồi lê la dưới sân cát. Từ vùng Đông, thỉnh thoảng  một quả đèn dù nổ bụp, treo lơ lửng giữa bầu trời đùng đục, rọi ánh sáng vàng bủng tới tận cái sân này. Anh Bảy Trương cẩn thận đặt cái gùi xuống sân, chẳng nói chẳng rằng, đi ra giếng. Khi anh vừa đi khuất, mấy cô nghịch nhất bọn liền xúm tới lục gùi anh ra coi:

- Một lon  thịt hộp bay ơi! Sáu Thoại vừa la vừa lôi ra một cái lon thịt hộp rỗng, đen thui, có cột một  sợi dây điện làm quai. Bà ba một  bộ, một khố lương ông - Hí hí... là một ống lương khô, một tấm đi mưa, lại cù cưa con rựa.

Sáu Thoại lần lượt lôi hết đồ trong gùi ra đặt la liệt trên sân. Cứ lôi ra một thứ, con nhỏ lại hô lên như người diễn kịch.

Vừa lúc ấy thì anh Bảy đi vào, tay xách một gàu nước. Có lẽ gàu bị thủng một lỗ nên nước phun ra xè xè. Anh Bảy đứng khom khom cái lưng, quát:

- Sắp bay làm chi vậy? Hả?

Mấy cô gái chạy túa đến bao quanh anh, đon đả:

- Anh Bảy xách nước về làm chi đó.

- Anh Bảy xách nước về cho tụi em uống na...? Anh Bảy cưng lũ em quá hề!

Rồi cả bọn xúm vào xách gầu nước trên tay anh, chuyền cho nhau uống ừng ực. Anh Bảy ngúc ngắc đầu mấy cái, đi đến góc sân. Anh ngồi xuống, vừa lui cui nhặt đồ đạc bị lũ nhỏ lôi ra nhét vào gùi, vừa lẩm bẩm:

- Kì cục! Kì cục!

Vừa giành nhau uống, vừa tạt nước cho ướt mèm đầu tóc của nhau, chỉ một  loáng các cô làm gàu nước cạn khô. Lúc ấy, anh Bảy cầm đến cái lon. Con Sáu Thoại liền sà tới, giành lấy:

- Hí! Hí, anh Bảy à, anh đem cái lon này đi làm chi mà tội vậy?

- Để nấu ăn chớ chi? Hỏi kì cục, kì cục!

- Chu cha, anh Bảy không có xoong na, tội quá hề. Anh Bảy quăng óc nó đi, nấu cơm chung với lũ em nghen!

Chưa đợi anh Bảy trả lời, Sáu đã quăng cái lon đánh sạt vô tuốt trong bụi.

- Anh tiếc na? Đây, thưởng anh cái xoong, nấu ăn chung nghen anh!

Anh Bảy miệng lẩm bẩm: "Kì cục, kì cục", nhưng tay lại cầm lấy cái xoong nhét vào cái bao Đại hàn xám, bỏ vào gùi. Thấy thế, con Hường liền lôi cái ruột nghé gạo của nó lại, cười toe toét:

- Anh Bảy à, anh xung phong đi dân công đợt 2, được ăn gạo Chính phủ cấp thiệt na? Anh không phải đem gạo nhà na? Cho em gửi cái ruột nghé này nghen anh!

Nó thả cái ruột nghé gạo thõng thẹo xuống tay anh rồi lại cười toe toét. Anh Bảy làu bàu:

- Phá quá, kì cục, lũ bay phá quá.

Có tiếng báo hết giờ nghỉ. Cả bọn con gái cuống cuồng vơ gùi, xách xoong, chạy theo cậu du kích. Anh Bảy hất cái ruột nghé gạo lên vai, chúi người về phía truớc, cố sải bước cho kịp lũ con gái lanh chân.

 

*

 

Tệ hại quá, anh Bảy đi lạc mất rồi. Đây đã là vùng giải phóng, sát núi, không sợ anh lướ qướ đâm vào đồn địch. Nhưng mà rày quá, đường sá liên u, hết vườn lại rừng, biết ngõ nào mà tìm anh? Các cô hú  đến bể họng mà không thấy tăm hơi gì. Sáu Thoại quay qua trách móc cậu du kích "ma đuổi", đi chẳng biết trông trước, ngó sau gì hết, chắc rồi cũng có lúc bỏ dân công cho cọp tha. Trách móc vậy thôi, chớ cậu ta đã biến bóng rồi còn ai mà nghe. Sau khi giao đoàn dân công cho trạm này, cậu ta chỉ nói độc một câu: "Đi mạnh giỏi nghe!" rồi  vác khẩu AR15 dông một hơi, có để cho ai kịp ngó mặt đâu.

Các cô gái vừa dồn gạo vào bao, chuẩn bị cõng đi vừa râm ran đủ thứ chuyện và cuối cùng lại xoay trở lại chuyện anh Bảy. Hường, nhà ở cuối xóm, gần xóm anh Bảy, khẳng định:

- Tao biết ngay từ xưa mà, khật khù như ổng, đi dân công làm sao nổi!

Để chứng minh kết luận của mình là đúng, cô kể:

- ổng khật khù từ hồi xưa kia. Tao nghe họ kể chuyện ổng đi xây cái chốt Gò Cớ cho lũ Bảo an mà tức cười hoài. Ai lại, trời nắng chóa lửa, người ta đội nón, lại trùm thêm khăn mà ổng chỉ cột cái khăn mặt nhuộm màu đỏ lem nhem trên đầu. Còn người ta vác bao cát lên vai, đưa từ dưới bãi lên gò thì ổng kẹp vào nách! Bao cát nặng, trễ xuống hông làm quần ổng tụt xuống. Một tay quặp lấy cái bao, một tay ổng xách quần. Nhưng bao cát vẫn cứ trễ xuống, ổng vòng tay qua, níu dây bao, thế là dây cột bao sổ tung, cát xoà ra trắng xoá. Đã vậy, lẽ ra phải đi xuống bãi mà hốt cát khác, ổng lại ngồi thụp xuống, bụm từng bụm cát bỏ vào bao, miệng thì lẩm bẩm hoài: "Kì cục! Kì cục!" Chu cha, ổng kì cục muốn chết.

Nói rồi Hường cười, tưởng sẽ được mọi người  hưởng ứng, ai dè lại bị Sáu Thoại phản đối:

- Vậy mà cũng cười? Mi biết chứ, hồi ấy bọn nó còn kẹp chặt, ít ai dám đấu tranh công khai, ổng dám đấu tranh hợp pháp chớ khật khù na? Ai dại gì vác cát cho hay để xây cái đồn cho nó canh mình?

Rồi Sáu Thoại bàn:

- Phải làm sao kiếm anh  Bảy về chứ bay, tội ảnh quá!

Con bé tuy hay trêu  chọc anh Bảy - tính cô hay dỡn - nhưng lại rất quý anh.

Sửa soạn bao gùi xong thì đã trưa, các cô đem cơm vắt, muối hầm ra ăn. Vùng đất cằn này chẳng có rau cỏ gì hết. Mấy ống lương khô cá,  các cô làm lạt quá, ăn hết mất từ sáng rồi.

Sáu Thoại đang cầm miếng cơm, sắp đưa lên miệng, bỗng dừng lại ngó ra xa, reo lên:

- Anh Bảy, bay ơi!

Cô vứt miếng cơm, chạy bổ ra đón anh Bảy. Cô xuýt xoa:

- Anh Bảy đi lạc ở đâu mà gai cào rách hết trọi áo quần thế này?

Anh Bảy chẳng nói chẳng rằng, lầm lầm đặt gùi xuống. Có lẽ anh giận. Nhưng không, anh thở phào một cái, hỏi:

- Ăn cơm rồi na?

Con Sáu xoắn xuýt.

- Chưa, mới đem ra thôi, anh Bảy ăn với lũ em nghen!

Anh ngồi chồm hỗm cạnh rá cơm, nhìn một  chặp rồi lại hỏi:

- Ăn với muối thôi na?

Chẳng đợi các cô trả lời, anh mở bao, lấy ống lương khô, mở nắp để cạnh rá cơm, nói:

- Ăn đi lũ bay, cá chuồn!

Hình như anh chẳng để ý gì đến chuyện đi lạc cả. Thấy vậy, các cô cũng hết sợ anh giận, lại xúm vào ăn cơm và nô dỡn. Mấy cô tinh nghịch nhâu nhâu vào trêu chọc anh Bảy. Sáu Thoại lấy một miếng lương khô của anh Bảy cho vào miệng:

- Chu cha! mặn muốn thụt lưỡi anh à!

Bẻ một  miếng cơm đưa vào miệng nhai chóp chép, nó  hiếng mắt nhìn anh Bảy:

- Bắt được thằng điệp ngầm nào, cứ lấy lương khô của anh Bảy chấm một  chút vô lưỡi là nó khai liền. Còn dễ sợ hơn tra điện nữa.

- Phải đấy bay! Mặn muốn thụt lưỡi, mạnh còn hơn điện.

Cả bọn tán thưởng. Anh Bảy Trương chống chế:

-  Lương khô phải mặn chứ sao? Làm như mấy cô để  ăn được mỗi bữa là hết. Hết rồi ăn gì? Kì cục.

Thấy mấy cô gái nín thinh không cãi được, anh Bảy khoái trí ngồi lắc la lắc lư, cười chúm chím, quên cả ăn. Các cô xoay qua chuyện khác để phản công anh:

- Anh Bảy ơi, ma dắt anh đi đâu, anh kể cho lũ em nghe!

Sáu Thoại nháy mắt một  cái:

- Để ảnh ăn bay, tao kể thay ảnh cho bay nghe.

Nó đứng dậy nhíu mắt, hai tay quờ quạng, chân dò dẫm:

  - Ma dắt đi đằng Đông

  Ma dông đi đường Tây

  Làm tao phai loay hoay

  Lũ bay ơi cứu với!

Cả bọn cười vang.

- Rồi sao anh về được đến đây?

Con Sáu ngồi thụp xuống:

- Hứ, hứ, lấy nước tiểu để giải ma chớ sao! Anh Bảy xả ra một  bãi tướng để giải ma!

Anh Bảy buông bát cơm xuống, quẹt miệng một  cái:

- Lũ bay nhạo tao hả? Lũ bay mà lạc như tao, có mà khóc vãi đái trong quần chớ tìm được đường về na?

Rồi để mặc con Sáu ngồi cười rũ rượi, anh Bảy cầm miếng cơm ăn nốt. Anh với bi đông nước tu ừng ực, chẹp chẹp miệng rổi lẩm nhẩm:

- Rồi, rồi, xong đợt này cho anh em trên căn cứ con rựa, cái võng, mình đi hợp pháp về cho nhanh.

Các cô gái lại được dịp cười phá lên:

- ảnh tính chuyện quăng hết đồ cho khoẻ. Người đâu mà nhác vậy, đi cả tháng mà mang theo có 2 bộ kể cả một  bộ trên người, nhác ơi là nhác.

Anh Bảy chúm chím miệng cười:

- Phải, tui mang một  bộ thôi, cho nhẹ, còn chỗ mà mang gạo cho Chính phủ. Không như mấy cô mang 4,5 bộ đồ, cả cái chụp...

- Hứ !

- Hé !

- Anh Bảy nói tầm bậy mà!

Cả bọn ré lên, chặn đứng lời nói cuối cùng của anh Bảy lại. Anh Bảy vẫn điềm nhiên, chúm chím miệng:

- Nội mấy thứ đó cũng nửa gùi, đủ nặng rồi, còn mang mấy hột gạo cho Chính phủ?

 

*

 

Tiếp đó là những ngày gùi gạo vừa vất vả, vừa vui vẻ. Đoàn Mỹ Đức nhận trách nhiệm chuyển một kho đạn về tuyến trước. Anh Bảy Trương quả là người nói ít, làm nhiều. Anh cõng tới 3 hòm đạn, còn các cô gái chỉ cõng được 2 hòm. Các cô tự an ủi rằng tuy cõng ít hơn anh nhưng lại đi nhanh, đến nơi là cơm nước đường hoàng,  chỉ chờ anh tới ăn thôi. Mấy cô tinh nghịch vẫn hay xúm vào châm chọc anh. Anh vẫn ít cãi vã, chỉ ngồi lắc la lắc lư cái đầu, miệng chúm cha chúm chím, thỉnh thoảng mới trả lời một  tiếng nhưng là những tiếng hắc búa làm các cô phải đỏ mặt.

Kho đạn đã vợi đi, chỉ chuyển 2 chuyến nữa là hết. Các cô kẹp các thùng đạn thành gùi chuyển đi. Tới nơi, khi chuẩn bị nấu cơm, xếp xong củi, bắt đầu nhen lửa, anh Bảy  mới tới. Anh đi thẳng vào kho, vừa vác ra một  hòm đạn vừa bảo:

- Coi chừng khói đó bay!

- Dạ vâng, anh cứ "yên chí" - Hường bắt chiếc giọng mấy anh bộ đội nghĩa vụ, trả lời.

Nhưng, chẳng đáng yên trí chút nào, củi ẩm quá, không chịu cháy. Những luồng khói nâu đùn ra ùn ùn, bay cao lên, tản ra dưới các tán cây, chuyển thành mầu xanh lam lơ lửng trên khu rừng non. ở đồng bằng, các cô quen đun bằng tầu dừa, lá dương, vả lại đun hợp pháp nên cũng không sợ khói. Lúc này, cô nào cũng lúng túng. Sáu Thoại mọ mạy suốt, hết rút cành củi này ra, lại đâm cành khác vào làm bếp càng khói um lên. Giữa lúc ấy thì có tiếng máy bay. Cô cuống lên, càng làm cho khói mù mịt. Chiếc Moranh bay thẳng qua đầu rồi đột ngột vòng lại, rà xuống thấp. Các cô càng cuống lên, xúm lại mà thổi phù phù. Chiếc máy bay chúi xuống, phóng một quả rốc két vào khoảng rừng trước mặt. Các cô vội vàng nhảy xuống hầm. Khói từ bếp đùn lên từng cuộn. Anh Bảy Trương hét:

- Dập lửa đi!

Anh vác hòm đạn chạy tới, để xuống đất, bê nồi nước dội cái ào. Lửa tắt ngấm. Chiếc Moranh vọt lên cao, quần đảo. Pháo bắt đầu dội tới. Chỉ vừa nghe tiếng đề pa từ phía đèo Nhông đã thấy tiếng nổ rầm rĩ ở khu rừng trước mặt.

- Xuống hầm mau, anh Bảy!

Sáu Thoại hét lên.

Anh Bảy cúi xuống, xốc cõng đạn lên vai, chạy xuống hầm.

Một loạt pháo nữa lại chụp tới, nổ sát kho đạn. Anh Bảy đứng khom khom trong hầm, lo lắng ngó ra ngoài. Hồi này, bọn ngụy áp dụng trở lại chiến thuật pháo bầy của tụi Mỹ: Có mục tiêu là chúng tập trung cả chục khẩu bắn cấp tập một  lúc bốn, năm loạt rồi thôi. Hai loạt, ba loạt, 4 loạt rồi. Mỗi loạt pháo như một  bầy chim sắt khổng lồ đột ngột sà tới vồ mồi, kêu thét điên loạn.

Im lặng trong khoảng khắc, rồi không gian lại vang động lên bởi một  bầy pháo nữa. Hầm rung lên, đất rào rào rơi xuống. Khói bụi bốc mù mịt, sộc vào hầm như người ta hun chuột. Hơi thuốc pháo trộn với mùi lá tươi, đất bột thốc vào nồng nặc làm mọi người ngạt thở. Lưỡi vừa đắng, vừa chát lại vừa tê tê, thật khó chịu. Các cô gái bịt miệng, ho sặc sụa. Bỗng anh Bảy la:

- Trời ơi!

- Sao, anh bị thương sao anh Bảy?

- Không! Pháo lân tinh, kho cháy rồi!

Anh Bảy chồm ra cửa hầm. Sáu Thoại níu lại:

- Khoan đã anh, nguy hiểm quá!

- Kho cháy rồi!

Anh Bảy thét lên, giằng ra, lao lên mặt đất. Các cô gái cũng lao theo anh. Trước mắt  họ là cảnh tàn phá ghê gớm: cây cối đổ ngổn ngang, xơ xác và lửa đang bén vào kho đạn, cháy đùng đùng. Các cô cuống lên, chưa biết nên làm gì thì anh Bảy nhảy thốc vào giữa đám khói bụi đặc quánh. Khi quay ra, anh vác 2 hòm đạn lớn. Sức nặng của 2 hòm đạn làm anh phải khom lưng xuống, loạng choạng, nhưng anh vẫn lao rất nhanh. Ra một  khoảng trống, anh bỏ 2 hòm đạn xuống, chạy trở lại kho. Các cô cũng lao theo. Khói, lửa mịt mùng nhưng không còn ai nghĩ tới chuyện bịt miệng nữa. Một, hai rồi 3 chuyến... mọi người hối hả khuân vác... Sáu Thoại xốc 2 hòm đạn lên vai, nhìn xoáy vào kho: chỉ còn 2 hòm  nữa nằm trong góc. Lửa đã cháy lan rộng, gần trùm kín kho đạn. Mọi người chạy ra thì gặp anh Bảy chạy lại. Các cô la:

- Anh Bảy, quay lại thôi!

- Còn 2 hòm đạn thôi anh!

Dường như không nghe thấy tiếng thét, anh Bảy vẫn lao tới. Các cô gái chạy cho nhanh, vứt đạn vào nơi an toàn rồi quay lại. Không thể nào nhìn thấy kho nữa. Khói đen, lửa đỏ bao trùm hết thảy.

- Anh Bảy ơi!

Sáu Thoại gào lên. Không ai trả lời, các cô chết lặng người. Sáu Thoại mếu máo khóc.  Nhưng anh Bảy đã lao ra, loạng choạng, suýt chúi xuống nhưng lại gượng dậy, lao ra khỏi đám khói lửa. Đến gần các cô, anh ngã nhào xuống. Sáu Thoại bổ tới, xốc anh dậy.

Các cô gái đưa anh Bảy xuống hầm. Lửa liếm gần hết cái kho đạn rỗng và đang lụi dần. Pháo cũng thôi, không bắn nữa. Anh Bảy nằm thiêm thiếp. Tóc anh cháy quăn queo.  Chân tay anh loang lổ những vết bỏng. Sáu Thoại vừa sụt sịt khóc, vừa giở xắc cứu thương, lấy băng băng cho anh. Anh Bảy mở mắt ra, hỏi:

- Chuyển hết đạn chưa?

- Dạ, rồi anh à!

- Để mặc anh, ra chuyển tiếp đi!

Anh cựa mình, chống tay định nhổm dậy. Sáu Thoại giữ anh nằm im:

- Đâu có đó rồi, anh khỏi lo!

- Phải chuyển hết đạn đi ngay, rủi nó đổ quân - Anh gạt tay Sáu, nhổm dậy - Anh bị sơ sơ thôi.

- Để lũ em cáng anh đi!

- Ra, ráng mà cõng hết đạn!

Các cô đành phải nghe lời anh,  chặt cây làm nẹp, kẹp 3 hòm đạn làm một gùi, có cô kẹp tới 4 hòm. Và lên đường. Anh Bảy chống gậy, khập khiễng bước đi. Cõng đạn nặng muốn đè dúi các cô xuống, nhưng nhìn anh Bảy đầu cuốn băng trắng, chống gậy bước phía trước, các cô lại thấy khoẻ lên.Vừa hay lúc ấy, phía biển rộ lên tiếng lũ trực thăng phành phạch bay tới...

 

*

Đợt dân công đã kết thúc bằng những ngày như thế. Anh Bảy được đưa về bệnh xá điều trị. Lẽ ra cả đoàn Mỹ Đức có thể về nhà. Nhưng không cô nào muốn về cả. Các cô xung phong ở lại, đi một  chuyến dân công hoả tuyến nữa. Mặt trận đã mở ra phía Bắc rồi, quân ta vừa tấn công đồn Gò Loi, đánh bọn địch ở Khoa Trường. Chiến dịch đang phát triển mạnh mẽ, cần nhiều người phục vụ. Giá như anh Bảy không bị thương, chắc anh cũng sẽ đi với đoàn. Vắng anh Bảy, các cô buồn hẳn đi. Đứa nào cũng bớt nô dỡn và biết suy tính đến công việc hơn. Những kỉ niệm với anh Bảy cứ sống lại mãi trong các cô, thân thương biết bao. Những kỉ niệm ấy nhỏ nhặt thôi và cũng không có gì đặc sắc cả, phần lớn là những chuyện bỡn cợt, châm chọc, vậy mà các cô thấy nó đẹp vô cùng. Suy nghĩ lại, các cô mới hiểu rằng chính những lúc chống trả lại sự bỡn cợt của các cô, bằng những lời cộc cằn, anh đã khuyên họ rất nhiều. Nếu mà các cô biết nghe những lời khuyên ấy từ đầu thì đâu đến nỗi xảy ra những việc đáng tiếc như thế..

 

 

Ngày 26/11/1972

 

QUả Báo

 

 

          Sau những ngày mưa sầm sập là những ngày nắng cháy lửa. Ông cụ ra đi đúng vào dịp chuyển mùa khốc liệt ấy. Hôm nay ông cụ được đưa tiễn chu đáo đến nghĩa trang này. May mắn làm sao, cả 8 người con đều kịp về chào từ biệt ông cụ, mặc dầu có người công tác ở cách xa gần 2 ngàn cây số.

          Một trong những người con ấy là Mạnh. Vốn tháo vát, anh đã lo toan hầu hết các công việc về thủ tục hành chính, nghi thức... để đưa ông cụ thân sinh đến nơi an nghỉ cuối cùng. Bây giờ anh nán lại một mình, sửa một vòng hoa bị xô lệch. Anh cảm thấy ấm lòng vì ngôi mộ được đắp to, cao, phủ đầy hoa. Bỗng anh giật mình vì một tiếng gọi giật giọng:

           - Ông Mạnh !

           Ngoái nhìn về phía tiếng gọi, anh thấy một người đàn ông cao gầy, đầu chít khăn trắng, đang vẫy vẫy :

             - Lại đây, lại đây ông, đúng ông bạn tôi rồi, sao lại tình cờ gặp nhau nơi này...

              Mạnh đã nhận ra đó là Trần, người quen từ thủa nhỏ. Ông Thống, bố của Trần, cùng làm việc với ông Phạm, bố của Mạnh tại trường Đại học. Không thân thiềt gì, nhưng sống với nhau từ thủa học trò, Mạnh rất hiểu Trần. Đó là một con người láu cá và tàn nhẫn, luôn luôn tìm cách giành phần hơn về mình. Còn giữa ông Phạm và ông Thống lại có mối quan hệ chẳng tốt đẹp gì. Do vậy, Mạnh cảm thấy hết sức khó chịu khi gặp Trần vào những giờ phút thiêng liêng này. Dường như không để ý đến thái độ lạnh nhạt của Mạnh, Trần vẫn liến thoắng:

           - Hình như ông cũng tiễn ông già về thế giới bên kia hả ? Mình cũng vậy.               Khi đã đứng sát bên Mạnh, Trần nhíu mày, lắc đầu :

            - Hỏng cả, hỏng cả rồi. Tại sao ông lại để cho ông già nằm đây ?

           - Sao ? Nằm đây thì sao? - Mạnh ngạc nhiên.

           -Trời ơi , đây là khu C, khu hạng bét chứ sao nữa. Cỡ như ông già nhà ông, phải nằm khu A, tệ cũng là khu B cơ!

          Lúc này, Mạnh mới để ý quan sát cả khu nghĩa trang. Đó là một khu đất rộng, được chia thành từng ô vuông vức, trồng những hàng phi lao thẳng tắp, xanh rì. Anh ngẩn ngơ, không lý giải nổi ý nghĩa của những điều mà Trần vừa nói. Thấy vậy, Trần giảng giải:

          - Ông nhìn kỹ thử xem, có phải có khu cao, khu bằng, khu trũng không? Khu cao, trên gò kia kìa, là khu A, đất vừa sạch sẽ, lại vừa được chôn vĩnh viễn, khỏi phải bốc mộ. Tiếp đó là khu B, tuy không được chôn vĩnh viễn, nhưng cũng cao ráo, sạch sẽ. Còn cái khu C khốn khổ này, chưa mưa, nước đã dềnh lên ngập ngụa, chỉ tổ ngâm nước ruỗng da ruỗng thịt!

          Một luồng khí lạnh bỗng thốc vào tâm can Mạnh, làm tim anh nhói buốt. Anh nhớ lại lúc hạ huyệt, đã thấy nước xâm xấp đáy mộ. ấy là trời nắng. Chứ mưa thì... Tội nghiệp ông cụ làm sao. Anh tự trách: “Cái khổ này của Bố là do mình. Mình đơn giản quá...”. Anh liên tưởng đến bố Trần: ông Thống chỉ là một giáo viên xoàng, lẽ nào không nằm ở khu C này. Anh gắng gượng hỏi:

          - Thế ông cụ anh cũng mới mất à, nằm đâu?

          Trần hể hả:

          - Chết một tuần rồi, nhưng nay mới chôn, vì mình phải tìm cách chạy chọt cho ông già lên khu B.

          Kéo tay Mạnh dắt đi khỏi khu mộ, tiến về phía mấy chiếc xe tang đang đỗ, Trần giảng giải:

          - Ông già mình lẽ ra phải nằm ở khu C này, nhưng mình không chịu, vì biết đây toàn bùn với nước. Thế là lại phải lo toan.

          Nói tới đây, Trần nháy mắt, cười khẩy:

          - Lúc còn sống, ông già mình thường bảo phải tìm mọi cách bon chen để được đi vào những con đường thuận lợi nhất của cuộc đời. Còn mình thì lại rút ra rằng ngay cả đi về thế giới bên kia cũng rất nhiều ngõ ngách, cứ thẳng mà đi chắc gì đã được mồ yên mả đẹp.

          Mạnh rùng mình trước cái triết lý quái gở của Trần. Còn Trần thì vẫn vừa kể vừa lý sự:

          - Trên đời này, việc gì chịu chạy mà chả xong. Mình chạy từ Công ty mai táng tới Ban Quản lý nghĩa trang để lo vụ này. Quả như mình đã dự đoán, tay quản lý ở đây mau mắn nhận “giúp” mình. Hắn hẹn sẽ xếp cho ông già mình một chỗ tươm tất ở khu B nhưng giáp với khu A, với hai điều kiện:một chỉ vàng, và phải chờ dăm ba ngày. Mình ô kê ngay. Sau đó lại phải chạy vạy nhà lạnh bệnh viện lo lót cho mấy cha quản lý để được gửi xác ông già thêm ít ngày.

          Tay quản lý nghĩa trang giữ lời hứa. Hôm qua, hắn cho người tới báo: đã có chỗ rồi. Chỗ đó, lẽ ra của một ông cấp kha khá nào đó, nhưng vì người nhà không biết thủ tục, nên đã làm phiếu nhận đất bên khu C.

          Nghe tới đây, Mạnh đứng sững lại. Anh trừng mắt nhìn Trần, đầu óc quay cuồng: “Khu C... bố mình... có lẽ nào?...”. Giật thột vì thái độ của Mạnh, dường như đã đoán ra cơ sự, Trần lảng: “Thôi, chia tay nhé, người nhà cậu đang gọi cậu lên xe kìa”.

          *

          Đêm ấy Mạnh thức trắng. Cả quá khứ và hiện tại cứ đan xen trỗi dậy trong đầu anh. Khu C với những ngôi mộ ngập nước. Khu B, Khu A cao ráo. Ông cụ thân sinh ra anh với vầng trán cao thông minh, đôi mắt sáng và hồn hậu. Ông Thống với đôi mắt trắng dã kèm thêm cặp kính cận loá sáng trên khuôn mặt dài ngoẳng giảo hoạt. Lẽ nào, con người ấy suốt đời đấu đá, giành giật chức vị không được, khi chết lại giành được mảnh đất yên nghỉ của người khác? Lẽ nào, ông cụ anh, con người nhân hậu, cứ phải nhường nhịn suốt đời, cả khi đã nằm xuống. Anh nhớ rõ hồi còn đi học, anh đã gặp ông Thống lần đầu tại nhà mình, một căn nhà nơi sơ tán. Ông Thống đang xin ông cụ anh cho về dạy tại trường. Nghe đâu ở nơi cũ đấu đá quá, họ muốn thải. Số cán bộ, giáo viên tốt của trường khuyên ông Phạm: “Một chuyên gia lật đổ đấy bác ạ, đừng nhận về mà rắc rối”. Nhưng vốn thương người, thấy ông Thống gặp vận lỡ, ông Phạm không nỡ phủi tay. Thế là ông Thống về trường dạy tiếng Nga. Trình độ chuyên môn của ông ta khá. Ông Phạm mừng thầm. Nhưng chỉ được một thời gian, ông Thống đã trở lại nguyên hình. Ông ta kèn cựa muốn lên làm Chủ nhiệm khoa. Ông ta nói xấu ông Chủ nhiệm khoa đủ điều. Một hôm, có một nữ sinh đến nhờ ông Thống giảng thêm về cách sử dụng động từ trong tiếng Nga. Ông Thống nói đầy nhiệt tình: “Hôm nay tôi bận quá, em nhờ thầy Chủ nhiệm khoa giảng hộ nhé. Tối nay đúng 7 giờ em đến thầy Hùng, tôi đã hẹn thầy giúp em rồi”. Tối đó, thấy cô học sinh tới nhà, thầy Hùng hơi ngạc nhiên. Nhưng được biết em đến hỏi bài, thầy vẫn ôn tồn bảo vào nhà. Tại khu sơ tán này, giáo viên, cán bộ đều ở chung nhà dân. Thầy Hùng được nhà chủ bố trí ở riêng căn buồng nhỏ phía đầu hồi. Trong ánh đèn dầu lù mù, hai thầy trò chụm đầu bên trang sách. Bỗng một tiếng la the thé vang lên: “Thầy giáo ôm học sinh!”. Cái điệp khúc ấy được tấu lên ba bốn lần, kéo từ nhà thầy Hùng ra giữa xóm. Cái giọng the thé ấy ai cũng nhận ra là giọng thằng Trần, con ông Thống. Mọi người đổ xô đến, nhưng lại nhanh chóng giải tán. Sau hôm ấy, ông Thống đến gặp ông Phạm: “Thưa anh, tại sao anh cứ để cho anh Hùng làm Chủ nhiệm khoa? Anh có biết không, người ta đồn ầm lên là anh Hùng hủ hoá với học sinh, bị bắt quả tang kia kìa”. Đảo đôi mắt nhỏ tí nhìn trộm nét mặt ông Phạm, ông Thống chuyển sang giọng tha thiết: “Thưa anh, được anh cho về trường, em rất hàm ơn. Đây là dịp em trả ơn anh đấy ạ. Người có đức có tài như em mà lên làm Chủ nhiệm khoa thì anh khỏi phải lo. Hơn nữa, em sẵn sàng cung phụng anh, làm lá chắn cho anh...”. Vốn điềm đạm, nhưng trước sự bỉ ổi của con người cơ hội ấy, ông Phạm phải nổi nóng:” Thì ra anh muốn hại anh Hùng để giành vị trí cho anh? Thôi anh về đi, không bao giờ tôi đề bạt anh đâu!”. Từ đó, hướng công kích chuyển sang ông Phạm. Vẫn cái thủ đoạn tung tin nói xấu và cài bẫy bỉ ổi ấy. Có lẽ đớn hèn nhất là chuyện về vườn nhãn. Ông Phạm có khẩu súng hơi do con cả học ở Đức gửi về biếu. Ông và Mạnh thường đi bắn chim vào lúc xế chiều, sau giờ làm việc. Xã này có một vườn nhãn um tùm, rất nhiều chim.Vào lúc hoàng hôn, từng đàn chào mào, se sẻ... ríu rít bay về trú ngụ trên những tán cây. Lại có những con  giẽ giun mỏ dài, mình mập lủi ở các bờ cỏ nữa. Có hôm, hai bố con bắn được gần 20 con chim, có cả hai con giẽ giun béo tròn trùng trục. Vào mùa nhãn chín, mỗi khi hai bố con Mạnh vào bắn chim, lại thấy thấp thoáng trong vườn một bóng người nhỏ bé lẩn khuất ở các cây nhãn. Rồi các cụ ở đội trồng cây phát hiện nhãn bị bẻ trộm. Ông Thống đến gặp các cụ. ít ngày sau, trên Bộ nhận được đơn của đội trồng cây tố cáo ông Phạm thường xuyên lẻn vào bẻ trộm nhãn. Bộ phải cử đoàn thanh tra về. Nhưng đúng hôm đoàn đang làm việc với Uỷ ban xã, thì dân quân xã giải về một thằng bé người dài ngoẵng. Hắn bị bắt quả tang đang bẻ trộm nhãn ở vườn của đội trồng cây. Hắn chính là Trần. Thì ra, muốn hại ông Phạm, ông Thống sai con bám theo ông Phạm lúc ông đi bắn chim ở vườn nhãn. Khi ông Phạm bắn chim thì Trần bẻ trộm nhãn. Thế là, việc ông Phạm tới vườn nhãn trùng với việc nhãn mất trộm, gây nên mối nghi ngờ oan cho ông. Nhưng, ai mà học hết chữ ngờ. Chính cái việc giả vờ bẻ trộm nhãn để đổ oan cho người khác đã tạo thành thói quen cho Trần: thích vào vườn nhãn ăn cho thoả thuê. Đến khi không cần gắp lửa bỏ tay người nữa, thì hắn không cưỡng nổi nỗi thèm khát, đành bốc lửa cho vào miệng mình... Cán bộ, giáo viên ở trường hết sức công phẫn, đòi đuổi ông Thống ra khỏi trường. Thống khóc lóc, van xin đến thảm hại. Ông Phạm lại rủ lòng thương. Tình thương ấy lại cứu vớt ông Thống một lần nữa, để rồi ông ta nuôi dạy con lớn lên theo cách sống cơ hội của mình. Trần vào đại học, ra công tác. Rút kinh nghiệm của bố, anh ta không đấu đá, mà luồn lọt là chính nên khá thành đạt. Lẽ nào lần này, nhờ luồn lọt đút lót mà Trần đã giành về cho bố mình phần mộ lẽ ra của người khác? Mạnh mang máng nhớ ra lúc xuống liên hệ việc mai táng, anh nghe tay quản lý nghĩa trang giải thích liến thoắng nào là tiêu chuẩn, nào là khu A, khu B gì đó. Anh giao giấy tờ cho anh ta và dễ dãi: tuỳ anh thu xếp. Lúc ấy, anh ta mỉm cười và nhìn Mạnh một cách tinh quái. Có lẽ cơ sự là ở đấy.

*

          Thấm thoát đã 3 năm trôi qua. Đã tới kỳ bốc mộ. Theo phong tục, gia đình Mạnh đi từ lúc trời chưa sáng để lo “thay áo” cho ông cụ. Người thợ bốc mộ làm việc thành thạo thật xứng với danh nghĩa người thợ. Anh mò dưới lớp nước đục nhờ đẩy đủ hài cốt của ông Phạm. Bây giờ, anh dùng bàn chải và nước cọ sạch bóng từng phần hài cốt... Anh cứ tấm tắc khen: “Nhà ta tốt phúc lắm. Hài cốt cụ nhà sạch, đẹp lắm!” .

          Trong khi chờ đợi, Mạnh lững thững bước theo con đường gạch, miên man nghĩ tới những kỷ niệm về bố. Anh đi, đi vô định và chợt nhận ra khu mộ B mà anh đã có dịp được Trần giới thiệu. Ngay ở ranh giới của hai khu, có một nhóm người đang xúm quanh một ngôi mộ mới được khai quật. Tiếng kêu la, quát tháo kéo anh ra khỏi dòng suy tưởng. Anh dừng lại tò mò quan sát nhóm người vừa lúi húi bên lỗ huyệt đen ngòm, vừa nạt nộ nhau điều gì đó. Trong mớ âm thanh hỗn độn, anh nhận ra giọng nói the thé của Trần:

          - Cứ moi lên, cứ moi lên !

          Một giọng run rẩy đáp lại:

          - Nhưng... nhưng... chưa tiêu ạ!

          Lại giọng Trần:

          - Chưa tiêu cũng phải tiêu !

          Một làn gió ẩm ướt thổi tới, đem theo một mùi xú khí nồng nặc. Mạnh rùng mình. Không biết từ đâu một sức mạnh ma quái cứ kéo Mạnh tiến tới gần lỗ huyệt. Lạ chưa, Mạnh nhìn thấy ông Thống rõ mồn một dưới đáy huyệt. Bình minh vẫn chưa thức dậy cơ mà. Sao khuôn mặt ông Thống hiện lên rõ thế, nguyên vẹn như lúc còn sống. Nhất là đôi mắt mở trừng trừng, trắng dã, phóng ra cái nhìn lạnh buốt. Còn thân thể thì đáng sợ làm sao: nó nham nhở, chỗ phù nề xám ngoét, chố tấy lên rỉ nước vàng, chỗ lòi xương ra trắng hếu. Mạnh dụi mắt - ảo giác chăng ? Không, rõ ràng đấy thôi, xác ông Thống chưa tiêu hết. Do đất khô quá chăng? Hay do trong ông Thống có chất gì đó làm cho da thịt ông khó trở về với đất? Mắt Mạnh mờ đi. Anh lại nghe giọng nói rụt rè lúc nãy:

          - Thưa ông, hay là lấp lại, đợi khi nào tiêu hết hãy cải táng ạ!

          Giọng Trần tàn nhẫn:

          - Vậy thì phí tổn ai chịu? Tiền của tôi có như nước lã đâu mà đổ tháo bao nhiêu cũng được!

          Hạ thấp giọng, anh ta động viên:

          - Này, tôi đưa tiền đi mua dăm lít rượu, mượn mấy con dao, lại đây róc thịt ra để cải táng cho gọn. Cứ làm đi, đừng sợ, tôi sẽ chi cho thoả đáng.

          Mạnh đứng lặng ngay bên Trần mà Trần không nhận ra. Anh ta làu bàu một mình: “Thật rách việc. Biết thế bỏ tiền mua hẳn một khoảnh đất làm nghĩa trang riêng, khỏi phải bốc đi bốc lại có yên thân không!”. Sau đó, anh ta gọi với theo mấy người thợ bốc mộ vừa đi khỏi:

          - Này, nhanh nhanh về để làm dứt điểm trong sáng nay nhé. Nhớ lấy mấy con dao sắc vào, thịt có vẻ còn dai lắm!

          Mạnh không đủ can đảm để đứng lại bên phần mộ ông Thống nữa. Anh lảo đảo bước đi. Lại một đợt gió nữa lùa tới, xuyên vào hàng phi lao, rít lên liên hồi như biểu lộ nỗi giận khôn nguôi của trời đất.

 

                                                Hà Nội, 7/12/1984 - 25/2/1999.

 

 

 

Sức mạnh

 

 

          Chiều cuối đông. Trời u ám. Dòng xe cộ chảy ào ào trên đường Giảng Võ. Trong dòng chảy hỗn độn đó vẫn nổi lên một ông dáng bệ vệ, cưỡi chiếc xe DREAM II mầu mận chín. Trên khuôn mặt hồng hào, bóng nhẫy, lộ rõ vẻ thỏa mãn. Mắt ông hơi lim dim như đang lạc trong một cảnh bồng nga nào đó.

          Bỗng ông giật mình: một chiếc xe SUZUKI phân khối lớn với một thanh niên vạm vỡ bất thần lao vút từ một đường nhánh ra. Ông nhấn phanh hết cỡ. Chiếc xe khựng lại. Chiếc SUZUKI cũng chồm lên rồi đứng im. Tuy vậy, chiếc yếm xe của ông cũng vẫn chạm nhẹ vào hông chiếc SUZUKI.

          - Tổ sư mày, đi như thế à ?

          Những lời thô tục vừa văng ra từ cái miệng rộng của gã thanh niên thì ông đã thấy khuôn mặt gân guốc, gớm ghê của gã áp sát mặt mình. Ông chống chân xuống đất, giữ xe, ôn tồn:

          - Thôi, không xảy ra tai nạn là may rồi !

          - Ai cho mày chạy nhanh thế ?

          - Không, tôi chạy có nhanh đâu !

          “Bốp” - một cú đấm nhằm thẳng mặt ông. May ông tránh kịp, nhưng cũng bị một đòn sượt đầu.

          - Xuống xe ngay, xem xe bố mày có làm sao không ?

          “Thật là tai bay vạ gió. Lẽ ra đi ô tô lại muốn đi xe máy cho đổi không khí, ngờ đâu!” - ông tự than và dựng xe, bước lại phía xe của gã thanh niên. Liếc nhìn khuôn mặt gã trẻ, ông thấy ghê cả người bởi vẻ dữ dằn và bất lương toát ra không hề che dấu. Và ông cũng quan sát nhanh xung quanh. Không có công an. Mọi người vẫn hăm hở đi, không ai để ý đến một kẻ côn đề và một ông chủ sắp bị hành hung. Nhưng chợt ông reo khẽ một tiếng “Đây rồi!” và bước nhanh về phía một nhóm người lam lũ đang ngồi trên đường phân ranh của hai làn đường xe cơ giới: “chợ người” đây mà.

          Với vẻ thành thạo, ông nói nhanh: “Các chú cần việc làm hả. Tôi chi cho các chú 100.000 đồng, các chú xử lý thằng kia được không?”. Có đến chục chàng trai quê lam lũ nhưng vạm vỡ đang cần việc làm, nghe vậy liền nhao nhao: “Xong rồi, để bọn cháu xử lý!”. Ông vừa rút tiền ra thì nhóm trai quê đã ào cả xuống đường, vây lấy gã côn đồ. Đòn xóc, quang ghánh sẵn trong tay, họ dứ dứ về phía gã thanh niên:

          - Sao mày dám đánh bố tao ?

          Gã trẻ chối:

          - Tôi có làm gì đâu!

          Ông ưỡn ngực bước tới:

          - Hết thói côn đồ chưa?

          - Dạ, dạ... !

          - Thôi, dạ vâng gì, nộp phạt ngay!

          - Dạ thưa, tôi không có tiền!

          - Hừ, không có tiền mà cưỡi SUZUKI à? Không có tiền mà dám hung hăng à? Khôn hồn thì nộp phạt ngay 300.000 đồng, không thì mày tuốt xác!

          - Bố ơi, cứ để chúng con dần cho nó một trận, khỏi nói dài dòng!

          - Thôi, thôi, xin bố tha tội, con xin nộp phạt 200.000 đồng!

          - Đưa đây ngay!

          Gã trẻ rút túi, vừa đúng một cọc tiền loại 2000 đồng đưa cho ông.

          - Tha cho mày, chừa thói côn đồ nghe chưa?

          Chiếc xe SUZUKI vội vã lao đi. Mọi việc chỉ diễn ra trong mấy phút. Nhóm trai quê chưa hiểu ra sao thì ông đã xỉa ra 100.000đ cho họ. Thời buổi thị trường, phải sòng phẳng! Họ cảm ơn ông rối rít và tản đi. Ông cũng lên xe, xoa xoa chỗ bị đấm, tự nhủ: “Chỗ đau nhẹ được bù 100.000 đồng, cũng còn lãi. Mày có sức mạnh của cơ bắp, tao có sức mạnh của đồng tiền, ai hơn?”. Chiếc xe rồ máy, lướt đi.

          Gã côn đồ kia có biết đâu, ông là một nhà kinh doanh đại tài, có thể biến mọi thứ thành lợi nhuận.

 

                                                Cuối đông 1993

 

 

Những người con gái quê hương

 

 

Phù Mỹ, mùa hè.

Đến một xã thuộc vùng Đông, tôi được xem một  lá thư của một người con gái từ trong tù gửi ra:

"Các anh ơi, lũ nó tra hỏi em dữ lắm. Em chỉ nói: "Tôi là đàn bà, biết gì chuyện súng đạn mà các ông bắt? Các anh cứ yên tâm, chúng nó chẳng có bằng cớ gì đâu, em sẽ về với các anh.

Các anh ơi, em nhớ các anh lắm. Quê ta nhổ được mấy chốt rồi? tiếc quá, không được về góp sức với các anh giải phóng quê hương.

Em gái.

Hai."

Tôi đọc đi đọc lại lá thư ngắn ngủi, nhàu nát với những dòng chữ nguệch ngoạc ấy. Tôi chăm chú nghe Nhu- Bí thư xã - kể về Hai. Vào một ngày đẹp trời của mùa xuân, Hai lên đường làm nhiệm vụ. Với chiếc nón trắng duyên dáng trên đầu, với khẩu súng ngắn dấu trong cái xắc ni lông, Hai đi sâu vào vùng địch, tới giữa chợ đông dày lính tráng, mật vụ, tìm diệt thằng xã trưởng ác ôn khét tiếng. Với 2 phát súng, cô bắn gục nó. Lẽ ra, Hai có thể chạy thoát nhưng thấy nó còn dãy dụa,  sợ nó chưa chết, Hai quay lại, nã thêm đạn vào đầu nó. Cô chỉ kịp dấu khẩu súng ngắn, bọn địch đã bâu lấy cô. Sáng hôm ấy, cả phiên chợ xôn xao. Đồng bảo hởi lòng hởi dạ. Kẻ thù bàng hoàng khiếp sợ.

Thế là Hai bị bắt - Nhu kể tiếp - chúng nó đánh Hai dữ lắm, vậy mà Hai không kể vào thư. Cơ sở nói lại, bọn chúng dằn ngửa Hai, dấp một cái khăn mặt bông lên mặt, đem  một bình nước ớt xối từ từ xuống làm cô sặc sụa muốn chết. Chúng thay nhau đấm đá làm người cô sưng mọng lên như quả bồ quân chín. Thế mà cô ấy không kể vào thư. Thường ngày cũng vậy, Hai không bao giờ nói đến khó khăn của mình, chỉ lo cho đồng chí!

 Lá thư cứ vang lên mãi trong lòng tôi như có ai thủ thỉ hoài bên tai và một niềm tin cứ đinh ninh trong óc tôi: nhất định Hai sẽ chiến thắng trở về. Người con gái đầy nghị lực, đầy niềm tin ấy sao lại không chiến thắng trở về được!

Đem theo niềm tin ấy, tôi đi tìm Hai trên khắp quê hương giải phóng. Tôi chưa được gặp Hai, nhưng lại gặp bao cô gái khác có những nét giống Hai kỳ lạ...

*

Thuý năm nay ngoài 20 tuổi , người thấp, lưng hơi gù. Về hình thức, cô là một cô gái khá xấu. Nhưng chính trong cái hình thức hơi thô kệch ấy lại chứa đựng một tâm hồn tinh tế, đẹp đẽ lạ lùng, một  tâm hồn đầy chất thơ. Tôi nhớ mãi buổi chiều hôm ấy, buổi chiều có những cơn mưa dông dữ dội, chúng tôi ngồi nói chuyện với Thuý. Thuý đòi chúng tôi đọc thơ cho nghe. Trong khi chúng tôi chậm rãi đọc thơ thì Thuý ngồi im lặng, lưng gù gù như sắp chồm lên phía trước, đôi mắt hơi lé nhìn vàomột điểm nào đó xa xăm. Chúng tôi vừa ngừng  đọc, Thuý bỗng ngẩng lên, đôi mắt bừng sáng đầy hạnh phúc. Cô nghiêng nghiêng đầu, miệng lẩm nhẩm - thật là một đầu óc thông minh kỳ lạ, cô đọc lại nguyên văn bài thơ chúng tôi mới đọc cho cô nghe lần đầu. Rồi cô lại đòi chúng tôi đọc cho cô nghe bài khác. Khi anh Thu Hoài đọc một bài thơ do anh ấy sáng tác xong, Thuý suy nghĩ một lát rồi dụt dè nói:

- Cho em nhận xét nghen!

- ồ, tốt quá, cứ nhận xét đi.

Thu Hoài hào hứng trả lời.

Đôi má Thuỷ ửng hồng lên:

- Trong thơ có câu : "Chiếc sóng con bằng giấy. Anh thả vào dòng mưa". Em thấy dùng chữ "thả theo - anh thả theo dòng mưa" hay hơn, chữ "theo" có tình cảm hơn, có phải không anh?

Tôi lặng đi trong niềm xúc cảm. Thật khó mà không xúc động được trước một tâm hồn phong phú, ý nhị như vậy, nhất là lại biết rằng người có tâm hồn đẹp đẽ ấy là một cô gái đã từng vào tù, ra tội bao lần, đã từng chiến đấu  giữa lòng địch và chiến thắng trở về. Tôi hỏi Thuý:

- Em có làm thơ chứ!

- Dạ, có. Hồi bị địch giam, em có làm thơ. Tiếc quá, em không chép lại được. Em không còn nhớ bài nào nữa. Bọn địch tra tấn làm em ngớp luôn, đầu óc rối mất,  không nhớ nổi.

Thuý thoáng trầm ngâm, rồi lại vụt trở lại cái hồn nhiên của tuổi trẻ:

- Nói là thơ nhưng đâu phải thơ, em viết dở lắm, nếu có nhớ, cũng chẳng dám đọc cho các anh nghe.

- Những bài thơ ấy viết về những gì?

- Ôi, có được gì mấy? Chỉ quanh quẩn chuyện hoạt động của chúng em thôi.

- Chắc chuyện hoạt động của Thuý có nhiều cái hay lắm nhỉ, kể cho anh nghe đi.

Thuý khiêm tốn:

- Ôi cha, không, chuyện vụn vặt, có gì mà kể.

Chúng tôi phải động viên mãi và thậm chí phải doạ thôi không đọc thơ nữa nếu Thuý cứ từ chối như vậy, Thuý mới chịu kể. Qua câu chuyện của Thuý, tôi hình dung ra  một người con gái hoàn toàn khác Thuý lúc này. Người con gái ấy mặc áo rộng cổ, mặc quần chật ống. Ngoài những lúc cười nói bả lả với tụi lính, người con ái ấy luôn khinh khỉnh, ít  nói và nếu có nói thì cũng chỉ bằng những lời cộc cằn dễ ghét. Người ta chỉ thấy Thuý là một cô gái ngông nghênh, khó chịu, thế thôi. Người ta không hiểu rằng đêm đêm Thuý lần mò vào những ngóc ngách mà địch hay đi, đặt mìn giết chúng. Có hôm, Thuý đặt mìn rồi trốn vào một đám mía, ngồi đợi thằng ác ôn khét tiếng trong vùng đi qua để diệt. Quy luật của nó là hay qua đoạn đường này vào buổi sáng. Nhưng chờ tới  trưa rồi vẫn không thấy nó. Trời mùa hè nóng bỏng như chảo rang. Những lá mía khô đi, quăn lại, phả hơi nóng hầm hập. Thuý vẫn kiên nhẫn chờ. Giữa lúc ấy thì Thuý bị ngớp, đó là hậu quả của những trận tra tấn của địch. Thuý nằm lăn dưới gốc mía bất tỉnh. Thuý nấc nấc, ngáp ngáp như cá lên cạn. Nóng, khát, trời vẫn dội lửa xuống. Đầu óc Thuý muốn nổ tung ra. Thuý dãy dụa.  Chỉ có một mình Thuý thôi. Và nắng, nắng dữ dội. Hàng trăm ngàn đốm lửa xao động trước mắt Thuý. Những thằng ác ôn hiện lên với những khuôn mặt quái dị. Roi vọt. Nước ớt, nước xà phòng sặc sụa. Thuý lăn lộn. Nửa giờ, rồi một giờ qua đi, vẫn chỉ mình cô vật vã trong đám mía, dưới ánh nắng gay gắt. Mồ hôi ướt đẫm áo quần, đọng thành giọt trên mặt Thuý. Cuối cùng, cơn ngớp qua đi. Thuý ngồi dậy, ngơ ngác ngó quanh. Phải mất một lúc bàng hoàng, Thuý mới nhớ lại được những việc vừa xảy ra. Và ngay lúc ấy, Thuý nhớ tới nhiệm vụ của mình. Thuý lại căng mắt nhìn ra đường. Một cơn khát dữ dội hành hạ Thuý. Không có nước. Không thể rời khởi chỗ này đi kiếm nước được, vì như vậy sẽ bị lộ. Thuý có cách rồi: uống nuớc tiểu của chính mình. Với ý chí sắt đá ấy, Thuý đã hoàn thành nhiệm vụ. Sau nhiều vụ đánh địch khác, Thuý bị lộ. Huyện chuyển cô về vùng khác, làm công tác đấu tranh chính trị.

Kể đến đấy, Thuý đột ngột cười:

- Có lần tụi địch kêu em là con điên anh à.

- Sao vậy.

- Hôm ấy, em cùngmột số cơ sở tổ chức một cuộc đấu tranh ở cầu Cương. Bọn địch ngoan cố lắm anh à, nó bắt mấy chị đi đầu lột hết nón rồi lại định lột áo. Chúng nó đánh, mấy chị ấy không ngán, nhưng chúng nó làm thế, mấy chị ngán quá, chạy lùi hết lại. Nòng cốt đã lùi thì cả đoàn biểu tình cũng lùi. Lúc ấy em ở phía sau chỉ đạo. Không thể để cuộc đấu tranh bị mất thế. Em vượt lên hàng đầu. Có mấy chị quát em:

- Mi điên hay sao mà chạy  lên đó, chúng bắt thì sao?

Có chị cơ sở nói: "Thuý, chớ lên, phải giữ thế hợp pháp chớ!"

Em vẫn chạy lên. Em nghĩ, hợp pháp là để đấu tranh, chớ không phải để đứng sau cuộc đấu tranh. Thằng đồn trưởng thấy em vừa xông tới, vừa hô khẩu hiệu thì tức giận hét bọn lính níu chặt lấy em. Nó trợn trừng mắt: "Mày ưng khẩu hiệu  lắm hử? Thì cho mày khẩu hiệu". Bọn lính dằn em xuống, viết khẩu hiệu phản động lên áo em, rồi đẩy em nhào trở lại.

Thuý dừng lại một lúc, ngập ngừng như đắn đo điều gì, rồi lại nói:

- Em liền cởi áo ra, vứt vào mặt bọn nó. Mấy thằng lính cười hô hố: "Con nhỏ điên bay ơi!". Nhưng thằng đồn trưởng thì tím mặt lại, há hốc mồm mà nhìn em. Và lúc ấy, đồng bào lại xông lên.

Cuối câu chuyện, Thuý thích thú đưa ra một nhận xét: "Anh thấy không, con gái chúng em sướng hơn các anh nhiều. Này nghen: biết đường nhựa, biết thị xã, lại biết cả  đường dốc, biết cả núi rừng, biết hông đa lại biết cả cõng ba lô leo núi". Lời nhận xét ấy quả là một  cách tổng kết cô đọng về phương thức hoạt động của những cô gái hợp pháp giữa lòng địch, những người luôn luôn thay đổi về hình thức và phong cách sống, duy chỉ có một điều không thay đổi: lòng căm thù Mỹ nguỵ, ý chí quyết thắng và niềm tin tuởng mãnh liệt đối với cách mạng, đối với chính mình. Tuy nhiên, tôi biết Thuý dùng chữ "sướng" ở đây là theo một khía cạnh khác chứ không đơn thuần ở cái nghĩa thông tục. Bởi vì những cô gái hoạt động trong vùng địch, sống va chạm với địch có rất nhiều nỗi khổ, khổ cả về thể xác, và khổ rất nhiều về tinh thần. Câu chuyện của Thu đã cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ về nỗi khổ đó.

Căn cứ Bình Định, tháng 6.

Mới di chuyển đến nơi này, chúng tôi phải ở nhà tăng. Không có bàn ghế, phải cột võng mà ngồi trò chuyện. Trời lại dội mưa xống sầm sập. Tôi gặp Thu trong hoàn cảnh như thế. Thỉnh thoảng, một cơn gió thổi thốc tới làm tạt nước mưa vào lạnh ngắt, làm ngọn đèn dầu chao đi, muốn tắt. Những con mối theo ánh đèn bay tới bu đầy cổ làm tôi khó chịu vô cùng. Vậy mà Thu, cô gái ở thị xã mới về họp, thì lại hết sức thích thú trước cái cảnh sống tùm hum chật chội ấy. Nhìn  tôi nhăn nhó, vơ mấy con mối bay sà trước mặt, Thu cười ngặt nghẽo và đôi mắt ánh lên sự hồn nhiên.

- Anh để cho nó bay, tội nó mà, đừng giết nó.

Tôi với tay đập con mối từ phía ngoài đang lao thẳng vào mặt, làm chiếc võng tôi ngồi chao đi, ngôi nhà tăng rung lên. Chiếc võng của Thu cũng chao theo. Cô đung đưa người theo nhịp võng và vừa lắc đầu, vừa cười, cười ròn khanh khách. Tôi chăm chú nhìn Thu, không khỏi ngạc nhiên. Khi mới được các đồng chí trong ban Binh vận giới thiệu thành tích của Thu, tôi cứ hình dùng cô là một người con gái sắc sảo, nghiêm nghị, có giọng nói đĩnh đạc của người từng trải. Không ngờ cô lại hồn  nhiên, ngây thơ như vậy. Chà, thật hiếm có một  người con gái có điệu cười thoải mái như thế. Thu bỗng ngừng bặt tiếng cười, bối rối như mình vừa làm  một  điều gì lố bịch.

- Chu cha, anh! Dị quá à! Em.... em cười quá nhiều hả anh?

Rồi Thu nói tiếp, giọng êm êm, tha thiết:

- Anh à, đừng rầy em nghen. Sống với tụi nó, không khi nào em được cười thật sự. Về căn cứ, gặp các anh, em thấy sung sướng quá, em chỉ thích nô dỡn thật nhiều. Lắm khi em đuổi nhau với lũ bạn, chạy huỳnh  huỵch. Đến khi nhớ lại, thấy các anh ngó, mắc cỡ quá, lại sợ các anh rầy nữa!

Tôi vội giải thích:

- Không, các anh không rầy em đâu em à. Không những thế, được thấy các em vẫn giữ được lối sống hồn nhiên, tươi trẻ, các anh rất vui. Chắc em sống trong đó ngột ngạt lắm hả? Em kể chuyện đi.

Thu ngồi im lặng, hai tay nắm  mép vòng, mắt chăm chú nhìn ngọn đèn.  Ngọn đèn lung linh, nô dỡn trong đôi con ngươi đen láy của Thu. ánh đèn dầu hắt vào mặt, làm làn da bánh mật của Thu hồng lên. Thu bắt đầu bằng giọng nói âm ấm, đều đều, thủ thỉ như dòng sông La Tinh dịu hiền của quê hương cô:

 - Cha em đi tập kết. Mẹ em làm công tác trên tỉnh. Em còn nhỏ, ở với bà. Em nhớ mẹ, khóc hoài, đòi bà đi tìm mẹ. Bà em phải lôi em vào buồng, dỗ: "Im đi con, rồi má con sẽ về. Con nói tới má, thằng xã trưởng bắt cả nhà bây giờ". Chính những lúc ấy, má em về hoạt động tại xã. Sau này nghe nói lại, em mới biết. Có hôm má em ngồi trong bụi cây, thấy em đi ngang mà không dám gọi. Má bặm miệng, ngó theo em hoài. Rồi  một lần đi công tác, má em bị địch phục kích, bắn chết. Lúc ấy em đã biết nghĩ rồi. Em xin vào du kích để trả thù cho má. Mấy chú không cho, nói em còn nhỏ, yếu quá. Mấy chú giao cho em nghi trang công sự cho mấy anh. Hôm ấy, em vừa cảnh giới, bám sát thằng xã trưởng, vừa nghi trang công sự cho ba anh du kích. Khi nó sơ hở, em bật nắp công sự cho mấy anh lên. Diệt thẵng xã trưởng xong, mấy anh lại xuống công sự an toàn. Còn em thì bị tụi nó bắt. Chúng nó đánh em dữ lắm, nhưng em chỉ nói: "Chuyện tai bay vạ gió, tôi không biết". Cuối cùng, chúng phải thả em. Em nhớ lại lúc em bị đánh mê man bất tỉnh, có một người lính tới xoa dầu cho em. Em liền liên lạc với anh ta, xây dựng anh ta thành cơ sở binh vận. Mấy chú bảo em làm công tác binh vận giỏi, đưa em vào luôn ngành đó. Em vẫn giữ được thế hợp pháp của mình nên các chú đưa em vào hoạt động thị xã. Em quen  sống ở nông thôn,  phải chuyển qua hoạt động thị, bỡ ngỡ lắm. Phải học đủ cách ăn mặc, khi thì mặc theo lối "híp pi" quái gở, khi thì nón mê áo rách, gánh hàng rong. Chị Kiên bày vẽ cho em từng chút một, từ cách nhìn nhận, đánh giá binh lính nguỵ đến cách đi đứng để tránh sự theo dõi của bọn mật vụ. Hai chị em thường ra bãi biển gần thị xã. Em không muốn ra đó chút nào hết, ở đó dơ dáy lắm. Lũ lính Mỹ, lính Nguỵ nô dỡn với bọn gái điếm như ở trong buồng nhà nó. Em kinh tởm quá. Nhưng chị Kiên cứ dẫn em đi. Chị bảo: "Nơi đó tập trung nhiều cái ô uế, nhưng lại cũng  có những người chúa ghét hàng ngũ địch!". Chị nói quả không sai. Có một hạ sĩ quan nguỵ đi một mình trên bờ biển, đầu cúi nặng nề. Đôi mắt anh ta thâm quầng, rầu rĩ.  Hai chị em lại làm quen. Biết anh ta tên là ý. Quả vậy, ý đang chán nản, buồn rầu: cha anh bị tụi lính bắn chết, em gái anh lại mới bị xe của bọn Đại Hàn cán gẫy tay, mẹ anh phải sống trong khu đồn  ngột ngạt. Qua nhiều lần gặp gỡ, chị Kiên phân tích cho anh ý vì sao mà khổ, chuyển hoá anh thành một người có cảm tình  với cách mạng. Chị nhận nhiệm vụ mới, trao lại cho em nhiệm vụ tiếp tục giác  ngộ người lính nguỵ ấy. Một buổi tối, đi bên anh ta, em hỏi:

- Anh ý, anh có biết vì sao mà gia đình anh khổ như vậy không?

Anh ý trả lời:

- Vì chiến tranh.

- Chiến tranh do ai gây ra?

- Do ngoại bang.

- Anh đang cầm súng chiến đấu cho ai?

Anh lặng im. Em liền nói:

- Anh à, gia đình anh khổ, gia đình bao bà con ta khổ, đều do thằng Mỹ xâm lược gây ra. Anh cầm súng ấy, vô tình đã làm hại gia đình, bà con mình.

Anh ý trầm ngâm:

- Lỡ rồi, biết làm sao.

- Anh có muốn thoát khỏi con đường đen tối ấy không?

- Có chớ.

Cứ như vậy, em chỉ cho anh những việc làm có lợi cho cách mạng. Lúc đầu chỉ là nắm tình hình đi lại của địch trong căn cứ anh đóng. Sau đó là rải truyền đơn, rồi vẽ sơ đồ. Em kiểm tra thấy anh ấy làm đều tốt. Đến một hôm em nói với anh:

- Anh có muốn làm chiến sĩ Giải phóng quân không?

- Tôi mà làm được chiến sĩ Giải phóng quân à? - Anh ngạc nhiên hỏi.

Em giải thích:

- Bấy hôm anh vẫn làm công việc của chiến sĩ Giải phóng quân đấy.

Mắt anh sáng lên sung sướng:

- Thiệt na?

- Thiệt chớ. Các anh ở trên khen anh lắm. Các anh ấy có ý định kết nạp anh vào quân Giải phóng, muốn anh trở thành chiến sĩ Giải phóng hoạt động trong lòng địch, anh thấy thế nào?

- Được vậy thì sướng quá!

Rồi em đưa anh ấy ra vùng ven tổ chức kết nạp vào "đội nghĩa binh". Buổi lễ có ảnh Bác, có cờ Mặt trận, có cấp trên về dự, tuy đơn sơ mà rất trang trọng. Anh ý lên đọc lời thề: chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng. Anh ấy rất xúc động. Em cũng vậy, sung sướng, bồi hồi lắm. Trước nay, em đã xậy dựng được khá nhiều cơ sở binh vận, nhưng chưa lần nào lại có ý nghĩa như lần này: xây dựng cơ sở  giữa hang ổ kiên cố nhất của địch, có điều kiện đánh những trận lớn.

Từ đó, để tiện việc bàn bạc, em đến thẳng nhà riêng gặp anh ấy. Nào ngờ, một chuyện gay go đến với em. Vợ anh ấy ghen. Mấy lần đầu em tới, chị ấy  còn hấm hứ. Nhưng rồi một lần chị ấy chỉ thẳng vào mặt em mà nói giận dữ: "Tôi không ưa những người như cô. Cô ra khỏi nhà đi. Cô định cướp chồng tôi hả?". Lần ấy, em không thể kìm chế nổi, em bỏ đi. Ra ngoài gặp chị Kiên, em khóc: "Thôi chị ơi, xấu hổ lắm, em không đến nữa đâu, giao cho em nhiệm vụ khác". Chị Kiên phân tích: "Em đừng lo, chị ấy nói như vậy đủ biết chị ấy là người tốt. Em đã thấy mấy con vợ lính đánh ghen chưa? Chỉ mới thoáng thấy một cô gái đi bên chồng thôi, nó đã xông ra cào cấu vào mặt mà hét rầm lên giữa phố: "Con đĩ cướp chồng tao". Đằng này chị ấy không vội, chị ấy chỉ nói với em. Em cứ từ từ và xây dựng đi, chị ấy sẽ có ích cho chúng ta đấy!". Em lại trở vào thị xã. Đợi những lúc anh ý không có nhà, em đến thăm chị ấy. Chị ấy không mắng em nữa, nhưng thái độ rất lạnh nhạt. Em lại chuyện trò với lũ con chị, tắm rửa cho chúng. Lần lần, chị nói chuyện với em. Em phân tích cho chị hiểu vì sao gia đình chị khổ. Em nắm tay chị, nói thẳng: "Em biết gia đình chị cũng nghèo, có thù với lũ giặc, em muốn giúp đỡ anh ý đi vào con đường đúng đắn để trả thù nhà, nợ nước". Chị ôm lấy em, khóc: "Trời ơi, sao cô không nói vói tôi từ trước. Tội nghiệp quá!". Thế là chị trở thành cơ sở đáng tin cậy của em.

Sau nhiều ngày điều tra, em vạch kế hoạch cho anh ý đánh một trận lớn ở khu vực X. Anh hứa sẽ tiếp tục điều tra và sẽ trình bày với em phương án đánh cụ thể.

Thế là kế hoạch tỉ mỉ cho trận đánh được vạch ra.  Hôm em đưa chất nổ vào và bày cho anh ấy cách dùng, kiểm tra lại phương án đánh của anh ấy, anh ấy cười: "Thật chịu cô! Chính trị đã giỏi mà quân sự cũng tài nữa!" Ngay trong đêm ấy, kho xăng giữa thị xã nổ tung. Em vui vô cùng, thế là ngọn lửa hai anh em cùng  nhau  nhen nhóm đã bùng cháy thành khối lửa dữ dội giữa hang ổ địch. Cuộc đời chúng em những lúc ấy là vui nhất.

- Em ra vào thị xã luôn, có hay bị lục soát không? - Tôi hỏi:

Thu mỉm cười:

- Tránh sao khỏi anh? Không những chúng lục mà chúng còn bắt ẩu  nữa - hơi nghi là bắt, là đánh.

- Em bị bắt mấy lần rồi?

- Dạ, không nhớ nổi nữa anh à. Riêng năm ngoái em bị bắt năm lần, tết cũng bị nhốt trong xà lim. Chúng nó tra nước dữ quá, em bị ngớp hoài.

Vẫn với giọng bình thản, Thu kể tiếp:

- Chuyến trước lên trên này họp, khi qua khỏi khẩu, em đi với mấy anh bộ đội. Tối ấy mấy anh em ở chung một nhà tăng. Chẳng dè em lên cơn ngớp, đang nằm trên võng bỗng nhào xuống đất. Người  em mệt dữ dội, mắt quáng, miệng khát. Mấy anh mới vực em lên võng và cuống quýt hỏi nhau:

- Cô ấy bị trúng gió hay sao ấy! Dầu đâu?

Em nghe hết,  nhưng lưỡi cứ cứng lại không nói cho các anh rõ được. Thế là các anh ấy nắm tóc mai em giật, rồi lấy nước tiểu đổ vào miệng em. Trời ơi, khai quá!".

Kể đến đó, Thu đột nhiên cười rúc rích như vừa nói đến một chuyện vui nào đó chứ không phải là nói đến nỗi đa truân của chính mình. Còn tôi, tôi thấy tràn ngập một sự xúc động, tràn ngập tình thương và lòng kính trọng. Kẻ thù đã gây bao tội ác trên quê hương chúng ta, đã dày vò biết bao người con gái đáng yêu của quê hương chúng ta.  Nhưng, sức sống của quê hương chúng ta vẫn ngời ngời lên, vẫn vượt  lên hết thảy. Chỉ cần nhìn vào những người con gái ấy thôi, chúng ta cũng có thể thấy rất rõ quê hương chúng ta đau thương và bất khuất như thế nào.

Tôi gặp Thuỳ trong một trường hợp đặc biệt: chị đang lên cơn động kinh. Chị ngã lăn trên một tảng đá lớn, giãy giụa. Anh em vội xúm vào giữ chị. Phải 4 người ghì 2 chân, và 2 tay, một người giữ đầu chị mới giữ cho chị khỏi dãy tung ra. Mắt chị nhắm nghiền. Miệng chị la:

- Ươi trời ơi! Nóng quá chịu  sao nổi? Các ông biểu tôi tiếp tế cho Cộng sản, tui không biết  đâu!

La rồi chị cố chồm dậy. Các anh phải ráng hết sức ghì cho chặt mới giữ cho chị nằm im. Mặt chị nhăn lại, đỏ bừng như người say nắng, mồ hôi thấm ra lấm tấm. Chị nằm im, nấc nấc như bị ngạt. Đột nhiên chị  hét ré lên, giãy giụa, la vang:

- Các ông biểu tui là Cộng sản. Tui không biết Cộng sản là gì! Nếu tui  là Cộng sản thì cả nước Việt Nam này là Cộng sản! Nước Việt Nam này rộng lắm, đông lắm. Các ông có đi bắt hết được không? Trời ơi, nóng quá chịu sao nổi. Hồi mai giờ các ông đánh tui,  cây gỗ phải gẫy, cây sắt phải cong, thịt da nào chịu nổi? Khát nước quá, đưa tui một hớp nước lạnh. Không, đưa cô ca làm gì? Tôi không uống! Các ông có biết tiền mua cô ca ở đâu ra không? ở máu bà con tui đây này. Các ông biểu tui uống nước đái, các ông khôn hơn, các ông đem về cho cha mẹ các ông uống...

Chị oằn mình, rú lên một tiếng rồi lịm đi. Anh em cho biết chị sẽ lên cơn suốt 3 tiếng đồng hồ. Trận đánh dữ nhất của địch kéo dài bao lâu thì cơn động kinh kéo dài chừng ấy. Chị là giao liên hợp pháp. Chị dẫn đường cho anh em ra vào, chị chở vũ khí, tài liệu ra vào một vùng quan trọng. Với chiếc xuồng nhỏ bé, chị đi lại như con thoi nối liền những con đường chiến đấu. Một tên phản bội khai báo ra chị. Trước khi bị bắt, chị đã kịp nhận chìm xuồng, giấu hết vũ khí. Địch đánh  chị bằng đủ mọi đòn dã man: đổ nước, tra điện, đóng đinh vào tay. Chúng không tài nào làm được tờ cung. Chúng bèn tự viết ra một tờ cung, bảo chị ký vào. Chị cầm bút, gạch một đường lớn vào giữa tờ cung. Chúng lại đánh chị. Nhưng chúng vẫn thua. Bây giờ, chị đã trở về với chúng tôi. Chị nằm đó, thở phập phồng. Với khuôn mặt bầu bầu, sống mũi dọc dừa, trông chị thật hiền từ, đôn hậu. Nhưng với kẻ địch, chị dữ dội thế đấy. Theo dõi cơn động  kinh của chị, ta có thể hình dung rất rõ cuộc chiến đấu của chị trong phòng tra, thấy rõ thằng ác ôn đang làm gì, chị chống trả ra sao.

45 phút trôi qua. Chị hơi cựa mình, tay bắt đầu nắm lại. Phải thay năm người khác vào giữ chị. Chị lại sắp giãy. Vừa kịp ghì lấy người chị, thì chị nắm chặt tay lại, oằn oại. Đôi mắt chị nhắm nghiền và miệng chị lại la:

- Đánh tôi quá chừng quá đỗi chịu sao nổi! Sao mà ngu dữ vậy? Còn một cái cung nữa mà đánh dữ vậy. Các ông đánh vợ con các ông vậy được không? Thôi! Đưa cây đây tôi đánh các ông thử coi! ứ ớ!...

Chị giãy đùng đùng, lặng đi một lúc chị lại hét lên:

- Để tao chết luôn, chích kim làm chi? Bay đánh tao chết còn bày chích thuốc làm chi? Đừng có đạo đức giả! Thả ra, thả ra, tôi đạp đây nè.

Chị nấc nấc một lát rồi tiếp:

- Đánh đi! Các ông có giỏi thì đánh miết tới 12 giờ khuya. Ba, bốn đứa đánh chết chứ chịu sao nổi? Bay lấy gậy sắt  đánh tao gẫy tay. Bay trở roi điện đánh tao cháy da. Nhưng bay mới lóc tới thịt, chớ chưa tới xương tao. Bay đánh cho chết luôn đi rồi xả thịt làm mắm cho  vợ con bay ăn. Sao bay ngu quá  chừng vậy.

Chị ngừng lại, nấc nấc như người bị ngợp nước, ngực giật giật từng hồi và thở hổn hển. Rồi chị nằm im, thở đều đều như người ngủ say. Một lát sau, chị kéo  chiếc võng mà chúng tôi đắp cho chị lên ngửi rồi nói:

- Chu cha, tanh quá, máu tanh quá.

Chị ném chiếc võng đi và lại kêu:

- Lính, đem nước tao uống! Đồ quỷ, nó bỏ, nó đi hết.

Chị nằm im một lúc, nói giọng tỉnh táo hơn: "Đau đầu quá". Đồng chí y sĩ lấy thuốc trợ sức tiêm cho chị. Chị không biết gì. Chị duỗi bàn tay ra. Anh em cũng buông chị ra. Chị ngồi dậy, đầu tóc bơ phờ. Chị nhìn chúng tôi, vuốt sợi tóc loà xoà trước trán, thoáng cười và bảo: "Các anh ngồi lâu lắm rồi hả, có mệt không? Thôi, vô nghỉ đi!" Chị  đưa tay sửa lại áo, hai cổ tay bị giữ chặt lâu quá, bầm tím.

Tôi ngồi lặng im nhìn chị mà muốn hỏi chị nhiều chuyện. Nhưng tôi không dám hỏi. Bởi vì, nếu chị kể lại chuyện đời mình, chị sẽ không tránh khỏi xúc động và rồi chị sẽ lại lên cơn. Tôi không cầm lòng được trước cơn động kinh của những người con gái ấy. ở Bình Định này, tôi đã gặp biết bao cô gái như vậy. Người làm công tác võ trang, người làm công tác binh vận, người làm công tác đấu tranh chính trị, giao liên - mỗi người  trên một mặt trận thầm lặng và mỗi người đều vượt qua những đau thương, gian khổ mà lập nên những chiến công thầm lặng nhưng vô cùng lớn lao. Kẻ thù tàn bạo, dã man quá, chúng hành hạ chị em của chúng ta bằng những dụng cụ hiện đại nhất của "văn minh Huê kỳ" và bằng phương pháp tồi tệ nhất của thời trung cổ. Nhưng, chúng không khuất phục được những người con gái ấy.

 

*

 

Khi tôi viết những dòng chữ này, tôi đã ở xa những người con gái ấy hàng trăm cây số. Tôi ân hận mãi là chưa gặp được Hai - người con gái Phù Mỹ kiên cường. Khi được tin cô đã chiến thắng trở về, tôi ở xa quá, không đến thăm cô được. Khi tôi về thăm Hai tại quê hương cô thì Hai đã được điều lên huyện nhận công tác mới.

Những người con gái ấy vẫn đang trên đường chiến đấu vẻ vang của mình. Hai làm công tác an ninh. Thùy trở về  chiến trường với chiếc thuyền nhỏ  xuôi ngược trên các dòng sông, luồn lách giữa hang ổ địch. Thu đang tiếp tục chiến thắng những thử thách lớn lao mới trong trại giam của địch. Còn Thuý, người con gái có tâm hồn đầy chất thơ, đã đi xa rồi, xa mãi, để lại trong tôi những hình ảnh trong sáng, những suy nghĩ cháy bỏng.

Sống giữa những người con gái như thế, sống giữa cuộc chiến đấu hào  hùng như thế, tôi thấy mảnh đất mà mình  mới đặt chân lên ít lâu, bỗng trở nên gắn bó, đầy tình sâu nghĩa nặng. Đã bao lần tôi thầm gọi Bình Định -  mảnh đất "dẫu chẳng nơi đây cất tiếng chào đời" là quê hương  với cái nghĩa thân thương và trân trọng nhất.

Xin cảm ơn những người con gái quê hương.

 

Mùa trông đợi

 

          Đêm nay trăng đẹp. Bầu trời cao thăm thẳm, thỉnh thoảng gợn một làn mây trắng mỏng tanh. ánh trăng trong suốt trải xuống thôn An Liễu một màn sáng dìu dịu, xoá bớt phần nào những dấu tích tàn khốc của chiến tranh. Trong căn nhà giữa thôn sáng rực ánh đèn Măng Xông, lực lượng du kích xã đang họp. Sau lời dặn dò của đồng chí Bí thư xã uỷ, cuộc họp chấm dứt. Mọi người chen nhau bước ra cửa. Những khẩu súng trên vai họ loé lên dưới ánh đèn, va vào nhau lích kích. Đi sau cùng là Thiệt, thôn đội trưởng thôn An Qưới, một thôn còn bị địch “kẹp”, nơi đứng mũi chịu sào của cả xã. Anh đứng giữa sân, hết nheo cặp mắt có hàng lông mày đen đậm nhìn ngọn đèn, lại ngửa cổ nhìn bầu trời cao vời vợi. Qua ánh đèn, cái dáng người thấp, đậm đà của anh in một bóng đen dài lặng lờ trên nền cát trắng. Thiệt nhìn chăm chắm ngọn đèn một lần cuối như muốn thu hết ánh sáng của nó vào đôi mắt, rồi quay ngoắt lại, vội vã bước đi. Ra khỏi sân, anh rẽ quặt theo con đường cát lớn, đuổi theo hai người khoác súng đi phía trước. Anh cứ lầm lũi bước đi như thế, tới khi qua khỏi thôn An Tân mới nói với hai bạn:

          - Nương, No à, lên đây chút nghe!

          Thiệt bước gấp gáp lên gò đất cao đầu cánh đồng. Anh đứng vươn mình nhìn về phía xa rồi khẽ reo:

          - Nó vẫn còn đó!

          No bước lên theo anh, hỏi:

          - Gì hả anh?

          Thiệt không trả lời. No xích lại gần Thiệt, nói:

          - à, cái chốt An Qưới.

          Thiệt bỗng gắt:

          - Vậy thôi ua?

          No im lặng. Nương lên tiếng:

          - ánh đèn cuối xóm...

          - ừ, nó đấy, nó vẫn trông mình đấy! - Thiệt cướp lời Nương - giọng tự hào.

          Đôi mắt Thiệt chăm chăm nhìn về phía trước. Trong ánh trăng vằng vặc, thôn An Qưới in một vệt đen đậm giữa cánh đồng bao la. Thiệt không thèm nhìn cái vùng sáng trắng trơ trẽn hắt lên trời phía sau lưng vệt đen mà anh biết rõ đó là chốt An Qưới. Anh nhìn hun hút vào một điểm sáng nhỏ lung linh phía đuôi vệt đen - điểm sáng của một ngọn đèn dầu.

          - Đi hoài, ngó hoài mà không nhớ nó hay sao, No! - Thiệt càm ràm rồi cắm cúi bước đi. Nương và No lặng lẽ theo anh.

          Đi qua cánh đồng lúa đang vào sữa thoang thoảng hương thơm, ba người bước vào cánh đồng hoang đầy sỏi đá. ánh trăng soi rõ những cuộn dây thép gai nằm lù lù hoặc bò ngùng ngoằng khắp nơi. Thiệt bỗng dừng lại, cúi xuống xuýt xoa: một mảnh đạn pháo nhọn hoắt trộn lẫn sỏi xuyên qua đế dép Nhật, găm vào chân làm anh đau điếng. Thiệt xách dép, rút mảnh pháo ra, quăng đi rồi xỏ dép vào chân, bước tiếp. Lát sau, anh dừng lại, thì thào với hai bạn:

          - Tới đường số 2 rồi. Mình lên bám thử. Đêm trăng, lũ nó hay kích.

          Thiệt chạy lom khom đến bờ tường, nằm dán xuống đất, lắng tai nghe. Anh vớ hai cục đá ném sang hai đầu đường. Tiếng đá lăn lục cục, khô khốc. Thiệt chạy vọt qua đường. Im lặng. Anh bật lưỡi hai tiếng “tróc tróc”. Nương và No vọt qua, đuổi kịp anh. Ba người núp vào bờ tre đi tới. Ngôi nhà đầu thôn đã hiện ra trước mắt họ. Nó nằm câm lặng giữa ánh trăng, chỉ có ngọn đèn dầu nho nhỏ hắt một vùng ánh sáng vàng vàng qua khung cửa sổ. Tới sân, Thiệt lên tiếng:

          - Ông Hai còn thức không?

          Tiếng một bà già hỏi lại:

          - Thằng Bốn đó hử?

          Thiệt đẩy cửa bước vào. Anh thấy ông Phu đang ngồi dưới đất chuốt một lưỡi mác nhọn hoắt. Bà Phu buông cuộn dây dừa đang cuộn dở, đứng dậy. Soi đèn vào sát mặt Thiệt, bà chửi:

          - Mồ cha bay? Tao ngỡ ở trển luôn rồi chớ!

          - Dạ, lũ con mắc họp mà! - Thiệt phân trần.

          Ông Phu kéo tay Thiệt:

          - ủa, ngồi xuống, ngồi xuống!

          Bà Phu xăm xe:

          - Ngồi đó, tao xuống bếp nấu cơm nghe.

          Thiệt ngăn:

          - Lũ con ăn ở trển rồi, đừng nấu nữa bà.

          - Thiệt không?

          - Dạ thiệt.

          - Bữa nay có cá ngon lắm. Ăn củ lang với cá vậy nghe.

          Bà Phu đi xuống bếp. Ông Phu hỏi:

          - Bay họp có gì mới nói tao nghe thử.

          - Có chớ ông. “Cả nước ra quân, toàn dân nổi dậy”...

          - Câu đó tao ghi trong xương rồi. Bao giờ phát lệnh?

          - Để rồi...

          Bà Phu đặt rá khoai, đĩa cá xuống bàn:

          - Ăn đi bay. Ăn rồi nói tao nghe.

          Hồi lâu sau bà tỉ tê:

          - Bay tính thế nào? Để lai rai vầy mãi sao. Mấy bữa rày thằng Hương dẫn lính đi “thanh lọc”, khui hầm hoài. Bữa hổm nó đi với lũ Cộng hoà tới đây. Nó xỉa cái gậy vô mặt tao: “Hồi hôm có ba thằng Cộng sản vô nhà mày, dấu ở đâu?”. Tao không trả lời. Nó giựt phanh áo tao ra, rút con dao găm bên hông, đặt lên ngực tao: “Hầm bí mật đâu?”. Tao hỏi: “Hầm bí mật nào?”. Nó nói: “Hầm bí mật của Cộng sản chớ hầm nào”. Tao lắc đầu: “Hầm bí mật thì mấy ổng làm bí mật, tui biết ngõ nào mà chỉ!”. Nó miết mũi dao, kéo một đường tới bụng; da tao rớm máu. Rồi nó xoay qua giật râu ông lão: “Còn lão già này, đi khởi nghĩa chớ!”. Bà Phu hạ thấp giọng, thì thào:

          - Bay coi lại thử, sao nó biết có khởi nghĩa?

          - Dạ!

          - Tao tính có làm thì làm hắc cho rồi. Đù đưa miết coi chừng đổ bể đó bay.

          - Cũng còn phải chờ lệnh chung...

          - Hay bay nói với mấy ổng trên đưa bộ đội về đây đánh luôn xuống ga Tam Quan. Bao nhiêu cũng được, lũ tao nuôi hết.

          Thấy Thiệt trầm ngâm, bà bảo:

          - Sao, hay là sợ lũ tao không nuôi nổi? Chớ nghĩ quẩn nghe. Mấy hồi thóc giống không có mà gieo, lũ tao còn nuôi được, huống hồ bây giờ.

          Thiệt đáp:

          - Không phải vậy đâu, bà. Chỉ vì mình cần phải chuẩn bị đầy đủ cho chắc ăn đã.

          Anh cười cười, hỏi:

          - Bà chuẩn bị được gì rồi?

          Bà chỉ vào lưỡi mác và sợi dây dừa:

          - Đó, thêm gậy, dao nữa, đủ chưa? Phát lệnh là tao với ông lão xáp vô liền.

          Thằng Hà - cháu nội bà Phu - đang nằm trên giường, vội lồm cồm bò dậy, nói xen vào:

          - Cháu cũng có phèng la rồi. Chú có muốn nghe cháu gõ thử không?

          Bà Phu nạt:

          - Nói ba xàm ba láp, cái thằng. Gõ bây giờ cho nó núm đầu hả?

          Uống nước xong, ba người đứng dậy:

          - Lũ con đi nghe.

          Bà Phu dặn:

          - Nhớ dòm chừng đó! Khuya vô chớ?

          - Dạ!

          Ra khỏi ngõ, ba người men theo con đường nhỏ, tiến sâu vô làng. Tới cuối đường, Thiệt nép sau cây dừa ngã nghiêng nghe ngóng. Tịnh không một tiếng động. Chỉ có gió luồn bờ tre xào xạc. Qua bờ tre, Thiệt thấy một ánh đèn khi tỏ khi mờ.

          - Vô đi! - Thiệt nói nhỏ.

          Ba người băng qua đám lang trước mặt. Những lá lang ướt đẫm sương, quệt vào chân nghe mát lạnh. Nhìn vào giữa căn nhà nhỏ, Thiệt thấy một bà mẹ và một cô con gái đang ngồi xắt củ lang.

          Đón Thiệt vào, bà mẹ nói như reo:

          - Đây rồi. Ngóng hoài ngóng huỷ.

          Kéo Thiệt ngồi xuống, bà hỏi:

          - Có lệnh chưa?

          - Dạ cũng sắp...

          - Sắp, sắp hoài! Sao không làm tới đi. Hay trên không tin lũ tao làm được?

          Thiệt lắc đầu. Bà dơ con dao đang cầm nơi tay ra trước ánh đèn:

          - Mi coi, bộ cái này không phứt được một thằng ác ôn sao?

          - Dạ được chớ. Mà để đến hồi có lệnh đã.

          Cô gái nói xen vào:

          - Hồi nào nữa anh. Hay anh phỉnh bọn em? Dạo tết tưởng đã làm ào ào như hồi Mậu Thân, ai dè...

          Thiệt động viên:

          - Ai phỉnh làm chi. Phỉnh mà lại xếp mi vào đội xung kích sao.

          Cô thở dài:

          - Anh chưa biết hết nổi cực của lũ em...

          Bà mẹ tiếp:

          - Quá lắm rồi, bay ạ. Tụi lính làm tàng lắm. Chúng chặn đường lục soát, bắt cả bà già, con gái cởi trọi trơn áo quần...

          Dừng lại lấy vạt áo chấm mắt, bà nghẹn ngào:

          - Chúng bắt, chúng cướp phỉ sức. Đang đêm, chúng liệng lựu đạn vô nhà con Bảy rồi cướp hết đồ đạc. Cũng đến nước lũ tao...

          No, Nương bặm môi, nắm cứng khẩu súng trong tay. Thiệt nuốt nước miếng, cảm thấy cần cổ mình nghẹt cứng, đắng ngắt. Anh nắm tay bà mẹ:

          - Thím cứ bình tâm. Mạng của chúng nó được tính cả rồi, thím à.

          Xoay qua cô gái, anh hỏi:

          - Thằng Hương còn về quận ngủ không?

          Cô trả lời:

          - Cần gì về quận. Hắn về ngủ luôn ở An Qưới này với thằng em trai hắn. Kéo cả đĩ theo nữa. Bây giờ ở đây êm hung rồi mà!

          Thiệt chết lặng, không nói được lời nào. Anh thầm nhủ: “Thằng Hương đưa lính về hoành hoành dữ quá! Phải diệt nó, tạo thế đưa phong trào lên. Quần chúng bức xúc lắm rồi.”

*

          Thiệt nằm ngửa, nhìn như dán mắt vào nóc hầm. Bên cạnh anh, No và Nương ngủ ngon lành. Anh khe khẽ ngồi dậy, ghé mắt nhìn qua lỗ thông hơi. Trên kia trời nắng. ánh nắng hắt vào nhuộm vàng lỗ thông hơi. Tự nhiên Thiệt thấy thèm cái ánh nắng ấy quá. Anh muốn chạy ra tắm mình trong cái mầu vàng chói chang ấy cho da nóng rộp lên. Mỗi lần về An Liễu họp, anh hay đi đầu trần, phơi nắng đến vã mồ hôi. Anh bảo làm thế cho đã thèm, ở An Qưới làm gì được tự do dang nắng. Nhưng chỉ ở An Liễu ít ngày thôi, anh đã thấy nôn nao, khó chịu. Gặp ai, anh cũng hỏi: “Bà con thôn mình ra sao? Tụi thằng Hương làm gì?” Lúc ấy, anh nhớ cái hơi âm ẩm, hăng hăng của lòng hầm, nhớ những đêm gặp dân nắm tình hình, những trận tập kích vào lũ Bảo an “trài” trong xóm. Còn bây giờ, anh lại nhớ ánh nắng trên kia. Bao giờ thì anh mới được tự do sống giữa ánh nắng chan hoà ngay trên mảnh đất này!

          Thiệt ngồi lặng thinh, lắng nghe các tiếng động trên mặt đất. Tiếng mấy đứa bé gọi nhau, tiếng chày giã gạo, tiếng chân chạy thình thịch... Khi vọng vào lòng hầm, tất cả đều biến dạng đi, nghe thật xa xôi. Những tiếng động ấy thân thương quá, cứ muốn kéo Thiệt trồi lên. Bỗng dưng, Thiệt thấy nhớ da diết đủ thứ, như người đi xa nhớ quê vậy. Nằm dưới này mà Thiệt nhớ cả ngôi nhà của ông già Phu ngay trên kia, cả dáng đi lụm cụm của bà già, tiếng nói líu lo của thằng bé Hà. Rồi nhớ vợ, nhớ con. Gần nửa năm nay, Thiệt chưa ghé về thăm nhà lần nào. Nhà anh ở sát chốt địch. Ngày Thiệt ra đi, cũng là ngày vợ anh bị thằng Hương đánh một trận liệt giường.

          Hồi ấy, sau mấy năm chui lủi trốn lính, Thiệt để râu dài, sống hợp pháp. Dành dụm tiền mua được cái giấy khai sinh giả, anh tính dựa vào đó ở nhà làm ăn, nuôi vợ con. Nhưng nào có được yên. Thằng Hương kêu anh lên hỏi:

          - Anh bao nhiêu tuổi?

          - Tôi 49.

          Nó nhếch mép nhe cái răng vàng, cười khẩy:

          - Khai luôn 50 cho tròn chớ!

          - Tôi sinh sao nói vậy, khai thêm một tuổi sợ e mang tội với ông bà.

          - Vâỵ hả? - Thằng Hương xô tới núm đầu anh, vặt râu. Nó nhìn trừng trừng vào mắt anh, dằn từng tiếng một:

          - Tóc còn đen. Răng còn chắc. Nhận lấy 37 tuổi và nghe đây: Cộng hoà, Bảo an, Nghĩa quân - ba sắc lính - lựa lấy một mà nhận súng.

          Nó tống giam anh. Sau đó, chính nó lại đến, ra chiều thương hại:

          - Nghĩ anh vợ dại, con thơ cũng tội nghiệp. Vào Nghĩa quân nghe. Giữ chốt tại đây thôi, khỏi phải đi đâu xa. Nếu không ưng ở chốt thì cùng đi với tôi, càng hay.

          Thiệt giả bộ ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:

          - Tôi cũng sợ phải đi xa nên không vào lính thôi ông à. Vào nghĩa quân được ở tại chỗ thiệt sao ông?

          - Bộ tôi phỉnh anh sao! Đóng tại đây, giữ an ninh quốc gia, lương tháng 11 ngàn, muốn nhậu có nhậu, muốn gái có gái, sướng không? Thằng Hương cười ngất ngưởng, thả Thiệt về.

          Tới nhà, Thiệt nói với vợ:

          - Vậy đó, mình lựa cho tôi đi: Một, theo thằng Hương - có lương, có xe. Hai, theo “mấy ổng” - không có lương, phải nuôi, cực.

          Vợ anh ngậm ngùi:

          - Thôi, anh đi đi. Cực ráng chịu cực, tui nuôi. Đi theo "mấy ổng” đi.

          Sau đêm đó, Thiệt đi. Thằng Hương lôi vợ anh lên đánh đập suốt một ngày. Chị mới sinh cháu thứ hai. Nó đánh đùi đụi vào bụng chị. Chị nằm mê man, máu chảy đầm đìa, phải nhờ bà con khiêng về.

          Nghĩ đến thằng Hương, Thiệt thấy máu muốn sôi lên. Từ ngày làm ấp trưởng, bàn tay nó đã nhuốm biết bao máu đồng bào thôn anh. Bữa nay, anh nằm dưới lòng đất này chờ diệt nó. Liệu nó có đến như dự đoán không?

          Lỗ thông hơi mỗi lúc một vàng rực lên. Chắc ở trên kia nắng gắt lắm. Người Thiệt nóng hầm hập. Anh kéo tà áo lau mồ hôi rồi nằm xuống. Nền đất áp vào lưng anh nghe mát rượi. Mảnh đất này sao gắn bó với đời anh thế. Đi du kích những năm còn đen tối, phải ở núi, anh cứ đau đáu ngóng về đây. Rồi giải phóng được An Liễu, An Tân, đội du kích xuống ở đồng. Nỗi thương nhớ quê hương càng day dứt lòng anh. Anh xin về đứng chân ở An Qưới. Xã đồng ý, cử anh về xây dựng và phụ trách luôn đội du kích thôn. Từ đó đến nay bao cay đắng, ngọt bùi...

          Những tiếng động lao xao trên mặt đất cắt đứt dòng suy nghĩ của Thiệt. Anh nhổm dậy, lắng nghe rồi đập đập vào chân hai bạn:

          - Dậy! Dậy!

          No và Nương chồm lên, quơ lấy súng. Thiệt bảo:

          - Từ từ, mới chuẩn bị thôi. Chú ý nghe!

          Có nhiều bước chân rậm rịch trên mặt đất. Mấy tiếng hô, hét gì đó. Tiếng bà Phu rành rọt:

          - Chào ông ấp trưởng!

          Những tiếng nói chen lấn nhau, râm ran, nghe không rõ ràng gì cả. Nhộn nhạo một lúc rồi lặng đi. Tiếng thằng Hương hoạnh hoẹ:

          - Bà già, bữa nay đãi ông nào mà dọn ăn sang vầy?

          Tiếng bà Phu nghèn nghẹn:

          - Đãi chác gì, ông. Bữa nay giỗ hai con dâu với tám cháu nội tui.

          Một chuỗi cười rộ lên. Vẫn tiếng thằng Hương:

          - Cha cha, đông dữ hè. Hai con dâu, tám cháu nội, trọn hai mâm rồi. Còn chỗ cho lũ này ngồi “chia buồn” với không?

          - Dạ, mời ông...

          Tiếng bà Phu cất lên cao hơn:

          - Ông ơi, còn chai rượu, đem ra mời ông ấp trưởng với mấy ông đây!

          Hàng chuỗi cười khả ố tuôn ra. Tiếng kéo bàn, ghế lục cục. Lại tiếng thằng Hương:

          - Bà già, giã nếp rồi chớ?

          - Dạ, ông cứ ngồi ăn. Tôi lấy nếp lên liền bây giờ.

          Im lặng. Có tiếng bước chân nhè nhẹ mà gấp gáp trên mặt đất. Ba tiếng gõ bồm bộp trên nóc hầm. Thiệt nói nhỏ:

          - Triển khai!

          Ba người ôm gọn ba khẩu AK báng gấp, ngồi chồm hổm, chờ.

          Một luồng ánh sáng ập xuống hầm, kéo theo những hạt cát thoang thoáng như mưa bụi. Thiệt trồi lên. Bà Phu thì thào:

          - Đang ăn. Có hai thằng gác ngoài ngõ.

          Từ sau bếp, ba người chia ba cánh chạy lên nhà. Bà Phu ngồi lại, nghi trang công sự.

          Đang gặm miếng đùi gà, thằng Hương bật dậy như bị gai chích. Mắt nó trợn trừng. Miếng đùi gà rớt xuống đất. Miệng nó há hốc, nhểu rãi thành một vệt dài.

          Thiệt quát:

          - Ngồi im hết!

          Thằng Hương quơ tay qua bên hông. “Đoành” - một phát AK nổ đanh. Nó gục xuống bàn.

          Bọn lính đảo mắt nhìn quanh. Hai cửa bên có hai họng súng chĩa vào. Chúng xô bàn ghế, ùa ra cửa trước. Tiếng AK nổ ròn rã đuổi theo.

          Ông già Phu vẫn ngồi trong nhà, ghé mắt nhìn ra cửa sổ. Ông cười ha hả: “Trúng ý ta rồi!”. Chạy ra khỏi ngõ, bọn lính lấn nhau nhảy xuống con mương cạn dẫn về phía Đông. “Có vậy chớ!” - ông già lẩm bẩm và chập hai đầu dây điện ở tay lại. “m!” - quả mìn nổ vang, khói bụi tung lên mù mịt cả khúc mương...

          Thiệt lật xác thằng Hương lên, nhìn hồi lâu vào mặt nó. Bà Phu bảo anh:

          - Bữa nay không trật đâu con. Bay lấy súng rồi rút mau. Để đó tao liệu hết.

          Ba người luồn ra sau vườn, men theo hàng dừa, chạy. Vẫn chưa nghe địch  phản ứng. Chẳng hiểu No có chuyện gì, cứ cười hinh hích phía sau lưng Thiệt. Mãi đến khi chạy tới bờ tre dọc con mương lớn, rúc xuống công sự rồi, cậu ta mới giải thích:

          - Ngực thằng Hương vẽ một đứa con gái ở truồng, ngó đến tức cười. Giống hệt lũ lính Mỹ...

 

          *

 

          Sau khi thằng Hương bị diệt, bọn địch co lại, không dám hoành hành như trước nữa. Cũng lúc ấy, chiến dịch Xuân - Hè mở màn. Tin chiến thắng từ các nơi dồn dập đưa về, làm náo nức lòng người. Trong buổi lễ xuất quân, đồng chí Bí thư xã uỷ nói:

          - Tình hình đang phát triển hết sức thuận lợi. Hoài Ân đã được giải phóng hoàn toàn. Tuyến phòng thủ của địch ở Tam Quan đã bị đập vỡ. Quân ta đang bao vây Đệ Đức. Bọn Đồi Mười cũng đã kéo pháo rút chạy. Bây giờ chính là lúc chúng ta phải đẩy mạnh tấn công và nổi dậy, giải phóng toàn bộ quê hương.

          Tan lễ thì đã khuya. Thiệt và Thảo đưa hai đội du kích đi chuẩn bị làm nhiệm vụ. Đội của Thảo sẽ giữ chốt này, dùng hoả lực khống chế, hỗ trợ cho đồng bào bao vây chốt An Sơn.

          Hai đội du kích kéo nhau tới trước sân nhà bà Phu, chờ giờ xuất phát. Cái oi bức của ngày hè đã dịu bớt. Hơi sương thấm vào da man mát. Những người du kích ngồi túm tụm bên nhau, trò truyện. No hỏi Thiệt:

          - Anh tính ngày mai xã ta đã được giải phóng chưa?

          Thiệt đáp:

          - Ngày mai e hơi gấp. Nhưng dứt khoát đợt này xã ta sẽ được giải phóng.

          Nương phấn chấn:

          - Giải phóng toàn xã, toàn huyện ấy chớ. Đồng chí Bí thơ chẳng đã nói phải giải phóng toàn bộ quê hương là gì?

          Anh hạ thấp giọng, nói riêng với Thiệt:

          - Quét sạch bọn chó chết này rồi, tôi nghỉ ít ngày về lợp lại cái nhà cho ông già, có can chi không anh? Pháo nó “lượm” mất một mái, cứ để trống vậy hoài.

          Thiệt cười:

          - Được chớ mắc chi. Mình sẽ giúp một tay.

          Thấy một bóng người đi vào, Thảo hỏi:

          - Ai đó?

          - Em, em đây! - Tiếng một cô gái đáp lại.

          Toán du kích nhao nhao:

          - Mệnh đó hử? Vô đây, vô đây!

          Thảo hỏi hơi xẵng:

          - Cô Mệnh đã chuẩn bị cho tổ cứu thương xong chưa?

          Mệnh ấp úng:

          - Dạ xong... Anh Thảo...

          Toán du kích cười rộ lên:

          - Kìa anh Thảo, ra tâm sự chớ!

          Mệnh là y tá của lực lượng du kích xã. Cô có khuôn mặt bầu bầu hiền hậu, nước da trắng hồng. Hàng ngày anh em hay cắp đôi cô với Thảo. Nhưng chưa bao giờ hai người gặp riêng nhau. Vậy mà đêm nay cô đến tìm Thảo. Không, có lẽ không phải cô chỉ đến tìm Thảo, mà còn đến với đội du kích nữa. Trong cái đêm trước khi anh em ra trận này, Mệnh bỗng dưng cảm thấy trong lòng dào dạt những cảm xúc thật mới mẻ. Cũng những con người mà cô gặp hàng ngày đến thuộc cả từ dáng đi đến tính nết ấy, vậy mà hôm nay cô bỗng thấy muốn gặp họ lạ lùng, như đã xa nhau lâu lắm vậy. Nghe anh em cười, Mệnh lúng túng, không dám bước tới nữa. Thảo lại gần Mệnh, hỏi:

          - Gì đó, Mệnh?

          - Dạ không. Đêm nay mình đánh chốt...

          - ừ...

          Mệnh cúi đầu, lặng thinh. Chợt cô móc túi lấy ve dầu măng, dúi vào tay Thảo:

          - Sớm... sương lạnh. Anh... mấy anh xức cho nóng!

          Rồi cô vụt chạy đi.

          Thảo chớp chớp mắt, ngỡ ngàng. Mồ côi từ nhỏ, anh chưa bao giờ được nhận một cử chỉ âu yếm.

          Anh em du kích cười khúc khích. Một cậu giọng ồm ồm nói với Thảo:

          - Giải phóng xong quê hương, về cưới vợ nghe anh Thảo.

          Thảo vẫn đứng lặng, không nói gì. Ve dầu ấm dần trong tay Thảo.

*

          Thiệt ngồi dậy, vặn mình kêu rôm rốp. Thằng Hà nhổm dậy theo, hỏi:

          - Chú Bốn không ngủ na?

          - Chú ngủ đã rồi. Mi ngủ đi.

          Thằng bé nằm xuống.

          Thiệt xuống giường, ra dựa cửa, ngóng về hướng Đông Nam. Thằng Hà lồm cồm bò dậy, tới bên anh. Nó giật áo Thiệt hỏi:

          - Đêm nay oánh hả chú?

          - Con nít hỏi làm gì. Đi ngủ đi!

          Thằng Hà không chịu, níu trễ áo anh xuống, nói:

          - Cháu biết rồi. Đêm nay mấy chú oánh. Cháu thấy chú Thảo với mấy chú bôi lọ nghẹ đen thui, đeo giỏ đạn đó.

          Thiệt xoa đầu nó:

          - ừ, thôi, đi ngủ đi.

          Thiệt thầm nghĩ: “Thằng nhỏ ranh thiệt. Nó giống rặt ri thằng nhỏ nhà mình”. Anh đứng lặng im, để mặc thằng Hà ôm cứng chân mình. Anh cúi nhìn chiếc đồng hồ dạ quang: 4 giờ kém 2 phút. Cùng lúc ấy, súng nổ rộ lên ở phía chốt An Qưới. Thiệt nhíu mày: “Đánh sớm mất 2 phút. Lộ chăng?”

          Thằng Hà nhảy lên, reo:

          - Oánh rồi!

          - Vô hầm. Pháo nó dện bây giờ! - Thiệt quát.

          Thằng Hà im xo.

          Thiệt mở trân mắt, lắng nghe. Dường như qua tiếng nổ, anh có thể thấy rõ diễn biến của trận đánh trong chốt kia.

          - Đùng! Đùng! Đùng!... - Thủ pháo nổ dắt dây. Thiệt gật đầu: “Được, nhanh lắm, áp vào lô cốt rồi!”

          - Chụp... Đoành! Chụp... Đoành!... - Thiệt bặm môi: “Thằng M.79 chó chết!”.

          - Tằng! Tằng! Tằng!... - Một loạt AK. Tiếng M.79 tắt ngấm. Thiệt cười: “Vậy chứ !”.

          - Đùng! Đùng! Đùng! - Lại thủ pháo. Thiệt phấn khởi: “Cứ vậy, cứ vậy, vô sâu rồi!”

          - Tành tành tành!... Tành tành tành!... Thiệt dướn thẳng người về phía trước, lo lắng: “Thằng lô cốt trung tâm. Cây đại liên khốn kiếp!”

          Im lặng một lúc. Thoảng nghe có tiếng la hét vọng đến. Thiệt cúi nhìn đồng hồ: 15 phút rồi. Đánh mật tập mà lâu như vậy, sao tránh khỏi thương vong. Nghe những hơi thở hổn hển phía sau, Thiệt quay lại: Ông, bà Phu đã đứng sát lưng anh tự bao giờ, đang dướn cổ nhìn về phía chốt An Qưới. Như chợt sực tỉnh, bà Phu kêu to:

          - ủa, thanh viện đi chớ, im khô vầy sao?

          Bà chạy đến căn hầm bên góc sân, lật đống lá mía, lấy ra một chiếc chuông đồng. Bà dang tay gõ. Tiếng chuông vang lên lảnh lót. Ông Phu nắm chặt một khúc gỗ, chạy đến gõ liên hồi vào chiếc thùng phuy nằm cạnh đống rơm. Tiếng thùng thùm thùm âm vang như tiếng trống trận. Bà Phu vừa gõ chuông vừa chạy ra ngõ. Bà la: “Tới sát chốt gõ cho nó sảng hồn”.

          Thằng Hà cũng cuống quýt rúc xuống gầm giường lấy ra một cặp phèng la nho nhỏ. Nó muốn chạy theo bà, nhưng lại muốn đứng gần Thiệt để hỏi về trận đánh nên cứ nhảy choi choi bên cạnh anh, đập phèng la lia lịa.

          Thiệt lắng tai nhưng không thể nghe rõ tiếng súng nữa - nó đã bị chìm lẫn trong những tiếng động dữ dội của thanh la, trống, mõ, thùng thảng... từ khắp các ngõ ngách trong thôn An Qưới và các thôn lân cận dội lên.

          - Oành! - Một tiếng nổ lớn như cố sức vượt lên khỏi mớ âm thanh hỗn độn kia, vang lên giữa không trung.

          Thiệt cúi xuống xốc thằng Hà lên, cười ha hả: “Đó, B.40 đó. Đại liên câm rồi”. Thằng nhỏ đập phèng la mạnh hơn, reo: “Hoan hô B.40! B.40!”. Nó ghé sát vào tai Thiệt: “Chú Thảo bắn hả chú? Chú Thảo đó, cháu biết!”.

          Thiệt thả thằng Hà xuống: “Cứ thanh viện nữa đi cháu”. Lúc ấy, Mệnh chạy đến, hỏi cuống quýt:

          - Anh Bốn, bây giờ làm sao? Làm sao, anh?

          - Chắc có thương. Sắp sẵn đồ sơ phẫu. Kêu tổ chuyển thương đi ngay!

          - Dạ! - Mệnh chạy vụt đi. Trong ánh sớm mai nhàn nhạt, Thiệt thấy đôi môi cô méo xệch đi một cách lạ lùng.

          Quay lại, Thiệt đã thấy anh em trong đội của mình vác súng đạn đứng quanh. Anh nói to:

          - Nào, ta lên chốt.

*

          Thiệt ngồi trên đỉnh chốt An Qưới, nhìn chăm chăm vào chiếc lô cốt trung tâm. Nó bị quả B.40 của Thảo bắn hồi hôm sập một nửa. Vậy mà Thảo hy sinh rồi. Thiệt thấy tim mình nhói buốt. Khuôn mặt trẻ trung của Thảo với vết đạn sâu hun hút nơi gò má bên phải cứ hiện rõ mồn một trước mắt anh. Còn tiếng khóc của Mệnh nữa, sao nó day dứt tâm can con người đến thế. Thiệt vỗ vỗ vào nòng khẩu cối 60, nói thầm thì như tâm sự với nó: “Bữa nay lại được nhả đạn rồi. Rớt cho trúng, trả thù cho Thảo, nghe!”. Khẩu cối này anh thu được trong trận chống càn hồi năm 1969. Nó chỉ còn trọi lỏi cái nòng. Thiệt đã lắp cho nó cái càng sắt như càng đại liên. Tuy không có thước ngắm, chỉ bắn ước lượng thôi, Thiệt và Nương vẫn bắn rất chính xác. Thiệt đứng dậy, xếp mấy bao cát thành bệ rồi đặt khẩu cối lên. Nương lễ mễ khuân lên một thùng đạn. Anh cười hể hả:

          - Lũ Bảo an này cấp cho mình nhiều đạn lắm. Trong kho còn nữa. Tha hồ mà “lô tô”!

          Thiệt cũng cười:

          - ở đây cao, đấm vào đầu thằng An Sơn thiệt đã đời.

          Anh lúi húi chỉnh nòng khẩu cối rồi hỏi Nương:

          - Cậu ngó xem được chưa?

          Nương lùi ra xa, ngắm nghía, gật đầu:

          - Được! “Lô tô” ngon rồi đó!

          Thiệt gọi xuống tổ công binh bố trí ở lưng chừng chốt:

          - Chính ơi, bom phóng sẵn sàng chưa?

          - Rồi! - Một tiếng đáp gọn lỏn.

          Một cô gái chạy băng băng lên chốt:

          - Chú Bốn! Chú Bốn!

          Thiệt nheo mắt:

          - Đào hả? Thế nào?

          Đào đưa anh lá thư. Anh mở ra đọc từng chữ: “Quần chúng đã ém sát chốt. Địch bắn ra, bị thương chị Hai. Bắn cảnh cáo 3 quả”.

          Thiệt bảo:

          - Cháu về đi. Tinh fhình thế nào lên báo liền nghe!

          Quay sang Nương, anh nói:

          - “Lô tô”! Nào “lô tô”!

          Nương thả một quả đạn vào nòng cối. “Cạch... Đùng!” - Nòng cối giật nảy lên. Quả đạn nổ tung giữa lớp rào cuối cùng của chốt An Sơn. Nương hô:

          - Ra xa một chút!

          Thiệt đẩy đôi càng sắt, chỉnh cho nòng cối ngóc lên cao một chút.

          - Thả! - Thiệt hô.

          - Cạch... Đùng!

          - Nổ trước cổng. A, bọn chúng chạy vô! - Nương reo.

          - Thả!

          - Cạch... Đùng!

          - Ngon hung. Lọt giữa chốt rồi.

          Lát sau, phía chốt An Sơn rộ lên những tràng đại liên, có tiếng M.79 xen vào điểm nhịp. Thiệt nhấp nha nhấp nhổm. Nương chỉ tay xuống chốt:

          - Kìa, bà con ào lên lại dạt trở lại. Chúng bắn dữ ác!

          Lúc ấy, Đào vừa chạy đến, đưa Thiệt lá thư nữa. Thiệt đọc to: “Địch vẫn ngoan cố. Chị Tám hy sinh. Cối cấp tập. Địch phản ứng thì phóng bom!”.

          - Nào! “Lô tô” tiếp!

          Thiệt vừa nói xong, Nương đã thả một quả đạn. Nòng cối nhảy nhổm, phụt khói. Quả đạn nổ tung giữa chốt An Sơn.

          - Thả!

          - Cạch... Đùng!

          - Thả!

          - Cạch... Đùng!

          Nòng cối nhảy chồm chồm. Những quả đạn thi nhau lao đi, nổ tum tum giữa chốt địch. Khói toả từ nóng cối ra quện thành một khối đen đặc phủ kín hai người. Thiệt bặm môi, đạp chân vào bao cát, giữ cho chân nòng cối khỏi bật tung ra ngoài. Nương reo to:

          - Ngon lắm! Chụm lắm!

          Bỗng “Hự!’ - Nương ngã vật xuống.

          Thiệt giật mình, quay sang. Lúc ấy, anh mới thấy những luồng đạn đại liên đang cắt chiu chiu trên đầu. Mắt Nương đã dại đi. Anh nói đứt đoạn:

          - Đại liên... Nóc... Lô cốt!

          Và Nương tắt thở.

          Thiệt buông Nương, nhổm dậy, gầm lên:

          - Công binh!

          - Có!

          - Phóng bom! Hai quả!

          - Rõ!

          Sau tiếng đáp, phía rìa chốt loé lên hai ánh chớp, kèm theo hai tiếng nổ lớn rung cả mặt chốt. Hai quả bom lao đi, trông rõ mồn một, cái đuôi ngúc ngoắc, ngúc ngoắc.

          Chốt An Sơn chìm trong tiếng nổ vang rền và trong hai cột khói hình nấm đen xì.

          Thiệt đứng vươn mình nhìn xuống chốt An Sơn. Anh thấy rõ từ chân chốt, đồng bào đang kéo lên ào ào như triều dâng. Anh gạt mồ hôi trán, nói trong bụng: “Thảo, Nương ơi, cái mùa mà bọn mình trông đợi đã đến rồi. Trời, nó đến mới mạnh mẽ làm sao!”...

 

                             Trà Mi - Mùa xuân 1975

 

 

ĐƯỜNG XƯA, ĐƯỜNG NAY

 

 

          Khi cánh cửa bật mở, Cam sững người lại, rồi reo lên: “Anh Hoài”, xong lại đứng lặng, nghẹn ngào. Hoài cũng sững sờ. Cảm nhận đầu tiên của anh là Cam tiều tuỵ quá. Trời, khuôn mặt có đôi mắt trũng sâu, cái nhìn thảng thốt, nước da xanh mái kia là Cam đó ư? Những ngày ở rừng, sốt rét, thiếu thốn là vậy, mà có khi nào Cam thiểu não tới mức này đâu. Đâu rồi một cô Cam lẳn mình trẵm, da trắng hồng, nổi tiếng toàn quân khu về tài bơi lội và gùi cũng leo núi.

          - Chết, vô nhà đi anh, đưa ba lô em đỡ cho !

          Cam đã nén lại xúc động, kéo Hoài vào nhà, đỡ chiếc ba lô nặng trịch của anh xuống.

          Đứng thẳng người, nhìn bao quát căn phòng một lượt, Hoài hỏi:

          - Sao nhà vắng teo thế này, em ?

          Cam trả lời:

          - Hai bà cháu mới qua nhà bên chơi.

          - Thế còn Sơn ?

          - Anh ấy...

          Mới nói tới đó, Cam đã nghẹn nghào.

          - Sơn đâu ?

          - Dạ, anh ấy đi viện rồi !

          - Đi viện ! ốm à ?

          - Dạ, đi viện...

          - ốm đau thế nào, có nặng lắm không ?

          - ...

          Chợt nhận ra Cam bặm môi, nước mắt lưng tròng, Hoài không hỏi nữa. Có lẽ việc Sơn đi viện có gì nặng nề lắm đây, nên Cam mới nghẹn ngào vậy.

          Hoài quê ở vùng quê lụa Hà Tây. Năm 1968, sau tết Mậu Thân, Hoài cùng đoàn cán bộ giáo dục vào chiến trường khu Năm công tác. Lúc ấy, Cam cũng mới ở đồng bằng lên. Hai người cùng được phân công về Ban Giáo dục Khu. Tình hình chiến trường không phát triển thuận lợi như ta dự đoán. Địch điên cuồng phản kích, đánh cả lên căn cứ của ta. Lớp cán bộ mới bổ sung cho chiến trường không được toả xuống đồng bằng, mà phải cụm lại hết trên Khu. Vì vậy, thay cho việc giảng dạy là việc gùi cõng, sản xuất. Cam không thể quên cái mùa mưa năm 1968 dữ dội ấy. Cơ quan phải di chuyển liên miên, đói quay đói quắt. Những trận sốt rét khủng khiếp thi nhau vùi dập, làm Cam muốn gục luôn. Nhưng nhờ có anh em, nhất là Hoài, Cam đã gượng dậy được. Hoài thích nghi với chiến trường nhanh thật. Vốn nhà nông, quen rèn luyện, anh lướt qua những trận sốt rét một cáh nhẹ nhàng, còn sản xuất, gùi cõng thì “giỏi một cây”. Hoài đã dành cho Cam từng viên ký ninh, từng viên B1 đem từ miền Bắc vào, từng phong lương khô hiếm hoi. Và, quan trọng nhất là, với niềm lạc quan lạ kỳ, anh luôn luôn vực cô lên mỗi khi cô muốn ngã dụi xuống.

*

          Có lẽ đã gần 10 giờ khuya rồi. Trời dịu hẳn lại. Những tiếng rồ của ô tô, xe máy từ ngoài phố vọng vào đã thưa thớt dần. Cái vườn nhỏ sau nhà Cam được chiếu bằng một ngọn đèn nê ông sáng dìu dịu. Cây hồng xiêm, cây vú sữa khẽ xào xạc trong gió. Trong nhà, hai bà cháu Lâm đã ôm nhau ngủ từ khi nào. Cam và Hoài vẫn ngồi nói chuyện với nhau trên hai cái ghế mây kê dưới gốc cây hồng xiêm. Gần năm năm xa cách, họ có bao nhiêu chuyện muốn nói với nhau. Sau giải phóng tháng 3 năm 75, cả Khu bộ rời xuống Đà Nẵng. Rồi giải thể Khu, cán bộ được chia đi khắp 6 tỉnh miền Trung. Sơn và Cam đều được cử đi học văn hoá tại trường bổ túc tập trung của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Hoài, sau một thời gian ra Hà Nội, trở về Ty Giáo dục, rồi xung phong lên vùng căn cứ cũ Làng Xe với nghề thầy giáo. Không phải vì ở quê anh không còn ai thân thích: vợ con, cha mẹ, anh chị em của anh đều còn mạnh khoẻ. Điều thôi thúc anh lại lên rừng, là niềm day dứt với nạn thiếu học của đồng bào dân tộc mà anh từng gắn bó trong suốt gần chục năm kháng chiến. Dạo ấy, về sản xuất ở nóc Bà Bốn, anh đã mở một lớp học cho các em nhỏ người Cadong, dạy từ vỡ lòng lên lớp một. Các em tỏ ra thông minh và ham học đến kỳ lạ. Nhưng rồi cơ quan lại di chuyển, lớp học tan. Từ đó, Hoài luôn luôn ấp ủ một mơ ước: được thấy các em vùng căn cứ đến trường.

          Cam và Hoài mải mê nói đủ thứ chuyện, mà hầu hết là chuyện về những ngày ở căn cứ. Với Cam, đó là những kỷ niệm thật thiêng liêng, nhưng hơi xa xôi. Còn với Hoài, đó là những kỷ niệm biết mấy ấm áp, thấm đẫm tình người, nhưng lại bình dị và gần gũi, bởi vì những ngày anh đang sống đây chính là sự tiếp nối của cuộc sống tốt đẹp ấy, và anh cũng đang xây tiếp những kỷ niệm tương tự.

          Cam đột nhiên lặng đi một lúc, nhìn đăm đăm vào Hoài rồi hỏi:

          - Anh còn tin yêu anh Sơn em không ?

          - Sao em hỏi là vậy ?

          - Không, không lạ đâu anh, nếu anh biết anh Sơn em đã biến đổi như thế nào. Anh ạ, sau khi học hết cấp hai bổ túc văn hoá, em đi học lớp y sĩ, anh Sơn đi học lớp tài chính ngắn hạn. Thời gian em còn học thì anh Sơn đã về công tác ở phòng Tài chính quận. Em học ở Hội An, anh ấy học ở Đà Nẵng, cả hai đều sống tập thể. Cháu Lâm thì anh Sơn đưa về bà nội. Ăn ở tập thể, học lại rất căng, vất vả lắm, nhưng cứ nghĩ rằng còn sướng hơn nhiều hồi ở căn cứ, em lại vượt qua. Lần hồi, em tốt nghiệp. Ngày đón em về Đà Nẵng, anh Sơn đã dành cho em một điều bất ngờ: căn nhà này đây. Chờ em ở nhà đã có cháu Lâm và bà. Có lẽ không muốn để em phải thắc mắc, anh Sơn giải thích: “Má bán hết nhà, vườn ở quê, lên ở với tụi mình. Má cho tiền mua nhà đó”. Em ngỡ ngàng nhìn căn phòng với đầy đủ tiện nghi: quạt trần, quạt bàn, tủ lạnh, ti vi, cát xét, Hon đa... Sang quá, chưa bao giờ em mơ tới một sự sung túc như vậy.

          Em đã được sống trong những ngày đầy đủ và an nhàn: cháu đã có bà trông, cơm nước bà lo, em chỉ việc ngày ngày đến bệnh viện làm việc. Dần dần, nó đã trở thành nếp sống quen thuộc của em, tạo cho em niềm tin rằng chúng em đã có một cuộc sống hạnh phúc vững bền.

          Cho đến một hôm em ra chợ. Nhà gần chợ Cồn nên má thường mua đồ ăn ở đây. Nhưng hôm ấy, lĩnh tiền bồi dưỡng làm thêm giờ, tiện đường em ghé vô chợ Hàn mua ít trái cây và ít đồ về ăn tươi. Đi qua một sạp bán hàng tạp phẩm, tình cờ em nghe bà bán hàng nói với người bên cạnh:

          - Thằng Sơn trời đánh đó !

          Nghe nói đến anh Sơn, em giật mình. Theo ánh mắt bà, em nhìn về phía cửa chợ thì thấy đúng là anh Sơn đang đi vô. Cái dáng thấp đậm với mái tóc xoà trước trán của anh ấy đâu dễ trộn lẫn với ai. Vô chợ rồi, anh ấy rẽ trái, đi về phía mấy sạp hàng khô.

          - Đi thu thuế đấy, đồ quỷ !

          Bà bán tạp phẩm lẩm bẩm, khuôn mặt bự thịt rung rung, ánh mắt quắc lên đầy vẻ giận dữ. Bà bạn bà ta bảo:

          - Ông ấy là tiên là phật giúp ta, chớ sao bảo là quỷ ?

          Bà bán tạp phẩm cười khẩy:

          - Tiên phật cũng đúng, mà quỷ dữ cũng chẳng sai!

          Em đứng chết trân, nghe hai bà bình phẩm về chồng mình. Không biết điều đó, bà bán tạp phẩm vẫn nói giận dữ:

          - Tôi nói đâu có sai: tiên phật, vì ông ấy giúp mình khai bớt thuế, bớt nạp tiền cho nhà nước. Nhưng quỷ, vì ông ấy lại bắt mình nạp tiền cho ông ấy, lại còn nay cây thuốc, mai ký bột ngọt, cũng quá tội.

          Như để chứng minh cho lời nói của mình, bà bán tạp phẩm chỉ tay về phía quầy hàng gần khúc quẹo, vừa lúc anh Sơn tới đó - chủ quầy là một cô gái tóc hớt ngắn. Vừa thấy Sơn, cô ta đã toe toét cười:

          - Anh Hai mạnh giỏi luôn chớ ? Anh Hai ngồi chơi, em kêu cà phê nghen!

          Sơn lắc đầu: “Khỏi” và hất hàm “Đâu ?”

          Cô gái ỏn ẻn cười, kéo cái xắc ở dưới quầy lên, lôi ra một xấp tiền: “Có ngay. 15 sạp ở lô này đã gom đủ, anh Hai à !”

          Sơn đếm nhanh xấp tiền, rồi dằn giọng: “Sao ít vậy? Quý này lô của cô xuất nhập thêm cả tạ bột ngọt, phải nạp thêm 500 nữa!”

          Cô gái thoáng một nét cau mày, nhưng lại nhoẻn cười ngay, móc thêm một xấp tiền đưa Sơn.

          - Đó, bà xem, quỷ dữ hiện hình đó !

          Lời nói của bà bán tạp phẩm như một trái pháo nổ ngay bên tai em. Em xây xẩm mặt mày, cố vịn vào quầy hàng, lần ra ngoài. Em cố tránh không giáp mặt anh Sơn.

          Ra khỏi chợ, em đi lang thang như kẻ mất hồn. Chiếc xe đạp gửi, em cũng quên lấy. Bạch Đằng, Lê Lợi, Hùng Vương... Em đã đi qua bao nhiêu phố cũng không biết nữa. Em bước đi chơi vơi, như lần bị bom B.52 chết hụt ở Nước Lon ấy. Về tới nhà lúc nào em cũng không hay. Em ngã vật xuống giường, khóc tức tưởi. Má anh Sơn hốt hoảng lay em: “Sao vậy con, đau à? Hay là mất xe đạp?”. Em nén khóc, bảo má: “Con không sao hết, má để mặc con!”

          Qua cơn khóc, em nằm rũ ra. Không hiểu sao lúc ấy, em sợ gặp anh Sơn thế. “Thôi, anh đi đi, đừng về nữa, đi mà thu các thứ thuế của riêng anh”. Em nhìn khắp nhà: những thứ này có thật được mua bằng tiền bán nhà của má, hay là do tiền làm ăn bất chính của Sơn? Còn những bữa ăn luôn luôn đủ thịt cá, những bao thuốc ba số luôn có trong túi của Sơn nữa. Sao em vô tâm thế.

          Rồi Sơn cũng về. Em nghe tiếng anh ấy gọi má: “Má đem con gà rô ti này vô bếp chặt ra làm bữa nhậu nghe má!”. Em thấy tởm lợm muốn ói ra. Anh Sơn đến bên giường, ngồi xuống, lay em: “Dậy, dậy, hôm nay lãnh tiền thưởng, anh mua quà cho em đây!”. Em bật dậy, trừng mắt nhìn anh ấy: “Thưởng à? Bọn gian thương thưởng cho anh à?” Sơn tròn mắt nhìn em hồi lâu, mặt thần ra. Rồi anh ấy gật đầu: “Em biết rồi à? Vậy đó, có gì ghê gớm đâu!”. Giọng anh mới bình thản làm sao. Tự nhiên, bao nỗi tức tối muốn bung ra thành trận xô xát với Sơn biến đi hết. Em thấy người bàng hoàng, yếu đuối như sau một trận sốt rét ác tính. Em thở dài, rồi khóc: “Anh làm vầy, em sống sao  nổi!”.

          Tính ôn hoà của Sơn làm em mau nguôi. Anh biết tính Sơn rồi đó: không gay gắt với ai bao giờ, ai chỉ trích cũng chỉ cười xoà, ai phê bình thì mau mắn nhận khuyết điểm, chân thành hứa sửa chữa. Với em, anh ấy cũng vậy. Mỗi lần bực bội, em ngầy la, anh chỉ cười: “Anh biết lỗi rồi, em đừng cáu gắt thêm mệt người”. Em có ngờ đâu ưu điểm ấy cũng kéo theo nhược điểm lớn của anh: mau nhận khuyết điểm, nhưng không nghiêm khắc tự sửa khuyết điểm. Lần này, anh ấy thanh minh: “Có gì ghê gớm đâu em. Giúp họ lập biểu thuế, rồi họ bồi dưỡng cho. Có làm có hưởng mà”. Em truy: “Giúp họ lập biểu hay mách nước cho họ trốn thuế nhà nước?”. Anh ngẩn mặt ra, rồi lại cười: “Đâu có, giúp họ thiệt đó mà. Nhưng thôi, anh sẽ dẹp cái vụ này, em tin anh đi”.

          Những chuyện ấy, trong thư gửi anh, em không nói. Em không muốn rằng ở xa, ở nơi cực khổ, anh lại phải lo cho chúng em. Nhất là, chính anh đã nhiệt tình vun đắp cho chúng em nên vợ nên chồng, em càng không muốn anh buồn. Vả lại, tưởng câu chuyện chỉ đến đó. Nào ngờ, anh Sơn càng đi sâu hơn vào sai lầm.

          ít lâu sau, Sơn báo cho em một tin: anh ấy chuyển về trạm thuế ngã ba Cây Sanh. Em buồn lắm. Thế là vợ chồng phải xa nhau. Những năm ở căn cứ, tiếng là gian khổ, ác liệt, nhưng em với Sơn cứ như đôi sam, có khi nào phải xa nhau đâu. Dạo ấy, các chú ở Ban Giáo dục tâm lý thật, phân công việc gì cũng chú ý hoàn cảnh của hai vợ chồng. Đến chiến dịch xuân năm 1975, hai vợ chồng cũng được phân công vào đội tuyên truyền xung kích, cùng nhau tham gia giải phóng Tiên Phước, rồi ào luôn vô Đà Nẵng. Bây giờ, mỗi đứa một nơi, cách nhau trăm cây số... Nhưng em cũng có phần vui. Có lẽ các anh trong cơ quan biết chuyện Sơn tiêu cực ở chợ Hàn, nên chuyển anh ấy lên vùng núi, thử thách rèn luyện chăng?

          Mãi sau này em mới biết rằng em đã lầm. Việc Sơn làm kín đáo lắm nên lãnh đạo không ai biết. Chính Sơn chủ động xin đi Cây Sanh. Đó là trạm thuế vụ quan trọng: kiểm soát việc giao lưu kinh tế giữa Tam Kỳ, đầu mối trung chuyển hàng hoá Đà Nẵng - Quảng Ngãi - Sài Gòn, và Tiên Phước, Trà Mi, nơi có nhiều lâm sản quí. Dân buôn lậu thường lén đem chè, quế, trầm từ trên đó về, lời gấp mấy chục lần. Cấp trên tin cậy anh ấy. Trạm Cây Sanh có một số vụ bê bối, phải thay trạm trưởng. Sơn là đảng viên kháng chiến, về thay thế thì chắc ăn quá rồi. Còn Sơn, anh ấy lại hăm hở ra đi với động cơ khác...

          Mọi chuyện, sau này do chính Sơn nói ra em mới biết, chứ lúc anh ấy đi, em đâu có hay. Em chỉ dặn: “Em bỏ qua cho anh cái vụ chợ Hàn, lên đó đừng lặp lại nữa. Lâu lâu ghé về thăm mẹ con em...”.

          Sơn đi, đem theo chiếc Honda và cái va ly. Anh ấy rất siêng, tháng nào cũng về một lần, có khi hai lần. Anh ấy sút đi rõ rệt, cặp mắt trũng lơ, má xọp sâu xuống. Chắc rằng ở trạm vất vả, ăn uống kham khổ nên vậy. Em thương anh ấy lắm. Anh coi, vợ chồng ăn ở với nhau gần chục năm, đìu díu nhau từ trên núi du di xuống, tình nghĩa có ít đâu. Nhưng anh ơi, em thương chồng mà thương chưa chót. Em không tinh ý. Em không tìm hiểu kỹ việc làm của anh Sơn. Lên Cây Sanh, thời gian đầu Sơn làm việc bình thường. Anh ấy đã cùng tổ kiểm soát bắt hàng chục vụ chở lậu quế, chè. Có vụ, cả một bao tải quế giấu dưới gầm ô tô không ai nhận, tổ thu về nạp lên trên. Dần dần, Sơn đã nắm rõ quy luật làm ăn tại đây. Điều quan trọng là Sơn phát hiện ra cả ba nhân viên ở đây cũng cùng một duộc như anh. Hoá ra bọn này đã tìm cách vu cáo để đẩy trạm trưởng cũ không ăn cánh với chúng đi nơi khác. Thế là Sơn vào hội vào thuyền với chúng. Với những cán bộ, học sinh có vài ba ký chè, mấy lon đậu đem đi bán theo kiểu “tranh thủ”, Sơn đưa vô trạm, nạt: “Người Nhà nước mà đi buôn lậu à? Khai báo cơ quan để tôi gửi công văn đến xử lý!”. Những người này sợ xanh mặt, ấp úng thanh minh rồi trao cả số hàng cho trạm, không cần biên nhận gì cả, miễn là thoát. Với những tay buôn, Sơn cũng gọi riêng ra, đòi đánh thuế cao. Họ van nài xin xỏ. Sơn làm bộ thương tình, hạ bớt xuống. Nhưng khi làm biên lai, anh ấy chỉ ghi số tiền bằng một phần tư thực thu. Tệ hại hơn là Sơn còn đe nẹt cả những cô bác nông dân đi về thành phố thăm con cháu. Thấy họ đem vài con gà, dăm ký đậu phộng, anh ấy hỏi: “Giấy phép mang nông sản đâu?”. Mấy bác ngơ ngác không hiểu, anh ấy liền sừng sộ: “Tỉnh quy định hễ ai đem nông sản khỏi địa phương đều phải có giấy phép của chủ tịch xã. Nếu không, coi như buôn lậu, tôi tịch thu hết”. Tội nghiệp mấy bác, phải van xin nộp bớt con gà, nửa số đậu cho trạm để được đem số còn lại về làm quà cho con cháu. Có ngày chủ nhật muốn tổ chức nhậu nhẹt, trạm lập thêm một tổ kiểm soát đột xuất tuốt vùng Suối Tiên, thu về cả chục con gà, mấy bao đậu. Tiền và những thứ hàng có giá thu được, trạm chia nhau, mà Sơn bao giờ cũng được một phần ba. Còn những thứ nông sản, họ để ăn xả láng.

          Chắc anh còn nhớ, hồi ở căn cứ, mình đã có lần đi lấy củi đốt sưởi mà gặp nhằm trầm. Mùa mưa năm 1969, khi Bác Hồ mất, mình hun trầm suốt ba ngày đêm ở nơi thờ Bác, anh có nhớ không? Thứ trầm đó, bây giờ lại thành món hàng quý mà bọn buôn lậu lùng dữ lắm, nhà nước cũng quản lý chặt lắm. Cùng với quế, trầm là thứ hàng cấm buôn bán, nên không đánh thuế, mà chỉ tịch thu. Có một nhóm buôn lậu từ Sài Gòn ra, đặt trạm ở Tam Kỳ, tìm cách móc quế, trầm từ rừng về. Bọn này có tổ chức chặt chẽ, làm ăn lớn, không cò con như bọn kia. Chúng tìm cách tránh trạm kiểm soát chứ không móc ngoặc với trạm thuế vụ.

          Anh vẫn nhớ vùng Cây Sanh chứ? Trạm thuế vụ của anh Sơn nằm tại đó, chặn ngang con đường ô tô duy nhất xuống Tam Kỳ. Hồi đánh Mỹ, anh em giao liên mình vẫn có một con đường vòng tránh chốt Cây Sanh: đi men Dương Bàu, cắt xuống Trảng Tranh. Đó là một con đường nhỏ trên nền đá sỏi, chạy qua cánh rừng sim lúp xúp. Hoà bình rồi, không ai đi nữa, nhưng không hiểu sao bọn buôn lậu lại tìm ra.

          Bấy giờ đã vào đầu mùa phát rẫy ở vùng núi. Anh có nhớ dạo ở căn cứ, anh Sơn thường đi săn vào những ngày đó không? Lũ nai thường mò ra liếm tro ở những rẫy mới đốt. Cái thú đi săn hồi ấy, nay anh Sơn vẫn giữ được. Một đêm, anh Sơn vác cây AK của trạm đi. Khi theo hút đốm mắt của một con mang, anh ấy đi dần tới đoạn đường sỏi Dương Bàu. Vừa từ đám rẫy bước xuống đường, anh ấy gặp một tốp ba người đi xe đạp. Chưa kịp hiểu ra sao thì tốp người ré lên, hoảng hốt phóng xe đi. Một người xô vào tảng đá lớn bên đường, bổ nhào. Đó là một gã loẻo khoẻo, chở sau xe một bọc trầm, Anh Sơn xách súng chạy tới...

          Cái đêm ấy đã tạo cho Sơn cơ hội móc ngoặc chặt với bọn buôn lậu. Tên ngã xe được cho đi êm, sau khi đã lót tay anh ấy 2 chỉ vàng. Một hợp đồng đã được ký không cần văn bản: cứ vào giờ trực khuya của anh Sơn thì bọn này chở trầm qua, với giá 3 chỉ vàng một chuyến.

          Từ đó, lâm sản quý đổ về xuôi ngày một nhiều hơn. Tỉnh tăng cường công an, kiểm lâm lên phối hợp với trạm thuế vụ kiểm soát suốt ngày, nhưng không bắt được vụ chở lậu nào. Lũ buôn lậu đâu có đi vào ban ngày, việc ấy chỉ Sơn mới biết.

          Thế rồi, lại một sự tình cờ đã làm bung ra một phần sự thật. Tổ dân quân thôn Năm đi họp cụm dân quân ở gần Tam Kỳ, lúc về bị lỡ xe. Họ rủ nhau lội bộ. Tới trạm thì đã 12 giờ khuya. Bất ngờ, họ gặp một tốp 6 người đi xe đạp xuống. Nhoà nhoà trong bóng đêm là những bọc to lù lù buộc sau xe. Anh em dân quân giật mình nhảy sang bên đường. Tiếng la hét rộ lên. Anh Sơn vác súng chạy ra, hô lớn: “Bắt lấy, bắt lấy bọn gian!”.

          Anh em dân quân rượt theo và nổ súng. Lùng sục mãi, họ vẫn chưa bắt được tên nào. Xuống tận chân dốc, họ mới thấy một chiếc xe đạp nằm chỏng chơ bên vệ đường, kèm theo một bọc trầm lớn. Một gã buôn lậu nằm gục dưới rãnh nước: hắn đã tắt thở. Có lẽ do nghe tiếng súng, quá hốt hoảng, hắn đã ngã nhào, đập đầu vào đá... Ngay hôm sau, tang vật được chở về tỉnh. Anh Sơn vẫn ung dung ở trạm.

          Sau đó 10 ngày, đúng vào chủ nhật, anh Sơn cười Honda về Đà Nẵng. Khi gần tới đường Quang Trung thì có hai gã đàn ông cười Honda 67 rượt tới. Hai gã áp xe Sơn vô hè, khiến anh phải phanh gấp. Chiếc 67 dấn lên, chặn cứng đầu xe Sơn. Tên ngồi sau có thân hình vạm vỡ nhảy khỏi xe, đến bên Sơn. Hắn gằn giọng: “Cái vụ Cây Sanh chú mày chơi không ngon đâu he!”. Sơn vừa kịp nhận ra đó là một tên trong bọn buôn lậu trầm thì hắn đã đấm một cú như trời giáng vào quai hàm anh. Sơn ngã lộn khỏi xe. Hắn đá lia đúng mạng sườn anh. Hắn còn đạp anh mấy cái và hằm hè: “Chơi không đẹp thì phải xử theo luật rừng nghe chưa!” May lúc đó có mấy em nhỏ đi học về, thấy vậy liền la lên. Hai tên côn đồ phóng mất dạng.

          Sơn được chở tới bệnh viện trong tình trạng mê man, bụng tím bầm, trướng lên. Bác sĩ quyết định phải mổ gấp: ổ bụng bị tổn thương nặng, lách dập.

          Hay tin, em ngất xỉu. Sau đó, em vô ở luôn trong bệnh viện, vừa làm việc, vừa chăm sóc anh ấy. Suốt ba ngày đầu, anh ấy mê man, miệng nói lảm nhảm những gì không rõ. Đến ngày thứ tư, vừa mở mắt thấy em, anh ấy kêu lên một tiếng: “Cam!”, nước mắt ứa ra, rồi lại lim đi.

          Chuỗi ngày nặng nề cũng dần qua. Sơn bình phục lần lần. Anh ấy đã đi lại được. Thỉnh thoảng em lại đưa anh ấy ra dạo ở vườn hoa của viện. Sơn thích ngồi ở chiếc ghế đá đặt dưới gốc muồng cuối vườn hoa. Hồi ở Trà Nô, chúng em đã sống với nhau gần một năm trong ngôi nhà tranh đơn sơ mà anh em dựng cho, núp dưới một cây muồng xum xuê. Sơn hay nhìn em bằng cặp mắt rầu rầu và hỏi: “Cam, em còn thương anh không?”. Em trả lời: “Anh hỏi chi kỳ vậy, sao lại không còn thương?”. Anh ấy ứa nước mắt: “Anh đến như vầy, em còn thương anh sao?”. Em cũng ứa nước mắt: “Trời ơi, dù anh có đui mù đi nữa, em vẫn thương anh. Chúng mình thương nhau từ những ngày kháng chiến gian khổ, ác liệt, tình sâu nghĩa nặng, anh không nhớ sao?”. Anh gật đầu: “Nhớ, anh nhớ chứ. Mà vì anh nhớ, anh mới hỏi em như thế. Em ạ, anh tệ lắm, anh không xứng đáng với em nữa”. Nói tới đó, anh ngừng bặt, đôi mắt đờ đẫn. Sợ anh mệt, em dìu anh vô nhà...

          Những ngày sau đó, chúng em luôn luôn ôn lại những kỷ niệm ở căn cứ, những kỷ niệm về chúng em, về anh. Anh Sơn nhắc mãi chuyện anh ấy bị thương hồi năm 1973. Anh ấy cứ thắc mắc hoài là tại sao anh lại tìm thấy anh ấy nằm gục giữa vạt lách ven sông để kịp đưa về. Em cũng không rõ là tại sao lúc đó hai anh em mình mạnh đến thế, nhất là lúc dìu anh Sơn qua sông Tranh bằng phao ni lông. Bơi tới giữa sông, em đã muốn đứt hơi. Nước cứ băng băng lạnh lùng. Em tưởng đã trôi xuống gần thác rồi. Nếu không có anh vừa ra sức kéo phao, vừa động viên, có lẽ em cũng chim luôn mất. Anh Sơn có nói rằng so với anh, anh ấy sút kém quá rồi. Em cũng nhắc lại vụ em bị lạc giữa rừng vào năm 1971 mà anh Sơn đã tìm thấy em...

          ... Khi ấy, đã sắp vào vụ thu hoạch ngô. Trên thung lũng Trà Mi, từng vạt rẫy ngô đã vàng lá, khô ngọn. Tổ sản xuất do Sơn phụ trách toả ra rẫy bẻ ngô. Bất thần, tiếng súng rộ lên khắp bốn hướng: địch tập kích. Chưa kịp định thần, Sơn đã thấy Cẩm - người cùng tổ - ngã vật xuống. Thấp thoáng phía đầu rẫy là bóng lũ Bảo an đội mũ rộng vành. Anh em bật ngược lên dông, rút vào rừng. Kiểm lại, cả tổ 6 người thì thiếu mất 2: Cẩm đã hy sinh, còn Cam, ở nhà nấu cơm, lúc này không rõ ở đâu.

          Có hiện tượng địch còn càn lâu. Các chuyến trực thăng tiếp tế liên tục hạ cánh. Lũ máy bay trinh sát L.19 lượn vè vè suốt ngày. Pháo nã tới tấp lên núi. Tổ của Sơn di chuyển lên đầu ngọn suối ồ ồ. Tại đó có những lèn đá lớn, tạm làm nơi trú ẩn được. Anh em bàn nhau: chắc Cam còn sống, phải đi tìm.

          Đúng là Cam bị lạc. Khi tiếng súng rộ lên, một sự nhạy cảm lạ kỳ khiến Cam hiểu ngay rằng địch đã tập kích. Đang chẻ củi, Cam cầm luôn con rựa, chạy vòng ra sau nhà. Ba con lợn trong chuồng nhảy loạn, kêu eng éc. Cam rút chốt cửa cho chúng phóng ra. Chạy ngược lên dông một hồi, Cam đụng ngay lũ Bảo an. Một loạt đạn AR.15 rẹt tới. Cam bổ nhào, lăn theo sườn dốc, rồi bật chạy. Tiếng súng nổ ran khắp nơi. Cam cứ chạy. Không còn biết phương hướng ra sao nữa. Chạy thục mạng. Súng vẫn nổ ran.

          ... Khi mở mắt ra. Cam đã thấy mình nằm xoài trên một đám lá khô dưới gốc cây trường, tay vẫn nắm chắc cán rựa. Đã qua một đêm rồi sao? Bình minh vừa thức dậy. Sương lạnh thấm ướt cả mình mẩy. Con chim gì hót mà lạc lõng vậy, tiếng hót tắt lịm giữa mịt mùng cây cối. Tiếng súng chỉ còn vẳng từ xa lại, xa lắm. Cam biết rằng một ngày qua mình đã chạy được rất nhiều đường đất. Bây giờ, trơ trọi một mình giữa rừng. Một cảm giác trống trải làm cô ớn lạnh. Đồng đội đâu rồi? Lúc này, cái đói, cái mệt không thấy đáng sợ bằng cái lạc lõng, cô đơn. Bị tách khỏi đồng đội, Cam mới thấy mình yếu đuối nhường nào, và càng thấm thía cái nồng ấm, cái sức mạnh của tình đồng chí. Cô tự nhủ: ráng lên, ráng đi tìm đồng chí, ráng về với anh em. Gắng hết sức, Cam trèo lên một cây cao, nhìn ra xung quanh. Không thấy gì hết ngoài lớp lớp cây xanh. Tụt xuống, Cam lần đi, cố tìm ra một lối mòn. Với con rựa, Cam đào củ rừng ăn. May lắm mới gặp một gốc mài, nhưng chỉ đào được một khúc củ ngắn củn. Không có lửa, phải ăn sống. Gặp một gốc vả mật, Cam mừng quá. Gốc vả đầy trái chín, những trái to bằng vốc tay, đỏ bầm, trong ruột chứa đầy mật ngọt. Ăn no nê rồi, Cam lấy rựa bứt dây rừng, hái vả xâu đầy hai xâu, quàng ngang người và lại đi. Mặt trời chỉ cho Cam phương hướng. Nhưng rừng bịt bùng lại che mắt, cản lối Cam. Cô phải phát cây cỏ, rẽ lối mà đi. Tới ngày thứ tư, Cam lại trèo lên cây tìm hướng. Trong tầm mắt cô, một trảng cỏ bằng phẳng hiện ra. Bỗng nhiên, tim Cam đập rộn lên. Cô phải bám chặt vào cành cây cho khỏi ngã. Cô chớp mắt nhiều lần để nhìn cho rõ: một người đầu đội mũ tai bèo, khoác súng AK đang từ đầu trảng cỏ đi lại. Dáng người thấp đậm, quen lắm. Một niềm sung sướng dâng lên trong cô. Đồng chí của cô kia, cô hết lạc lõng, bơ vơ giữa rừng. Cam bụm tay lên miệng, hú hai tiếng nữa. Người kia vươn người, hú lại hai tiếng. Cam ráng sức nói to: “Đứng đó, chờ em!”, rồi tụt nhanh xuống. Cô bươn bả vạch cây, đạp cỏ chạy ra. Xâu vả lắc qua lắc lại, rụng lộp bộp, cô cũng không biết. Cô đến trảng cỏ. Người kia cũng lao tới. Đó chính là Sơn. Suốt ba ngày nay, Sơn đã luồn rừng đi tìm Cam. Cam ngã gục vào vòng tay Sơn. Và họ yêu nhau từ đấy.

          ... Không gian tịch mịch. Chỉ còn nghe tiếng lá xào xạc trong gió. Hoài phá tan sự im lặng:

          - Chuyện em chạy lạc, anh cũng không bao giờ quên. Hồi ở rừng, sao mà sợ lạc thế. Nhưng anh em mình thường dùng cành lá rấp ở những lối cấm rẽ, để người sau biết đường mà đi. Cho nên cũng ít người bị lạc.

          - Mà có lạc thì cũng cố tìm phương hướng mà về. Anh em lại cử người đi tìm nữa nên rủi có lạc cũng còn về được.

          Ngừng lại một lúc để suy nghĩ, Cam thủ thỉ:

          - Khi nhắc tới chuyện ở Trà Mi, Sơn có nói với em: “Chính anh bây giờ cũng đi lạc, lạc xa quá rồi em ạ. Khổ một nỗi, mình vẫn sống đó, vẫn làm việc đó giữa mọi người nên không ai biết mình bị đi lạc mà tìm kiếm. Chính mình cũng không biết rằng mình bị đi lạc nữa mà. Bây giờ có muộn không em?”. Em cũng chua sót nghĩ rằng mình có lỗi với Sơn. Khi trước, anh ấy đã chẳng quản gian lao, nguy hiểm luồn rừng tìm mình về. Còn bây giờ, giữa cuộc sống tưởng như bình lặng mà chẳng thiếu gian nguy, em đã quá thờ ơ với chồng.

          Nói ra những điều như trên rồi, anh Sơn bắt đầu bộc bạch với em mọi chuyện như em đã kể với anh. Đúng lúc đó, chúng em nhận được thư anh, biết anh sắp về thăm chúng em. Anh Sơn cùng em đọc thư anh hoài hoài, tới mức nhàu nát cả. Biết được anh đã đưa cả chị và hai cháu vào vùng căn cứ cách mạng cũ, chúng em đều ứa nước mắt. Mừng vì gia đình anh đã sum họp. Nhưng cũng lo vì biết rằng anh chị sẽ phải chịu thêm nhiều khó khăn, gian khổ.

          Khi thư anh đã rách nát, đọc không nổi nữa, anh Sơn bảo em gói kỹ lại, cất đi. Trong đôi mắt quầng thâm của Sơn, em vẫn thấy ẩn giấu một cái gì đó. Anh ấy cứ nhìn đăm đăm vào ngọn cây muồng mà hỏi đi hỏi lại em một câu: “Bao giờ anh Hoài về em nhỉ, bao giờ?”. Rồi anh ấy lại thở dài: “Lâu quá sao anh Hoài chưa về. Anh mong anh Hoài quá!”. Có lẽ còn điều gì đó hệ trọng lắm mà anh Sơn chờ anh về mới nói...

*

          Một làn gió mát rượi từ phía biển Thanh Hải lướt về. Cây hồng xiêm xào xạc rũ xuống những giọt tinh khiết và mát lạnh. Tiếng còi của chuyến xe lửa khởi hành sớm ở ga Đà Nẵng rúc lên lanh lảnh. Cam giật mình, đứng dậy:

          - Chao, gần hết đêm rồi. Anh đi đường chắc mệt hung. Anh đi nghỉ nghen. Em đã dọn giường cho anh ở căn phòng kề vườn này rồi.

          Hoài cũng đứng dậy:

          - Phải đấy, ta đi nghỉ, sớm mai còn vào thăm Sơn.

          Phía sông Hàn, ánh lê minh đã bàng bạc hiện ra. Sắp sáng rồi./.

 

SỰ TÍCH CÂY RÙ RÌ

 

 

Chưa bao giờ vùng Trà Mai gặp mưa bão dữ dội như năm ấy.Thần Vu Róc làm mây mù trời, làm mưa ngập đất. Nước mưa chạy thẳng từ trời cao xuống, xối ào ào lên rừng cây, xối sầm sập trên mặt đất làm mòn cả đồi núi. Những dòng suối bùn đỏ quánh chảy ào ào theo các triền dốc, đổ vào sông Tranh. Sông Tranh tràn đầy nước, lồng lên dữ dội, đổ cuồn cuộn về xuôi, tung bọt ngầu đỏ. Các nóc của người Kơ Dong nằm trơ trọi trên các sườn đồi, bị chia cắt, không gặp được nhau. Nóc ông Chanh với những ngôi nhà sàn sũng nước nằm chơ vơ trong mưa lạnh. Chưa ai bị đói, vì nương rẫy còn củ mì, còn trái bắp. Nhưng muối không còn một hạt. Cái nhạt nhẽo khiến cái miệng khô và nhạt thếch, không muốn nhai cơm. Ông Chanh gọi con trai: "Ơ A Đơ Rây, nóc ta không còn hạt muối, cái miệng chỉ đòi vị mặn, con đem cái mật gấu xuống Trà Mi kiếm ít lon muối về cho dân làng!" Nhìn trời mưa, nghe sông gầm thét, lại nhìn vào bộ ngực căng tràn, nhìn vào bắp chân bắp tay săn chắc của mình, A Đơ Rây nói với cha:"Con sẽ vượt sông Tranh, con sẽ xuống Trà Mi đem muối về". Mẹ A Đơ Rây lấy gói mật gấu từ trên dàn bếp xuống, gói một  gói  cơm trộn sắn, lại nướng trên chục trái bắp, gói một gói tro tranh cho vào chiếc gùi và bảo: "Con trai ơi! Nước lồng hơn bầy nai chạy, sông dữ hơn bầy hổ đói, nhưng không đáng sợ bằng cái thiếu muối! Con ráng mà đi kiếm muối về cứu dân làng!"

A Đơ Rây chào cha mẹ và lên đường. Chàng vượt qua sông Đak Là, Đak Là níu kéo chàng trong sự đắm đuối và ngọt ngào của thứ nước đầu nguồn, nhưng không giữ được chàng. Chàng băng qua Đak Vin, Đak Vin lạnh ngắt, cuốn chàng trong những vòng xoáy thun thút, nhưng không nhấn chìm được chàng. Đến Đak Ta, chàng băng qua những con sóng nhấp nhô, sóng mơn trớn muốn rủ chàng về thuỷ cung thăm vua nước, nhưng chàng đã vượt lên bờ. Chàng tiến về sông Tranh. Sông Tranh mọi khi xanh ngắt, nay đỏ ngầu. Dòng nước chạy ào ào, đập vào vách đá, réo ầm ầm. Chàng lao minh vào dòng nước lạnh ngắt. Trong tiếng gầm réo của thác nước, chàng nghe như có lời ru. Chàng nhoài mình, bơi vuợt ngang sông. Nước cười sằng sặc, níu tay, kéo chân chàng về xuôi.  Một giấc ngủ chợt đến, đưa chàng đi mãi, đi mãi...

Mưa miết, mưa miết như muốn xoá sạch dấu vết của A Đơ Rây. Có lẽ một nửa con trăng qua rồi. Bóng dáng A Đơ Rây vẫn mịt mù. Người yêu của chàng là Di Dật mòn mỏi trông đợi. Trời mưa gió, giá lạnh thấu xương, mà nàng thấy như có mấy cái rẫy cùng cháy một lúc trong bụng. Cái nóng trong nàng dường như làm cho trời bớt nước, giảm mưa. Nàng trốn gia đình, đi kiếm người yêu. Nhưng đi đâu, tìm đâu, nàng nào có biết! Bỗng một sáng trời trong, có con chim Chơ rao hót bảo Di Dật: "A Đơ Rây bị thần nước bắt rồi! Muốn tìm được chàng, phải vượt lên đỉnh Ngok Linh, gặp thần Vu Róc mà cầu xin!". Rồi chim bay trước dẫn đường trong tiếng hót lảnh lót. Qua vùng núi nhọn, qua thung lũng sâu, vượt lên một bãi bằng, chim dừng lại chờ Di Dật và bảo: "Từ đoạn này, không còn sông lớn, chỉ có núi cao. Chim không bay tiếp được nữa. Chỉ có một con đường nhỏ, Di Dật khắc đi khắc tới". Trước khi tạm biệt Di Dật, chim Chơ rao dặn dò:"Muốn tới nơi thần Vu Róc ở phải vượt qua 5 ngọn núi, mỗi ngọn núi có một con quỷ canh giữ... Phải vượt qua những thử thách của quỷ mới đi được". Một mình Di Dật mải miết băng rừng...

Vượt qua một trảng cỏ, bước tới một ngọn đồi, Di Dật thấy một ngọn núi  sừng sững chắn ngang tầm mắt. Nàng vừa lấy hơi vượt lên đồi thì nghe có tiếng nhạc rầm rầm phát ra từ một hốc núi. Tiếng nhạc nghe lạ hoắc, không giống tiếng đàn Tơ rưng ngân nga bên suối, cũng không giống tiếng đàn Kơ nhí réo rắt trong làng, mà nghe xoang xoảng, rầm rĩ như tiếng kim khí va chạm nhau. Chưa kịp định thần, nàng đã thấy sừng sững trước mắt một con quỷ đen nhẻm. Nó cười sằng sặc: "Ta chờ ở đây từ lúc mưa tuôn tới khi nắng đổ, bây giờ mới gặp ngươi. Ngươi phải ở đây nhảy múa với ta theo tiếng đàn mà ngươi đã nghe thấy đó!"  Di Dật bắt buộc phải nắm tay quỷ nhảy trong tiếng nhạc thác loạn. Con qủy xoay tròn, Di Dật lượn theo tít mù. Con quỷ nhảy nhịp đôi, bước chân lắt léo lướt trên đầu ngọn cỏ, kéo Di Dật nhảy theo xuống chân đồi. Trời đất như quay cuồng. Con quỷ cảm thấy thấm mệt. Nhưng Di Dật vẫn còn đầy sức mạnh. Nàng giật tay, chuyển chân, kéo con quỷ nhảy theo điệu nhảy mà nàng học được từ năm mùa rẫy trước đây. Bước nhẩy của của nàng xoáy như cơn lốc, cuộn từ chân đồi lên đỉnh đồi, kéo con quỷ quay tròn lông lốc, khiến cho cỏ ngã rạp, nát nhừ. Con quỷ như say như mê, quay quay rồi đổ rạp trên đỉnh đồi. Tiếng nhạc chợt ngừng bặt. Di Dật định thần, đứng vững lại và hướng theo đỉnh dốc, vượt lên.

Ngày qua ngày, Di Dật ăn trái cây, uống nước suối, ngủ trên chạc cây, mải miết ngược lên mãi. Lại một ngọn núi cao ngất chắn trước mặt. Văng vẳng từ xa, tiếng nhạc nghe réo rắt mê hoặc. Di Dật mơ màng như chìm trong một màn sương mù bảng lảng. Mờ mờ hiện ra trước mắt nàng một con quỷ da đỏ, cổ to, tóc gợn sóng bồng bềnh. Nó cất giọng êm ái và ngọt ngào: "Di Dật đó ư, hãy hát cùng ta nhé! Hát cho nước suối ngừng chảy, cho gió khỏi chạy hoang, cho hai ta say đắm..." Rồi nó cất giọng hát. Từ cái cổ to bè như gốc cây chò phát ra một giọng hát trong như nước mưa, nhẹ như gió thoảng, ngọt như mật ong. Bài hát nghe ngọt ngào nhưng ẻo lả, mơn man tâm hồn, đưa con người vào quên lãng. Bài hát nhủ Di Dật hãy hát, hát cho quên nương rẫy, quên cha mẹ, quên người yêu. Tiếng hát của con quỷ như một làn gió mềm mại lùa vào họng Di Dật, lôi giọng hát của nàng ra. Và Di Dật đã hát, hát không cưỡng lại được. Khúc hát đầu kéo dài từ sáng tới trưa. Khúc hát sau không muốn ngưng nghỉ. Trời đã sầm mặt lạnh, dìm giọng hát Di Dật vào bóng tối mờ ảo. Đúng lúc ấy thì Di Dật nghe tiếng chim Chơ rao hót, tiêng hót trong veo và nhọn hoắt như một mũi tên xuyên thẳng vào tâm khảm, làm cho nàng bừng tỉnh. Thoảng trong gió tiếng đàn Kơ nhí tấu lên điệu nhạc quen thuộc mà Vu Đơ Rây thường tấu cho Di Dật nghe. Di Dật bừng tỉnh và nàng bắt lại giọng, hát theo tiếng đàn Kơ nhí. Bài hát ca ngợi tình yêu bền chặt như rễ cây ăn sâu vào lòng đất, như nước suối chỉ biết chảy xuôi giòng, như mũi tên không bao giờ bay ngược. Con quỷ ngây ra, dỏng tai nghe. Bài ca lạ lùng này, bây giờ nó mới nghe lần đầu. Và từ sâu thẳm trong lòng nó dội lên một nỗi đau. Nỗi đau mơ hồ của kiếp trước, khi nó là một chàng trai đẹp, hát hay, nhưng bị kẻ mạnh cướp mất người yêu... Nó đứng câm lặng, buông xuôi hai tay. Di Dật vừa hát vừa lách qua nó, vượt lên đỉnh dốc, băng về phía núi cao...

Canh giữ ngọn núi thứ tư là một con quỷ da xanh bủng. Thấy Di Dật, nó vươn cái cổ gầy nhẵng lên :" Ta cần máu! Hãy trao máu cho ta!" Di Dật vứt cho nó một trái vả đỏ ửng: "Máu đấy, ăn đi!" Con quỷ vồ lấy, nuốt chửng, rồi nhăn mặt: "Không có mùi tanh, không phải máu!". Di Dật quẳng cho nó chùm dâu da chín đỏ: "Máu đây, nuốt đi!". Con quỷ nhai ngấu nghiến nhưng vội nhè ra: "Cũng không có mùi tanh, không phải máu!" Di Dật vứt cho nó con sóc mà nàng bắt được hồi chiều qua: "Máu đấy!" Con quỷ vồ lấy, nhai ngấu nghiến. Không ngờ, có máu vào ngưòi, con quỷ bỗng cao lớn vụt lên. Nó quờ tay, giữ chặt lấy Di Dật. Từ các ngón tay của nó mọc ra những con vắt dài ngoẵng. Những con vắt ấy bám chặt vào da thịt Di Dật, hút lấy hút để giòng máu ngọt và ấm của cô gái. Da Di Dật tái dần. Da con quỷ đỏ dần. Di Dật như mê như dại. Nàng cầu khẩn: "Hỡi A Đơ Rây, anh đang ở đâu? Anh có kiếm được muối về cho dân làng không?" Thoảng trong gió, Di Dật nghe con chim Chơ rao mách bảo: "Di Dật ơi, A Đơ Rây ra tới nơi mà những con sông đều tới rồi. Tại đó nhiều muối lắm! Bây giờ ở buôn làng mình dã có muối ăn, trong mình Di Dật cũng có muối mặn đó!". Bỗng nhiên, người Di Dật toát mồ hôi đầm đìa, thứ mồ hôi muối mặn chát. Con quỷ thét lên đau đớn. Những con vắt co vòi lại quằn quại. Di Dật chợt hiểu rằng con quỷ này rất sợ vị mặn. Cô tháo chiếc khăn quàng đẫm mồ hôi của mình ném vào mặt con quỷ. Nó chảy nước mắt như suối và quỵ xuống...

Ngọn núi thứ tư đã hiện lên trước mắt Di Dật. Đứng canh đường lên núi là một con quỷ vạm vỡ, chỉ đóng một chiếc khố. Nó có cái đầu to với đôi sừng nhọn mọc thẳng, đôi môi dày, đôi mắt híp. Di Dật chưa kịp nói năng gì thì con quỷ đã cất giọng ồm ồm: "Nàng muốn đến với thần Vu Róc phải không? Ta sẽ giúp nàng. Nhưng nàng phải lột hết váy áo ra!" Di Dật bất giác co rúm người lại, ôm chặt váy áo. Con quỷ cười khà khà: "Ai mà không có lúc phải trút bỏ vỏ bọc! Nàng đừng sợ, ta chỉ ngắm nàng thôi!" Cái ngượng ngùng làm Di Dật không cất nổi lời nói, cũng không đứng dậy được. Bỗng nàng nghe tiếng chim Chơ rao thì thầm bên tai: "Ráng lên đi Di Dật. Con quỷ này đã bị một lời nguyền: khi nào nhìn thấy thân thể con gái, nó sẽ hoá đá!". Di Dật thấy bình tâm. Cô cất cao giọng:"Này quỷ mắt híp, ngươi đừng đòi nhìn thân thể ta, nếu nhìn, ngươi sẽ hoá đá!". Con quỷ cười sằng sặc, nhắm tít cả mắt lại: "Dù có hoá đá hay hoá đất, hay hóa bùn, ta cũng phải nhìn thấy thân thể nàng. Nhanh lên, đừng để ta phải đợi." Di Dật thì thầm: "Ơi anh A Đơ Rây, anh nhủ em phải làm gì đây?" Không nghe A Đơ Rây trả lời, nhưng  nghe như có tiếng đàn Kơ nhí rộn rã, thúc giục. Di Dật đứng thẳng người lên. Một làn gió nhẹ và ấm quấn lấy nàng, cuốn váy áo của nàng lên một tảng đá to. Con quỷ đứng ngây ra, bành cặp mắt híp dán chặt vào cơ thể người con gái đang tuổi trăng tròn. Kia là làn da bánh mật mượt như nhung. Kia là đôi chân thuôn chắc nịch. Kia là đôi tay tròn lẳn nõn nà. Kia là bộ ngực căng mẩy. Kia là... Di Dật thấy ớn lạnh và cảm thấy cơ thể nhớp nháp bởi cái nhìn bẩn thỉu bao phủ. Chợt một tiếng sét nổ vang trời. Con quỷ đã hoá đá. Một cơn mưa bất chợt ào đến, xối nước trên mình Di Dật, rửa sạch ánh mắt của con quỷ trên cơ thể nàng. Một làn gió mát rượi cuốn váy áo vào người Di Dật...

          Đến ngọn núi thứ năm, Di Dật thấy một con quỷ nhỏ thó, dáng nhanh nhẹn chạy qua chạy lại nơi chân dốc. Nó có đôi môi dày, chòm râu dê đỏ quạch, cặp mắt lấc láo. Nó đon đả: "Sao lâu thế cô gái? Ta chờ nàng như mũi tên đợi con nai, như con trút nằm le lưỡi chờ kiến! Đến với ta mau, hãy hiến thân cho ta!" Di Dật thét lên:"Không đời nào!" Con quỷ xông tới, giằng xé váy áo Di Dật. Di Dật gồng mình chống đỡ. Nàng lăn mình theo dốc núi. Con quỷ nhảy những bước dài chặn nàng lại. Nàng luồn vào bụi cây, con quỷ luồn theo níu kéo. Nàng nhảy lên tảng đá, con quỷ gân mình xô đẩy. Tảng đá rung rinh rồi lăn tròn xuống chân núi kéo theo hàng trăm tảng đá khác lăn ào ào như có bầy lợn rừng cùng ào xuống một lúc. May mà Di Dật đã bám được vào một thân cây. Rừng cây chuyển động ầm ầm. Tiếng động vang đến tận đỉnh núi Ngok Linh, đánh thức thần Vu Róc. Thần vạch mây nhìn xuống nhưng không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Cũng lúc ấy, con quỷ đuổi kịp Di Dật, ghì lấy nàng. Váy áo nàng tơi tả. Da thịt nàng phơi ra lõa lồ. Uất hận, nàng cắn lưỡi. Một giòng máu đỏ tươi chảy dài từ miệng nàng xuống đất, làm đỏ cả đầu ngọn cỏ tranh. Hồn nàng bay bổng lên khỏi ngọn cây, bay đến bên thần Vu Róc. Lúc này, thần Vu Róc mới giật mình khi biết rằng mình đã quá tay quạt gió kéo mưa làm cho trần gian ngập nước. Lẽ ra, 5 con quỷ phải canh chừng mực nước để báo cho thần, nhưng chúng chỉ ham vui, mê sắc dục, làm hại dân lành. Thần nổi giận trừng trị 5 con quỷ, kể cả con quỷ mắt híp đã hóa đá. Trời nắng rực rỡ. Sông Tranh trở lại trong xanh. Thần ân cần nói với hồn Di Dật: "Ta quá ân hận vì đã hại A Đơ Rây và con. Con có mong ước gì cứ nói với ta, ta sẽ giúp. Tuy vậy, các con không trở lại làm người được nữa!" Hồn Di Dật tha thiết: "Dù làm người dù không, con cũng xin được gắn bó với A Đơ Rây. Chúng con mong được ở bên nhau và trở thành một loài có ích cho con người." Thần Vu Róc lặng lẽ gật đầu. Từ đôi mắt già nua của thần nhỏ ra những giọt nước mắt đục như sữa. Hồn Di Dật tan biến vào thinh không. Cũng lúc ấy, ở sông Tranh mọc lên một loài cây lạ. Loài cây thấp, mọc trên đá, mọc dọc bên bờ sông, có cành mềm mại, lá lòa xòa nhưng thân dẻo dai, rễ. bám chắc vào đất đá. Vào mùa mưa lũ, dù nước sông dâng cao bao nhiêu, rễ cây vẫn bám chắc vào đất, đá, thân ngả theo chiều nước vùng vẫy, cành chìa những cánh tay mềm mại và dẻo dai trên mặt nước. Những người không may bị nước cuốn, nếu bám được ào cành cây ấy thì sẽ được cứu vớt. Suốt đêm ngày, trong gió, lá cây phát ra tiếng rù rì như có đôi trai gái đang tâm sự. Người ta đặt tên cho loài cây ấy là Rù Rì. Người ta đồn rằng cây Rù Rì chính là kiếp sau của A Đơ Rây và Di Dật. Bởi vì lá và cành rù rì mềm mại, dẻo dai như thân hình mềm mại và dẻo dai của Di Dật; gốc và rễ của Rù Rì bền chắc như thân hình săn chắc của A Đơ Rây. Trong thân Rù Rì còn có thứ nhựa trắng đục - đó chính là những giọt nước mắt ân hận của thần Vu Róc. Khi Rù Rì rũ sạch đất cát, xòe lá xanh, đâm lên những chồi non mơn mởn, ấy là báo hiệu mùa lũ lụt đã qua./.

 

 

VỀ NƠI BÃO PHỐ

 

                              

Lương gặp lại người cựu chiến binh ấy trong một ngày đầu đông chưa giá lạnh nhưng ngồn ngột không khí chuyển mùa. Bầu trời như sụp xuống bởi lớp lớp mây xám đều một mầu tẻ ngắt và nặng nề... Lương nắm chặt tay anh, bàn tay mòng mọng vì phù thũng, hậu quả của căn bệnh nội tạng kéo dài nhiều năm qua. Anh cũng cố nắm lấy tay Lương như muốn qua hơi nóng của bàn tay này mà níu kéo cuộc sống lại thêm chút thời gian. Anh thều thào: “Cố gắng giúp mình thu lại tiền, trả nợ!... ” Những giọt nước mắt đặc quánh, mầu vàng xỉn rỉ ra trên khoé mắt anh... “Với đời, mình sống thanh thản, không mắc nợ gì. Nhưng mình còn nợ tiền người ta! Mình không muốn ôm nợ ra đi! Nợ người nhục lắm! Giúp mình với!...” Anh cố mở to mắt nhìn Lương, đôi mắt đục mờ và đã dại đi...

Lương nhớ lắm đôi mắt ấy ngày xưa, khi Lương và anh mới gặp nhau ở một hội nghị. Lúc ấy, rút kinh nghiệm công tác, Lương thẳng thắn phê phán thói lạm quyền của ông Trưởng Ban Tổ chức. Lương vừa phát biểu vừa nhìn cử toạ thì gặp ánh mắt anh, ánh mắt rực sáng như biết nói. ánh mắt ấy biểu lộ sự đồng tình với Lương, không những vậy, còn đầy khích lệ. Từ đấy, hai người thân nhau, mặc dầu anh lớn hơn Lương tới hai con giáp - anh đã là chiến sĩ quyết tử khi Lương chưa chào đời!

Con người hay mắc bệnh nghề nghiệp. Lương nhận thấy những người lãnh đạo xuất thân từ nhà giáo thường có bệnh nói dài, giảng giải rất kĩ những điều muốn truyền đạt cho cấp dưới. Đó là do thói quen giảng bài, mà đối tượng nghe chính là học sinh đầu óc ngây thơ! Còn những ông quan toà thì hay quát tháo, vặn vẹo hoặc cắt ngang lời người khác. Thì đối tượng của các ông quan toà toàn là phạm nhân hoặc nghi can, miệng ngậm hột thị, ai nào dám cãi! Lương cũng không thoát khỏi bệnh nghề nghiệp. Làm báo, Lương có thói quen quan sát và nhận xét, rồi suy nghĩ. Dào ơi, chính thói quen ấy nhiều khi làm khổ anh. Lương đã từng bị nhiều cơn tức làm cho nghẹn thở khi chứng kiến rồi suy nghĩ về những điều trái ngang trong cuộc đời. Anh Công cũng có bệnh nghề nghiệp - “nghề lính ôm bom ba càng” - đó là thói quen xông pha cảm tử! Trời đất ơi, trong chiến tranh, cảm tử, thậm chí quyết tử, là chuyện bình thường, nhưng trong hoà bình mà cứ phăm phăm xông lên không suy xét, làm sao tránh khỏi tai hoạ. Lương đã chứng kiến một lần anh Công định cảm tử, nhưng nhờ Lương can ngăn mà ý định thiêng liêng ấy không thực hiện được...

Hồi ấy, Liên đoàn Múa gặp chuyện rắc rối nội bộ. Nữ giám đốc cầm quyền được một năm thì nhà nước có chủ trương tinh giản biên chế. Với nhiệt tình đổi mới, chị sắp xếp lại tổ chức, chuyển một số diễn viên không còn khả năng biểu diễn sang làm dịch vụ. Thế là xảy ra kiện cáo. Nhân đó, ông Cục trưởng Cục Nghệ tìm cách loại trừ chị. Ông vốn ghét chị vì chị không biết điều! Ai lại khi họp trước bá quan từ Bộ tới Cục và các Nhà hát mà chị dám phê bình ông là thiếu sâu sát, thiếu công bằng trong phân chia ngân sách! Ông mới gọi anh Công lại và giao nhiệm vụ: “Tôi sẽ đề nghị cách chức cô Chín! Anh xuống đó, kiêm luôn chức Giám đốc hộ tôi!” Với tinh thần cảm tử, anh Công hăng hái: ”Vâng, tôi xung phong!”

Trong lúc chờ được xung phong thì anh Công gặp Lương và khoe chuyện. Lương giật nảy mình! Sao anh Công lại có thể ngây thơ đến trong veo như thế giữa cuộc đời đầy mầu sắc này! Anh hình như không để ý đến chiêu một mũi tên hai đích của ông Cục trưởng. Còn Lương thì biết rõ lắm. Từ xa quan sát, Lương biết rằng ông Cục trưởng làm khá nhiều điều uẩn khúc, cho nên rất kị những người trung thực, thẳng thắn. Anh Công chính là cái gai luôn luôn xọc vào chân, là cái dằm luôn luôn đâm vào tay ông lúc ông khua chân múa tay làm ăn thiên thẹo. Nhân dịp này, ông muốn đẩy anh Công xuống tử chiến! Nếu như anh Công hạ được chị Chín, thì ông loại được một nhân vật bướng bỉnh. Còn nếu anh Công bị chị Chín hạ, thì tất yếu là ông nhổ được một cái gai trên cơ thể từng làm mình nhức nhối bấy lâu. Đằng nào ông cũng thắng!

Lương hỏi đùa anh Công:

Mắt anh Công sáng rực lên như hai hòn than gặp gió:

Thấy anh chân thành và nồng nhiệt quá, Lương không nỡ đùa dỡn. Lương nói nghiêm túc:

- Anh phải lường hết những khó khăn khi xuống đơn vị. Xuống đó, như tướng đang cưỡi ngựa lại nhảy xuống đất đánh nhau với đám hỗn quân hỗn quan! Xuống đó, dù thái độ thế nào, cũng bị nhận một làn đạn.

Anh Công mở to mắt, hỏi gặng:

- Cậu nói thật không?

Anh Công thần mặt ra. Lương nói thêm:

- Theo tài liệu tôi nắm được, thì chị Chín không có khuyết điểm gì, chị chỉ có nhược điểm là nóng vội, thiếu kiên nhẫn giảng giải, thuyết phục quần chúng. Còn hướng đi của chị rất đúng, đó mới là đổi mới! Cho nên, sẽ không có chuyện cách chức chị ấy đâu!

Lúc ấy, anh Công mới trầm ngâm suy nghĩ. Rồi anh Công không xuống làm Giám đốc nữa, mà làm trưởng đoàn Công tác của Bộ xuống giải quyết vụ việc của Liên đoàn. Quả thật sau này, chị Chín đứng vững ở vị trí giám đốc, và đã dẫn dắt đơn vị vượt qua khó khăn, hoạt động có hiệu quả!

Do Giám đốc Khu sáng tạo bị mất đột ngột, anh Công được điều về thay. Không những là chiến sĩ quyết tử, anh Công còn là nghệ sĩ sáng tác kịch bản sân khấu. Cho nên, bên căn bệnh nghề nghiệp cảm tử, anh còn có căn bệnh lãng mạn. Anh khao khát có được một khu nhà bên bờ sông Hồng ngàn năm sóng vỗ cùng sắc đỏ phù sa để các nhà văn, nhạc sĩ, hoạ sĩ tụ về sáng tác. Anh đôn đáo chạy xin đất làm trại sáng tác. Nhờ quan hệ rộng và thân quen với cán bộ cấp cao, anh được cấp đất – 3090 mét vuông ở khu Nhật Tân! Những người cấp đất cho anh toàn là loại cựu chiến binh, cho nên cấp thẳng băng, không toan tính, cầu lợi. Nhưng, có đất rồi thì phải có kinh phí để thực hiện dự án. Anh đôn đáo đi chạy kinh phí. Tới đâu, anh cũng dở tập dự án dày cộp với những hình vẽ chằng chịt, những con số rối mắt ra để thuyết phục người có quyền cấp tiền! Lí của anh cứng lắm cho nên anh không bị chối từ. Nhưng những thứ mềm mại thì anh thiếu, nhất là thủ tục đầu tiên anh có quá ít, nên kinh phí chỉ rót nhỏ giọt. Mà công  việc thì bộn bề: Nào là đo đạc, cắm mốc. Nào là đền bù, giải toả. Nào là san ủi. Rồi còn xây tường bảo vệ. Trăm thứ bà rằn ấy đều cần có mỗi một thứ là tiền! Với tinh thần cảm tử, anh quyết làm bằng được. Khốn nỗi, những nguyên tắc kinh tế, anh không rành lắm. Anh động viên bên san ủi ứng trước tiền để tiến hành thi công. Anh kí nhận nợ với địa phương tiền đền bù, giải toả. Anh đề nghị bên xây dựng ứng tiền trước xây tường bảo vệ. Rồi còn các khoản chi phí cho những quan hệ, anh cũng vay để chi. Anh chi tiền với một phong cách quá ư lãng mạn - cứ chi, chi cho được việc! Thấy thế, Lương khuyên: “Anh nên thận trọng, thời buổi kinh tế thị trường này lắt léo lắm, anh cần đối chiếu với những nguyên tắc để không bị vi phạm!”. Vẫn với niềm tin ngây thơ, Công khẳng định: “Dự án thế nào cũng thành công, lúc quyết toán, sẽ trang trải hết công nợ!”. Và rồi anh tiếp tục thuê mướn, chi phí giao dịch và tiếp tục kí nợ! Cảm tử ký nợ! Thế là anh trở thành con nợ!

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, ngẩng mặt lên thì hoàng hôn đã ập đến – anh đã tới tuổi về hưu! Anh cũng định hạ cánh nhẹ nhàng cho yên tuổi già, nhưng khốn nỗi khi bàn giao, người ta chỉ nhận đất và dự án, chứ nhất quyết không nhận nợ! Lúc ấy, anh mới toát mồ hôi: làm sao trả nợ đây! Thế thì, đâm lao đành phải theo lao, anh làm đơn xin ở lại thực hiện nốt dự án! Điều này là trái lẽ thường. Mọi người đến tuổi đều về hưu để được hưởng cuộc sống an nhàn, để thực hiện luật lao động. Cho nên anh không được ở lại theo nguyện vọng. Gặp Lương, anh không giữ nổi bình tĩnh:

- Thế này thì tôi chết mất! Phải để cho tôi ở lại, thực hiện trọn vẹn dự án, mới trả được nợ chứ! Còn không, thì phải nhận công nợ kèm theo dự án...

Lương rất thông cảm với anh, nhưng thấy vướng quá. Bên cạnh những khoản nợ do bên B hoặc địa phương ứng trước để thực hiện dự án, còn một số khoản tiền mà anh vay dùng khi giao dịch, cũng tới cả trăm triệu, không chứng từ, ai mà dám nhận! Lương đề xuất với Cơ quan nên nhận dự án kèm theo những khoản nợ có chứng từ và khoanh những khoản nợ không có chứng từ lại, nhưng không được cấp trên chấp thuận. Anh Công bắt đầu cùng quẫn. Hôm ấy, anh mặc bộ quân phục, đeo đầy huân chương, huy chương, kỉ niệm chương lên Cơ quan:

- Tôi không về hưu! Tôi phải được làm tiếp công việc để giải toả công  nợ!

Khốn nỗi, lời nói của anh như gió bay. Không ai muốn xắn tay vào gỡ mối bòng bong ấy. Chẳng ai muốn nhận trách nhiệm về mình! Những nhà kế hoạch, nhà tài chính nhìn thấy anh thì lảng. Cả nhà tổ chức cũng vậy. Thói bàng quan với nỗi khó khăn của đồng nghiệp và thói đùn đẩy trách nhiệm dường như một căn bệnh truyền nhiễm, đang ngày một lan rộng trong cuộc sống này!

Lương đưa anh Công vào phòng làm việc. Lương nhẹ nhàng khuyên anh:

- Thôi, anh cứ bình tĩnh. Việc về hưu thuộc chính sách, anh nên thực hiện. Còn công  nợ, chắc rằng Cơ quan sẽ có trách nhiệm với anh!

Anh nhìn Lương vẫn bằng đôi mắt sáng nhưng không còn ánh lên niềm tin nữa:

Dần dần, anh Công nguôi ngoai!

Thế nhưng, sự việc cứ lặng lờ trôi theo năm tháng. Hôm ấy, đến cổng cơ quan thì Lương gặp anh Công đang đứng ở thường trực. Anh khoác trên mình một chiếc chăn to đùng. Tay anh xách một cái can nặng trịch. Anh em bảo vệ cầu cứu Lương:

- Anh ơi, ông ấy định tự thiêu tại đây, anh giải quyết giúp chúng em với!

Lương lật đật dựng xe, kéo anh Công vào phòng. Nhìn anh, Lương thẫn thờ. Anh già đi nhanh quá. Da mặt anh bủng beo, trong trong, mọng nước. Trên khuôn mặt có những vết hõm vì thương tích chiến tranh, giờ đây chằng chịt các vết nhăn. Đôi mắt anh trũng sâu, mờ đục. Nét mặt anh đờ đẫn. Anh Công nói thều thào:

Lương rót nước đưa anh. Anh cầm cốc nước nhưng không uống, ngực phập phồng. Mãi sau, anh mới nhấp một hớp nước rồi nói:

- Mình không sợ chết cậu ạ! Mình phải tự thiêu để họ biết!

Lương nhìn thẳng vào mắt anh, nói giọng nghiêm khắc:

- Không, anh Công ơi, người Cộng sản không được đấu tranh một cách tiêu

cực. Khi chống giặc ngoại xâm, chúng ta cần cảm tử, hi sinh. Nhưng trong đấu tranh nội bộ, chúng ta không được liều chết! Bởi vì liều chết sẽ đồng nghĩa với tiêu cực! Chúng ta phải tồn tại để đấu tranh tới cùng!

Như tỉnh ra, anh Công dịu lại rồi cởi chăn, gấp lại, ôm về.

Thế rồi anh Công về hưu. Thế rồi dự án nhà sáng tác bị đình chỉ. Cơ quan không đầu tư tiếp mà trả lại đất cho Chính phủ! Chính phủ thông báo sẽ giao lại quyền cho Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội để giao cho đơn vị nào có nhu cầu và được xét duyệt. Khoản nợ, sẽ khoanh lại đó, ai nhận đất sẽ thanh toán, kể cả các chi phí phát sinh. Như lấy lại được sức mạnh, anh Công xăng xái đi tìm đối tác. Năm ba đơn vị đã dậm dạp việc chuyển giao, nhưng rút cục chẳng đơn vị nào tiếp nhận, vì không có kinh phí. Hàng năm trời trôi qua. Thời gian ấy đem lại bao mối đe doạ đối với anh Công. Các chủ nợ muốn vạc mặt anh Công ra, nhưng khốn nỗi khuôn mặt ấy chỉ toàn là những vết sẹo chiến tranhnhững nếp nhăn hoà bình, đâu phải là nơi chứa tiền nong vàng bạc, cho nên chẳng ai nỡ vạc mặt anh. Cũng bởi vậy, anh Công không phải cảm tử với ai, anh chỉ phải cầm cự với các khoản nợ. Nhưng khổ nhất là phải giữ đất. Thời này, người ta chiếm đất như hôi cá, sểnh ra là có người đến “xí phần” ngay lập tức. Anh Công rạc người vì bám giữ đất. Cực chẳng đã, anh lại phải thuê chính quyền địa phương trông coi. Thế là lại thêm những khoản chi, thêm những khoản nợ! Mãi đến một hôm, anh báo với Lương: “Có Công  ty Vận tải biển muốn nhận đất. Ông viết giúp tôi cái công văn cho Uỷ ban khẳng định lại quan điểm của Cơ quan là quyền cấp đất nay thuộc Uỷ ban, đơn vị nào được Uỷ ban cho phép nhận đất, Cơ quan sẽ giao đất, với điều kiện họ phải thanh toán các khoản chi phí của dự án!” Mừng quá, Lương liền gửi công văn cho Uỷ ban. Lương và anh Công có ngờ đâu rằng, lúc này đang sốt đất, cùng lúc với Công  ty kia xin nhận, thì ông Nguyễn Trương Già, Giám đốc mới của Khu Sáng tạo, người đã từ chối nhận dự án Nhật Tân, nay lại hăng hái đi tìm đối tác bàn giao đất! Chẳng mấy mất công, ông ta đã gặp được người tâm đầu ý hợp: Công  ty Công  trình điện sẵn sàng nhận đất, đền bù khoản kinh phí mà Bộ đã bỏ ra, ngoài ra, còn một khoản lót tay không nhỏ (tất nhiên họ lờ đi khoản chi phí phát sinh mà anh Công đã ứng trước). Ông ta khôn khéo chạy lên Cơ quan xin công văn thoả thuận. Tránh Hành chính, ông sang Vụ Kế và nhận dược Công  văn với ý lấp lửng: “Khu Sáng tạo có trách nhiệm thu hồi tiền và giải quyết khu đất Nhật Tân theo thẩm quyền!”

Lại nói Uỷ ban, sau khi đã gửi công  văn đồng ý cho Công  ty Vận tải biển khảo sát, lập dự án để Uỷ ban xem xét, lại nhận được đơn xin cấp đất của Công  ty Công  trình điện và công  văn của Vụ Kế, cho nên lại ký một công văn nữa đồng ý cho nơi này khảo sát, lập dự án để Uỷ ban xem xét. Thế là xảy ra tranh chấp. Tất nhiên, việc cho một lúc hai hay nhiều đơn vị khảo sát, lập dự án để lựa chọn, giống như mời nhiều nhà thầu vào thi đấu để chọn lấy một, là chuyện bình thường. Nhưng vốn quen làm ăn theo lối mạnh vì gạo, bạo vì tiền, Công ty Công trình điện tấn công tới tấp. Họ chuyển ngay trên 300 triệu đồng cho Khu sáng tạo để xí phần. Họ viết đơn đi khắp nơi khiếu nại việc Uỷ ban cùng một lúc cấp một mảnh đất cho hai đơn vị (Thực ra, đã có quyết định nào cấp đất đâu!). Họ bàn mưu dùng dư luận gây sức ép buộc Uỷ ban phải loại Công  ty Vận tải biển! Họ tận dụng mọi mối quan hệ để tạo xung lực tấn công. Ông Giám dốc Khu Sáng tạo có một đệ tử là Cao Băng Lường có một cậu em cột chèo làm ở báo Lính Dân – nhà báo Đỗ Phó Thụ! Tài liệu nhanh chóng được cung cấp, xử lý. Chỉ mấy hôm sau, trên trang nhất báo Lính dân, xuất hiện một bài báo dài, có hàng tít lớn: “Những uẩn khúc trong việc giải quyết khu đất Nhật Tân”. Nhà báo đại tài Phó Thụ cao giọng phê phán gay gắt Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội dám cấp một mảnh đất cho hai chủ khác nhau, lại còn dựng chuyện ông Công đã nhận hàng tỷ đồng, gây thiệt hại cho Nhà nước. Thế là guồng máy đang quay bỗng đứng khựng lại! Thế là ông Công tiếp tục ôm nợ!

Không biết rồi sự việc sẽ di đến đâu! Nhìn anh Công, Lương đau lòng quá. Người chiến sĩ cảm tử Thủ đô năm nào giờ đây nằm bất động, mắt nhắm nghiền. Anh nghĩ gì lúc này? Anh có nhớ tới cuốn sách của anh viết về thời oanh liệt của những chiến sĩ quyết tử Thủ đô năm nào do Nhà Xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản mà anh tặng Lương, với đầu đề thật có ý nghĩa: Bão phố. Phố phường năm ấy nổi giông bão chống giặc ngoại xâm. Nay bão phố đang nổi lên trong hoà bình bởi những người cùng một trận tuyến! Lương chua chát nghĩ rằng tinh thần cảm tử của anh Công bây giờ giống như thứ đồ dùng cũ của nhà nghèo, đối với bản thân họ thì vô cùng quý giá, nhưng đối với những nhà giầu thì chả khác nào mớ giẻ rách cần cho vào sọt rác. Lương nắm chặt tay anh, hứa: “Anh cứ yên tâm, tôi sẽ tìm cách giải toả khúc mắc, giao đất, nhận tiền, trả nợ thay anh!” Bàn tay anh Công chợt nóng rẫy lên như thỏi thép vừa lấy từ lò nung ra, rồi đột ngột lạnh ngắt như băng. Lương hoảng hốt bóp mạnh tay anh: “Anh Công ơi, đừng đi vội! Anh còn phải ký giấy uỷ quyền cho tôi thay anh giải quyết khu đất đã chứ!”...                 

                                                   

                                                                      Tháng 9 – 10 năm 2002 

                              

 

SỰ TÍCH GIỐNG NGÔ HAI THÁNG

 

     Chuyện xảy ra vào ngày xưa, nhưng chưa xa lắm, vào cái thuở mà cả nước Việt Nam đang tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước. Trên dải Trường Sơn đang hiện dần lên con đường mòn xuyên rừng, len lỏi từ phía Bắc vào, lên Tây Nguyên, vào tuốt phía Phú Yên, Khánh Hòa... mà người ta gọi là đường Hồ Chí Minh. Vào thời ấy, ở vùng Nước Ngheo, thấp thoáng dưới tán rừng đại ngàn, có những ngôi nhà tranh vách nứa đơn sơ, trong đó có những người trẻ tuổi. Họ từ nhiều vùng quê tới đây: Hà Nội, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Giang, Tuyên Quang... Họ là những người đầu tiên của Làng Sản - Ban Nông Nghiệp Khu. Việc của họ là làm sao cho cả vùng Khu Năm này lúa ngô tràn đầy, cuộc sống no ấm. Đó là việc làm lâu dài, còn vào những ngày đầu ấy, họ chỉ có việc đơn giản là làm nương rẫy, gùi cõng lương thực, thực phẩm từ đồng bằng về để nuôi sống chính mình.

     Cách khu rừng già kia hai ngày đường là vùng Đak Ta đất đai mầu mỡ với những rẫy sắn, rẫy ngô xanh tốt. Nơi này là khu sản xuất của Làng Sản, do năm cô gái đảm nhiệm. Các cô có những cái tên nghe thật êm tai: Bình, Yên, Hòa, Thuận, Doan.

  Mùa xuân, Tây Nguyên sáng lên trong ánh nắng, rộn ràng tiếng đàn ong mật bay về các vùng nhiều hoa trò. Trên một mảnh rẫy nghiêng nghiêng sườn núi, các cô gái Làng Sản cắm cúi làm cỏ ngô. Thứ ngô này cao to, khỏe, rễ bám sâu vào sườn núi, luồn cả vào những hốc đá. Đó là loại ngô nếp sáu tháng, bắp to, hạt dẻo và ngọt, nhưng sinh trưởng dài ngày. Chờ từ ngày chọc lỗ tra hạt tới khi bắp vào hạt, mẩy lên, chắc lại, con người đến ngút hơi. Mà lương thực thì luôn thiếu hụt. Nhất là vào những ngày này, trời khô ráo, bọn Mỹ ngụy tăng cường đánh lên căn cứ, đường xuống đồng bằng bị bịt chặt, gạo không còn một hạt.

Vừa lúi húi nhổ cỏ, năm cô gái vừa râm ran trò chuyện. Bình, cô gái Hà Nội có dáng người thon thả, vừa vuốt mồ hôi, vừa ao ước:

- Giá như bây giờ mà bắp đã được thu hoạch thì sướng biết bao!

Thuận, cô gái người Quảng Nam, buồn bã:

- Mới trồng được gần hai tháng, phải hơn bốn tháng nữa mới được thu hoạch, còn lâu!

Hòa, cô gái người Ninh Bình, gợi ý:

- Ngoài mình có giống ngô ba tháng, giá mà đem vào đây trồng  được thì vui biết bao!

Yên, cô gái người Bình Định, tiếc rẻ:

- Uổng thiệt, ngoài đó xa xôi, cách trở quá, làm sao đem được giống ngô ba tháng vô!

Cô gái trẻ nhất có tên là Doan, người Cơ Tu, bảo rằng:

- Già làng mình vẫn nói Giàng có phép lạ, giúp mình cầu ước được! Em cầu ước cho ngô của mình thành giống ngô nhanh vào hạt, hạt nhanh mẩy, chóng chín để  căn cứ sớm có lương thực!

Thật bất ngờ, Doan vừa dứt lời thì trời sáng lên rực rỡ, tỏa hào quang muôn hồng ngàn tía. Từ một đám mây ngũ sắc, một ông già quắc thước nói vọng xuống, giọng vang như sấm rền:

- Ta sẽ giúp các con làm cho bắp mau chín, các con có ưng bụng không?

- Dạ, ưng lắm ạ!

- Được! Ta sẽ giúp các con, chỉ yêu cầu các con một điều là các con phải dâng hiến tuổi xuân cho đất trời!

Dù bất ngờ, nhưng cả năm cô gái đều đồng thanh trả lời:

- Chúng con sẵn sàng!

Ông già cười lớn:

- Ta biết ngay là các con dám làm. Từ nay, hàng ngày các con phải lấy mồ hôi của mình tưới cho ngô, hàng đêm các con phải lấy hơi ấm của mình ủ cho ngô. Cứ như vậy liền một tuần, các con sẽ có giống ngô hai tháng! Nhưng đổi lại, các con sẽ trở thành người già như ta!

Lời nói cuối cùng của ông già làm các cô ngạc nhiên và lúng túng. Bởi vì, khi đã tình nguyện tham gia cuộc kháng chiến, sống ở chiến khu đầy gian khổ và ác liệt này, các cô đã tình nguyện hiến dâng tuổi xuân cho đất nước. Nhưng dâng hiến cụ thể để trở thành người già nua ngay khi còn xuân sắc, chuyện lạ quá! Tuy vậy các cô vẫn đồng thanh đáp lại:

- Chúng con sẽ làm theo lời ông!

Ngày đầu tiên đã đến. Trời dội nắng lửa một cách khác thường. Rừng cây hấp hơi nóng hừng hực. Lá cây rũ ra, héo vàng. Các cô gái cắm cúi làm cỏ, mồ hôi ướt đẫm áo và chiếc khăn rằn quấn cổ, ướt cả chiếc mũ tai bèo trên đầu. Mồ hôi nhỏ giọt xuống rẫy. Thỉnh thoảng, các cô lại tháo khăn vắt mồ hôi vào gốc ngô. Có lúc, các cô còn cởi áo, vắt mồ hôi nữa. Đất rẫy nồng mùi nắng, hút lấy hút để những giọt mồ hôi mát mặn của năm cô gái. Đêm đến, năm cô đi vào giữa rẫy, đứng vòng tròn, nắm tay nhau bao lấy chòm ngô giữa rẫy, lấy hơi ấm sưởi cho chúng. Khí núi lạnh thấu xương luồn vào tim phổi từng cô. Hòa ho húng hắng. Thuận ho sù sụ. Bình run lẩy bẩy. Yên cóng chân cóng tay không cử động được. Doan khỏe hơn, vì cô là người miền núi, quen với thông thổ rồi. Cô bảo các bạn dậm chân đều đặn cho ấm người lên. Một ngày, một đêm qua đi.

Một ngày mới lại đến. Mặt trời vừa nhô lên khỏi ngọn núi phía Đông đã nhăn nhó phóng ra những tia nắng rừng rực. Năm cô gái vẫn mải miết nhổ cỏ, đổ mồ hôi. Khát, khát cháy họng. Mặc dù có cả một nồi nước nấu bằng lá mâm xôi, nhưng cả năm cô đều uống dè xẻn, sợ rằng uống nhiều nước, mồ hôi bị pha loãng, kém vị mặn, ngô không đủ sức chuyển hóa. Đêm đến, trời chợt mưa dữ dội. Rừng Trường Sơn chuyển động ào ào như có hàng bầy thú hoang đua chạy. Gió rít lên từng hồi, phả hơi lạnh thấu xương. Những hạt mưa quất rát rạt làm các cô xây xẩm mặt mày. Năm cô gái vẫn nắm chắc tay nhau, dậm chân, nhẩy xoay vòng theo điệu nhảy tung tung - da dá của người Cơ Tu do Doan hướng dẫn. Và giữa tiếng hú của gió rừng, các cô nghe văng vẳng tiếng đàn tơ rưng rộn rã. Tiếng đàn như ngọn lửa nồng nàn sưởi ấm các cô...

 Cứ thế, năm cô gái trẻ vượt qua cái nắng lửa ban ngày, cái giá lạnh ban đêm, lòng mong cho mau chóng có giống ngô mới ngắn ngày cho vùng căn cứ cách mạng.

Đêm thứ 6 đã tới. Trời đang mưa xập xùi, bỗng tạnh ráo, ánh hào quang lại bừng lên và vọng xuống một giọng nói sang sảng:

- Ta khen các con đã chịu đựng được thử thách! Chỉ hết đêm nay, hết ngày mai, các con sẽ thành công. Lúc ấy, rẫy ngô này sẽ chín vàng và các con sẽ có giống ngô hai tháng. Nhưng ta nói lại cho các con rõ, để có giống ngô mới cho vùng này, các con sẽ trở thành người già! Nếu không muốn như vậy, các con có thể rút lại lời nguyền, vẫn chưa muộn! Các con nhìn thử ta mà coi!

Một vùng ánh sáng bất chợt bừng lên, làm hiện rõ khuôn mặt một người đàn bà già nua, móm mém và nhăn nhúm.

- Đó, hình ảnh ngày mai của các con đó, các con nghĩ cho chín đi!

Chỉ nhìn thoáng qua gương mặt người già trên trời, cả năm cô Doan, Bình, Yên, Thuận, Hòa đồng thanh đáp:

- Chúng con xin chấp nhận!

Vùng ánh sáng biến mất. Mưa ngớt hạt rồi tạnh ráo. Trời đã sáng bạch. Cũng lúc ấy, năm cô nghe tiếng gọi ở đầu rẫy:

- Có ai ở đây không?

Các cô nhận ra đó là Phạm Hồng, họa sĩ của Ban Tuyên Huấn Khu Năm. Anh đi tìm lương thực cho Ban nhưng chưa được, ghé vào nghỉ nhờ trại sản xuất. Thấy các cô vắt mồ hôi tưới cho ngô, Hồng ngạc nhiên hỏi:

- Sao các em lại tưới ngô bằng mồ hôi?

Lúc này, năm cô mới kể cho Hồng nghe chuyện đang luyện để có giống ngô hai tháng. Vốn tính bộc tuyệch, Hồng nói:

- Giống ngô hai tháng cần lắm, nhưng tuổi xuân của các em cần hơn! Thôi, nghỉ đi, ta chịu khó phát nương làm rẫy, rồi sẽ có nhiều lúa, nhiều sắn!

- Không! Trồng cây sắp đến ngày ăn quả rồi, chúng em nhất quyết làm bằng được!

Không ngăn được ý chí của các cô gái, ngẫm nghĩ một hồi, Phạm Hồng đề xuất:

- Thôi, anh sẽ dùng nghề của mình giữ lại tuổi xuân của các em! Anh sẽ vẽ chân dung từng em!

Tuy vậy Hồng rất lúng túng vì không có giấy, bút, mầu! Nhìn quanh một hồi, Hồng bỗng "à!" một tiếng và xăm xăm vạch rừng bước tới. Trước mắt anh là những hàng cây cao lớn, đủ loại: Cây trường vỏ đỏ, nhựa đỏ như mầu môi con gái tuổi dậy thì, cây vả nhựa trắng đục như sữa, cây sơn nhựa đen láy như tóc con gái... Anh dùng dao găm rạch vỏ cây, hứng nhựa. Cây rừng đã cung cấp cho Hồng các thứ mầu cần thiết để vẽ. Anh bẻ cọng cây đùng đình làm bút vẽ. Anh đi lên phía ngọn rẫy, phát cây thì thấy hiện ra một vách đá mầu trắng toát, dựng đứng, phẳng lỳ. Anh gọi:

- Nào, các em lên đây để anh vẽ!

- Không được, chúng em không được rời rẫy!

Hồng chạy xuống, ngắm kỹ gương mặt trẻ trung của từng cô gái rồi lặng lẽ ngược lên đầu rẫy. Những ống tre đựng mầu, anh dựng vào vách đá. Rồi anh cắm cúi vẽ, quên hết mọi thứ trên đời - quên cả cái buốt thon thót do con mòng trâu đốt, quên đói, quên nóng. Ngọn bút như xuất thần, vờn mầu thoăn thoắt, mềm mại, làm hiện lên trên vách đá chân dung năm cô gái, dịu hiền và sống động. Khi bức tranh cuối cùng hoàn thành, trời cũng vừa đứng bóng. Hồng thu dọn đồ đạc, nói với các cô gái:

- Các em nghỉ tay một chút, lên nhìn thử tranh anh vẽ xem có giống các em không?

- Cảm ơn anh, nhưng chúng em không được phép dừng tay!

Hồng đành về trại, trút những hạt gạo cuối cùng ra nấu cháo đem lên rẫy cho các cô gái rồi lên đường về cơ quan.

Chiều hôm ấy, vừa nhổ xong bụi cỏ ở gốc ngô cuối rẫy, đứng dậy, Doan chợt thấy những trái bắp trên những cây ngô cạnh mình đã tròn mẩy, bao vàng ruộm, râu đen quăn queo. Cô reo to:

- Bắp chín rồi, ta có giống ngô hai tháng rồi các chị ơi!

Bốn cô gái đều dừng tay, đứng thẳng người lên và bước lại phía Doan. Cùng với tiếng reo mừng rỡ là tiếng ồ ngạc nhiên. Năm cô gái không nhận ra nhau nữa. Trước mắt mỗi người là bốn bà già móm mém, nhăn nhúm...

Từ đấy, trên vùng căn cứ khu Năm, xuất hiện giống ngô ngắn ngày, chỉ gieo trồng hai tháng là được thu hoạch. Thứ ngô này trái nhỏ nhưng hạt đều tăm tắp, mỡ màng, thơm dẻo như gạo nếp vùng đồng bằng Bắc bộ. Giống ngô hai tháng được nhân rộng ra khắp vùng, trở thành thứ lương thực xen vào lúc giáp hạt, cứu đói biết bao đồng bào và cán bộ, chiến sĩ khu Năm. Và trên vách đá vùng Đak Ta, vẫn in đậm bức tranh chân dung năm cô gái trẻ trung, xinh đẹp đã hiến dâng tuổi xuân cho đất nước!

                                                                     

 

 

 

 

 

 

Lời nguyền của một bài ca

 

                                                                    

1. Cuộc đời của nhạc sĩ Trần Ngọc sao lắm nỗi truân chuyên. Sau khi tốt nghiệp loại ưu chuyên ngành sáng tác tại nhạc viện Tchai cốp xki thuộc Liên Xô về nước, ông xin về một tỉnh miền núi công tác.  Mấy người bạn bảo rằng ông “hâm”, lẽ ra với tấm bằng đỏ, ông phải ở lại Hà Nội làm việc trong dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia. Thế nhưng, ông lại nghĩ khác. Là con của núi rừng, ông lại về với núi rừng. Ông yêu rừng núi như một lẽ tự nhiên. Ông yêu tất cả những gì mà rừng núi quê ông có, từ dáng núi Thắm hùng vĩ in bóng thẫm trên nền trời trong những buổi hoàng hôn cho tới con sông Quang nước trong vắt uốn lượn êm đềm vào mùa xuân và đục ngầu chồm lên như bầy ngựa hoang trong mùa hè ngay phía đầu hồi nhà ông. Và ông yêu nhất là những âm thanh phát ra từ rừng núi quê ông. Tiếng sấm từ thinh không dội xuống thung sâu tạo nên âm hưởng rền vang, thẳm sâu và bí ẩn như chính sự bí ẩn của đại ngàn. Tiếng gió gào quẩn trong rừng cây như lời than thở khôn nguôi của Khuôn Lú và Nàng ủa, đôi tình nhân chịu nỗi oan nghiệt chia lìa nhưng không chịu rời nhau. Cả khi những thân cây cổ thụ cọ vào nhau trong các cơn bão tố, phát ra tiếng nghiến ken két cũng gợi cho ông những xúc cảm kỳ lạ như nghe thấy tiếng rừng giận giữ. Tiếng con mang tác cô đơn và lạnh lẽo. Tiếng con hổ gầm vừa dữ dội vừa đầy gợi cảm về một sức mạnh bị dồn nén chỉ muốn bung ra phá phách. Tiếng con chim bách thanh véo von khoe đủ loại giọng làm sáng cả một vùng rừng và mát cả hồn ông. Và nữa, tiếng đàn, tiếng hát của người dân quê ông tạo cho ông một cảm hứng bất tận về sinh lực của âm nhạc...

Cho nên ông phải về quê hương để lắng hồn rừng và tìm âm thanh cho những bản nhạc của mình. Vào đoàn văn công tỉnh, ông ít khi quẩn quanh nơi thị xã, mà thường len lỏi về các bản làng để sưu tầm dân ca, để tìm hiểu về các loại nhạc cụ. Ông yêu nhất là cây sáo có giọng trầm của người Mông. Để có nó, ông đã lặn lội bẩy ngày, lên tận chót vót ngọn núi Thắm sau khi vượt qua ba vách đá tai mèo sắc lẹm, vào ở với bản Mông suốt cả tuần. Ngày cùng lên rẫy bẻ ngô, ăn món mèn mén  - thứ bột ngô đồ chín thường làm nghẹn họng - cùng với bí xanh xào mỡ lợn, tối lại say sưa cùng đám thanh niên thổi kèn lá, thổi sáo, ông như được dẫn vào một mê cung của âm thanh. Tiếng sáo mà người con trai Mông thổi vào canh khuya vừa có giọng réo rắt tha thiết mời gọi, vừa có giọng trầm ấm thủ thỉ tâm tình, cuốn hút ông vào một thế giới tâm hồn mênh mông bất tận. Ông sưu tập được cả một bộ sáo Mông bẩy chiếc, từ nhỏ đến to, với các loại âm sắc khác nhau, từ lảnh lót đến trầm ấm. Những cây sáo ấy trở thành nhạc cụ độc đáo của đoàn văn công Hoàng Liên, đem về cho Đoàn Huy chương vàng trong Hội diễn nghệ thuật toàn quốc. Thế nhưng, ông chưa hài lòng. Bởi vì, sáo Mông tuy hay thật, nhưng thường bị thay đổi theo thời tiết, tạo ra độ chênh trong âm thanh, khó thể hiện chính xác những bản nhạc hiện đại. Ông mong muốn có loại trúc cứng rắn như thép, không bị dãn nở khi trời ẩm hoặc co lại khi trời hanh để làm ra những chiếc sáo chuẩn. Biết ý định của ông, Vương Chí Duy, người con trai Mông, thủ thỉ: “Trời sinh cây trúc ấy rồi, nhưng nó mọc trên cao lắm. Cha mình bảo rằng phải trèo lên tận chóp ngọn Vân Vi mới lấy được nó”. Trần Ngọc hăm hở: “Đi, dù leo núi vất vả mấy ngày đường, mình cũng đi, Duy đưa mình đi nhé!” Vương Chí Duy cười chân thật: “Đi, thì đi thôi, nhưng phải chờ hai năm nữa, phải đợi khi cây trúc tròn trăm tuổi mới lấy được nó về”.

Trần Ngọc tiếp tục lặn lội vào các bản làng sưu tầm và sáng tác. Âm nhạc của Trần Ngọc có sắc thái độc đáo, thẳm sâu như lòng người, hùng vĩ như dãy Hoàng Liên, lại mát như nước suối đầu nguồn và ấm như  ngọn lửa trên bếp nhà sàn. Những bài hát của Trần Ngọc chứa đựng tình yêu tha thiết của ông với rừng, với người, với vốn nghệ thuật truyền thống trầm tích trong các bản làng nơi thung sâu núi cao. Nhưng, ông vẫn đau đáu chờ đợi cái mùa xuân ước hẹn với Vương Chí Duy...

Và ngày ấy đã đến. Xuân trên rẻo cao rạng rỡ với sắc trắng của hoa mận, sắc hồng của hoa đào và mầu xanh mướt mát của chồi non lộc biếc. Trần Ngọc hăm hở leo qua bẩy con dốc, vượt qua ba vách đá tai mèo, trở lại với bản Mông của Vương Chí Duy. Ngay sớm hôm sau, hai người đeo giỏ, cầm dao phát băng rừng lên mỏm Vân Vi. Luồn lỏi một hồi, hai anh em đã bị những hạt sương đọng trên lá rừng thấm ướt đẫm áo quần. Trong cái tĩnh lặng của rừng, Trần Ngọc nghe rõ tiếng con tim mình đập thình thịch, không hiểu vì leo dốc mệt, hay vì hồi hộp  trông chờ vào điều thần diệu sắp tới. Vương Chí Duy lầm lũi đi trước. Dáng người khom khom, đôi chân săn chắc như chiếc bắp cày của Duy đạp đá tai mèo, đưa anh băng lên đỉnh dốc. Trần Ngọc lầm lũi theo sau. Nắng lên sưởi ấm rừng cây, khơi dậy sức sống của muôn loài, khiến cho nước cũng xao động, bốc hơi ngùn ngụt, tạo thành những đám mù bảng lảng khiến cho Trần Ngọc cảm thấy mình đang bồng bềnh trong cõi tiên. Mê mải đi trong suy tưởng và hy vọng, Trần Ngọc đã đến sát mỏm núi mà không hay. Ông giật nảy mình khi Vương Chí Duy giật tay ông, nói như reo:

Trần Ngọc  ngỡ ngàng nhìn theo hướng tay Duy. Trên mỏm đá dựng đứng, một khóm trúc vươn cao, rắn rỏi. Vút lên kiêu hãnh giữa bầu trời xanh ngắt là những ngọn trúc vàng óng như tơ ươm, với những chùm hoa trắng xoá như tuyết. Gió ở trên cao này sao mà phóng khoáng, đua nhau vờn quanh khóm trúc. Trong gió lộng, những chùm hoa trắng phấp pha phấp phới như  có ý vẫy gọi Trần Ngọc. Ông vượt lên trước Vương Chí Duy, băng lên mỏm núi. Bỗng nhiên, đá dưới chân ông sạt lở, kéo ông lăn xuống vực. Trần Ngọc  chìm trong một vùng tối đen đặc...

Khi Trần Ngọc  tỉnh lại thì ông đã ở bệnh viện tỉnh. Không rõ bằng cách nào mà Vương Chí Duy đã cứu ông thoát khỏi thần chết và đưa ông về đây. Không những thế, Vương Chí Duy còn đem theo cho ông mười đoạn trúc của khóm trúc trăm tuổi nữa. Bó trúc được buộc lủng lẳng phía đuôi giường bệnh viện, khiến cho khi vừa mở mắt, Trần Ngọc đã nhìn thấy nó. Nước mắt ông trào ra trong khi trong tai ông vẳng lên giai điệu của bản nhạc thiên nhiên vừa vui náo nức vừa buồn não nề. Ông đã phải trả giá quá đắt cho nỗi đam mê của mình: chân trái của ông bị đá quật nát, trở nên vô dụng. Anh chị em trong đoàn Văn công  tiễn ông về hưu non trong niềm thông cảm vô bờ và sự nuối tiếc chân thực.

Cứ như thế, Trần Ngọc sống tiếp cuộc đời của mình với tư cách một người tàn tật. Ông chống nạng quanh quẩn vườn nhà. ẩn dật, nhưng Trần Ngọc không từ bỏ âm nhạc. Mười ống trúc được ông ngâm bùn suốt một năm, rồi gác lên gác bếp suốt một năm nữa. Sau đó, ông hí hoáy khoét lỗ, chỉnh sửa những đoạn trúc thành những cây sáo có âm vực rộng lạ kì, vừa trầm ấm vừa trong trẻo đầy gợi cảm.

...Hôm ấy, mưa bất chợt. Rừng mịt mù trong màn mưa bụi giăng giăng, lạnh lẽo và u buồn. Một mình trong căn nhà sàn cô đơn, Trần Ngọc chọn cây sáo bầu giọng trầm từ trên giàn xuống, đến bên bếp lửa. Ông ngồi xếp bằng tròn, ghé miệng vào lỗ sáo và nhả hơi nhè nhẹ. Tiếng sáo thoang thoảng một giai điệu mênh mang không sắc thái. Ông thổi mạnh dần, mạnh dần. Tiếng sáo ngân lên cái âm sắc trầm ấm như lời thủ thỉ của lòng người. Ông nhả hơi nhẹ nhàng. Tiếng sáo dịu xuống, như làn sương mù buổi sớm luồn trong các tán lá.... Trời buông màn đêm xuống lúc nào không hay. Tiếng sáo vẫn mênh mang, dìu dặt. Trần Ngọc như bị một sự mê hoặc thần bí lôi cuốn, cứ tấu mãi một bản nhạc ngẫu hứng không chủ định... Và rồi, tự chìm đắm trong tiếng nhạc của mình, ông thiếp đi lúc nào không hay. Một giấc mơ kỳ lạ đến với ông. Giấc mơ đưa ông về cái thời mà lịch sử ghi lại rằng có cụ Nguyễn Trãi dâng biểu tâu vua giữ lấy nhạc dân dã làm nhạc nước, để thôn cùng ngõ tận đều vang lên những thanh âm ấm áp, rộn ràng, để cho đất nước luôn vui cảnh thanh bình. Ông thấy mình đang lầm lũi bước đi trên một ngọn đồi dưới bóng những cây thông cổ thụ thì bắt gặp một cụ già xồng xềnh trong bộ quần áo nâu. Trần Ngọc nhận ra ngay đó là cụ Nguyễn Trãi. Ông vội sụp lạy. Cụ Nguyễn Trãi ân cần đỡ ông lên, chỉ vào tảng đá ngay bên gốc thông và bảo ông ngồi xuống. Cụ ân cần:

- Ta đã nghe thấy tiếng sáo của con vọng về đây. Điêu luyện lắm, nhưng tiếc thay, lại u uẩn và yếm thế!

Trần Ngọc cả sợ, lại sụp xuống. Nhanh nhẹn nhưng khoan thai, cụ Nguyễn Trãi bước đến đỡ ông dậy lần nữa và nói nhẹ nhàng:

- Ta nói vậy không có ý chê con! Ta hỏi con một điều: âm nhạc sinh ra từ đâu và trở về đâu?

- Dạ thưa cụ, âm nhạc sinh ra từ cuộc sống và lại về với cuộc sống!

- Khá lắm, nhưng là cuộc sống nào, cuộc sống của ai?

- Dạ thưa cụ, cứ như con đã được đọc lịch sử, thì cụ bảo rằng đó là cuộc sống của dân dã...

- Vậy con đang đem âm nhạc đến cho ai đấy?

- Dạ thưa cụ...

- Thôi, con không phải nói nữa, ta đã hiểu. Khúc sáo con vừa tấu lên, không phải từ cuộc sống, mà từ trong tâm tưởng u buồn của con. Nó vô định. Nhưng nó là nỗi lòng của con...

- Dạ thưa, con xin cảm tạ cụ! Cụ đã soi thấu tâm can con!

- Cũng bởi vậy, con hãy nghe đây: Đừng quá u buồn với những nỗi ngang trái ở đời. Cứ nhập thế, đem nhân đức và tài năng mà hiến cho đời. Con cần đem tiếng nhạc làm cho ngõ xóm yên vui. Hoà bình là gốc của nhạc, con có hay chăng?

Một vùng sáng bừng lên trong óc Trần Ngọc. Một quá khứ của chính ông, không phải là tẻ nhạt và đầy bất hạnh như ông vẫn tưởng, hiện lên. Đó là một quá khứ hào hùng của dân tộc. Trần Ngọc lẩm nhẩm: “Đúng rồi, hoà bình là gốc của nhạc, ta nhận ra rồi! Ta dã đi qua chiến tranh, đã có những tác phẩm góp vào cuộc chiến tranh ấy. Nhưng hoà bình, ta lại ngủ yên! ”

Từ sự ân hận chuyển thành một cảm hứng sáng tạo có sức mạnh lạ kỳ, Trần Ngọc vùng dậy lục chiếc cặp trên giàn. Lật bật mở cặp, ông lôi ra tập giấy chép nhạc - ông vẫn để riêng ở đấy từ hồi du học về. Trong cặp còn cả một lọ mực và một cây bút máy mới nguyên. Ông mở nắp bút, mở nút lọ mực... Rồi ông hăm hở viết. Những giòng nhạc như thác tuôn từ chính trái tim ông ra. Được một đoạn dài, ông ngồi im lặng. Bản nhạc quá lạ lùng với một âm vực quá rộng! Trong khi chăm chú nhìn lại những giòng nhạc vừa viết, ông cảm thấy một luồng gió ấm áp thổi nhè nhẹ từ hướng nam về, và trong tiếng lá rừng xào xạc, ông nghe rõ tiếng cả một dàn nhạc giao hưởng tấu lên khúc dạo đầu bản nhạc ông vừa viết, rồi đột nhiên một giọng nữ cất lên... Không thể nói đó là giọng nữ trầm hay cao. Bởi vì khi hát ở cung thấp nhất, giọng hát ấy trầm ấm và dầy dặn. Nhưng khi hát lên đến cung cao, đó lại là một giọng thanh thoát và mượt mà. Lạ hơn nữa, là giọng nữ kia đã hát thành lời những đoạn nhạc ông vừa viết ra. Ông vội vàng chép lời hát ấy vào dưới khuông nhạc. Tiếng gió ngừng, tiếng nhạc cũng ngừng. Núi rừng chìm vào im lặng. Ông lại viết, mải mê và cuồng nhiệt... Đêm trôi qua. Gà gáy. Chim rừng xao xác rời tổ. Ông cũng không hay. Ngày cũng trôi qua. Hoàng hôn phủ xuống với tiếng xạc xào của muông thú và lá rừng, ông cũng không biết. Chỉ còn ông với âm thanh của cuộc đời, một loại âm thanh hòa trộn bởi những giai điệu nồng ấm và chan chứa từ trong tiềm thức, thứ tiềm thức tích lũy suốt mấy chục năm qua trên mảnh đất đầy sóng gió này. Đến khi ông viết xong đoạn nhạc cuối cùng và ngã lăn ra sàn nhà, cũng không biết đã mấy ngày mấy đêm trôi qua rồi! Cụ Nguyễn Trãi lại hiện lên, tươi cười, khen nhưng với giọng nghiêm khắc:"Nhạc đâu phải là những âm thanh được xếp đặt khéo léo! Nhạc phải chứa được tình người, tâm người, trí người, phải là hồn sông núi! Ta khen con đã làm được điều mà dân Việt ta mong muốn, đã đưa được hồn dân tộc vào nhạc, đưa được tâm nhân dân vào nhạc, đưa được khí thiêng sông núi vào nhạc! Nhưng để nhạc đến được với dân, con cần phải tiếp tục dâng hiến!". Nhạc sĩ vừa cảm động, vừa lo lắng: "Thưa cụ, con sung sướng đã làm theo được lời Người chỉ bảo! Nhưng đấy mới chỉ là một bản nhạc trên giấy. Nó còn phải được sống với đời thường nữa. Ai sẽ là người đưa được nó đến với cuộc đời, kính Cụ dạy bảo!"

Cụ Nguyễn Trãi vuốt râu, cười nhân hậu: “Ta lại khen con có tâm với dân, với nước! Có người hát được đấy con ạ. Con cứ đi tìm trong đất nước này người nghệ sĩ nào đã từng lăn lộn với cuộc sống, vào sinh ra tử, đã có nhiều tiếng cười và nưóc mắt, người nghệ sĩ nào đã hát bằng cả tâm lực của mình, thì người ấy sẽ hát thành công bài hát của con!"

Nhạc sĩ sung sướng quá, cảm tạ và định cáo từ cụ Nguyễn Trãi. Nhưng cụ đưa tay ra hiệu cho nhạc sĩ ngồi lại. Cụ nói chậm rãi từng chữ một:"Sáng tạo không phải là việc làm nhằm thỏa mãn sở thích muốn tự biểu hiện mình. Sáng tạo là đem cái tinh túy trong tâm can mình ra hiến dâng cho đời. Bởi vậy, con nên nhớ rằng, khi nào con tìm được người nghệ sĩ ấy, khi bài hát của con đã vang lên hòa cùng hồn sông núi, thì cả con và cả người nghệ sĩ kia sẽ chung một số phận nghiệt ngã. Khi bài hát được cất lên với sức mạnh như của cuộc sống và với độ điêu luyện tuyệt đối của nghệ thuật, thì hoặc con, hoặc người hát sẽ biến vào cõi thinh không". Thấy sắc mặt Trần Ngọc không những không nhợt đi mà còn ánh lên vẻ rạng rỡ, cụ Nguyễn Trãi gật gù: "Cho hay, cuộc sống bao giờ cũng có những bậc hiền tài. Khá khen cho con!..." Hình ảnh của cụ Nguyễn Trãi mờ dần, mờ dần, trong khi giữa thinh không lại vang vọng lời cụ ấm và vang:

- Bui một tấc lòng trung hiếu cũ

  Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng!

 

2. Vào cái thời nhạc sĩ Trần Ngọc mải mê sáng tác ở vùng núi Hoàng Liên thì tại Nhạc viện Quốc gia, có một cô sinh viên thanh nhạc cũng mê mải học tập. Đó là Mai Thu. Sinh ra từ vùng mỏ bên bờ biển Đông, Mai Thu có chất giọng trời phú vừa vang vừa mượt. Tham gia văn công quân đội, từng phục vụ chiến trường, Mai Thu học với tinh thần của người chiến sĩ. Cô khắc kỷ đến lạ kỳ. Ngày nào cô cũng luyện thanh đến rã rời, miễn là chưa khé giọng, khô cổ. Cô tuyệt đối hóa cái tốt và cái xấu. Chất chiến sĩ Trường Sơn quen thẳng băng ranh giới ta - địch kết hợp với chất nghệ sĩ nhạy cảm và đa cảm luôn luôn đem đến cho cô nỗi vui mừng tràn ngập, cũng như sự đau đớn khôn cùng. Một người bạn chỉ giúp cô cất chiếc áo phơi trên sân thượng khi trời mưa, cũng khiến cô cảm động đến chảy nước mắt. Nhưng một người bạn chỉ cần quên không rủ cô đi xem buổi trình diễn ô pê ra do trường tổ chức, cũng khiến cô giận hờn, đau đớn đến dằn hắt. Cô yêu mãnh liệt như bão táp mưa sa và cũng đòi hỏi được yêu nhiệt thành như biển đông cuộn sóng. Thật không may, cô không gặp được những người như cô mơ tưởng. Yêu tuyệt đối bao nhiêu, Mai Thu thất vọng bấy nhiêu khi chung sống với người đàn ông cô lấy làm chồng! Cho nên, đã ba lần Mai Thu lên đò, nhưng con đò nào cũng tròng trành trước sóng gió cuộc đời, quay mũi trở lui, không đưa cô đến bến bờ hạnh phúc. Mà đau đớn nhất là chuyến đò thứ ba. Cô đã yêu đến tận cùng, đã vượt qua mọi dị nghị để đến với anh, một người trẻ tuổi hơn cô, hào hoa và hơi ẻo lả. Cô tưỏng rằng lần này, con thuyền đời sẽ neo chắc tại chiếc bến hôn nhân này. Nhưng chính sự tin tưỏng và tình yêu mãnh liệt của cô đã xô đẩy cô vào một bể khổ mênh mông.

Khởi đầu là chuyện Mai Thu cưu mang một nữ sinh thanh nhạc. Ngay từ hôm tuyển sinh, ngồi ở bàn giám khảo, Mai Thu đã để ý đến cô bé ấy - Thanh Phương. Cô bé khá mạnh bạo và tự tin, đã hát với niềm xúc cảm chân thành bằng chất giọng vang và mượt. Mai Thu hiểu rằng với chất giọng trời phú và tâm hồn nhạy cảm, nếu chịu khổ luyện, cô bé này sẽ thành tài. Khi trường bước vào năm học mới, Mai Thu nhận Thanh Phưong làm học sinh của mình. Đây là một ngoại lệ, vì với trình độ trên đại học ở Nga về, Mai Thu chỉ dạy ở bậc đại học. Thanh Phương quê ở một vùng lúa mà nghèo rớt mùng tơi. Cô bé phải trọ học ở một xóm liều. Biết hoàn cảnh của trò, Mai Thu bảo cô bé về ở cùng với mình, mặc dù nhà cô cũng chật và tuyềnh toàng. Năm tháng trôi qua, cô bé quê mùa đã trở thành một thiếu nữ tràn đầy sức xuân. Mái tóc đen, dày, dài tới ngang lưng khiến cho Thanh Phương có dáng vẻ vừa mạnh khoẻ vừa duyên dáng. Mai Thu mừng vui vì Thanh Phưong tiến bộ trông thấy. Cô bé luôn luôn vượt lên các bạn trong các kỳ thi. Cô cháu cứ thế chung sống và dạy dỗ nhau. Mai Thu ngây ngất trong cảm giác mình đang cùng cô trò lướt trên biển đời sáng lạn và êm đềm. Nào ngờ...

Đó là dịp Mai Thu đi cùng nhóm xung kích của Nhạc viện ra Trường Sa phục vụ các chiến sĩ quân đội. ở nhà chỉ còn Thanh Phương và chồng Mai Thu. Cái câu "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" thế mà đúng... Tủi nhục nhất là chuyện vụng trộm của hai người chẳng may lại bị anh bảo vệ khu văn công tình cờ ghé vào bắt gặp. Khi Mai Thu về, sự việc đã phơi bầy trong dư luận như một làn gió độc quất thẳng vào mặt chị khiến da chị xám lại...

Mai Thu đau đớn, ê chề! Đêm nằm, chị cảm thấy từng giọt máu ứa ra từ trái tim quặn thắt, nhỏ thánh thót vào tâm khảm mình. Trong cuộc đời, có một lần, chị đã đau khổ đến tột cùng, tưởng rằng không thể đau khổ hơn. Đó là lần Mai Thu cùng đồng nghiệp vào Trường Sơn hát phục vụ bộ đội. Một trận bom B52 rải thảm đã biến cả cánh rừng thành bãi đất tan hoang mà trên đó, thi thể đồng đội chị vương vãi khắp nơi! Chị đã khóc ngất đến mất giọng và ốm một trận thập tử nhất sinh. Nhưng thật lạ, sau trận ốm ấy, chị vùng dậy, sinh lực bỗng tràn đầy. Giọng hát của Mai Thu dường như mãnh liệt hơn, vang động hơn, và cũng sâu lắng hơn, với âm vực rộng hơn. Trong tiếng hát của Mai Thu, dường như có cả lửa thiêng và máu nóng. Còn bây giờ, trận bão lòng chỉ do hai người đem tới, nhưng có sức tàn phá nặng nề chẳng kém trận bom B52 của giặc Mĩ năm nào. Nó biến tâm hồn chị thành một rừng cây tơi tả, bầm dập. Trời ơi, có ai hiểu cho chị không? Người ta cứ đồn rằng trong giới nghệ sĩ, thì yêu đương nhăng nhít, chồng này vợ nọ là chuyện thường. Có ai biết đâu rằng, người nghệ sĩ đã yêu thì yêu đến đốt cháy hết mình cho ngọn lửa tình yêu, nhưng đã ghét thì cũng đem cả biển Đông vào lòng để dập tắt ngọn lửa ấy... Tâm hồn nhạy cảm, lối ứng xử cực đoan theo cảm tính là đặc tính của người nghệ sĩ, thường chỉ làm khổ họ. Mạnh mẽ và bộc trực trong nghề nghiệp, trong phục vụ bao nhiêu, Mai Thu lại im lặng và nín nhịn bấy nhiêu trong chuyện riêng tư. Chị lẳng lặng viết đơn, lẳng lặng đưa anh ký. Hai người lặng lẽ cùng nhau ra tòa, lặng lẽ chia tay nhau.

Mai Thu càng hát nhiều hơn. Giọng hát như có lửa, có máu, có nỗi đau và có niềm khát khao hạnh phúc đến tuyệt vọng. Cho dến một hồm, chị giật mình nhận thấy cô học trò của mình không đến luyện thanh nữa. Chị đôn đáo chạy lên khoa, thì được biết rằng cô bé kia không bỏ học, vẫn học các môn phụ, chỉ xin hoãn môn chuyên môn một học kỳ. Mai Thu lặng lẽ rời khỏi văn phòng khoa, lặng lẽ đến khu ký túc xá của trường. Chị bắt gặp Thanh Phương đang ở trong phòng của các em lớp trung cấp hai. Bất chợt thấy Mai Thu, Thanh Phương giật nảy mình, mặt tái xám, lủi vội vào góc nhà như chuột thấy mèo. Mấy cô bé học sinh cũng sợ hãi nép mình tại chỗ như bầy gà con nép mình trước bóng diều hâu. Nhưng, không có móng vuốt nào giơ ra vồ mồi. Mai Thu đứng đấy, sững sờ, run lên trong nỗi đắng cay và thương xót. Thương cho mình và thương cho trò. Chị đã bao lần tự hỏi mình: Hạnh phúc là gì? Chị chưa tìm được câu trả lời cho riêng mình theo chiều thuận, nhưng theo chiều nghịch thì chị biết rõ – hạnh phúc không phải là sự giành giật và chiếm đoạt, không phải là lòng hận thù và sự trả thù! Chị khẽ khàng bước tới, ngồi bên Thanh Phương: "Con đừng sợ, cô không bao giờ muốn con khổ. Con hãy trở lại lớp đi, cô sẽ tiếp tục dạy con học.”  Thanh Phương ngước mắt nhìn chị, ngơ ngác và tủi hổ. Mai Thu vuốt nhẹ mái tóc mượt mà của Thanh Phương, thủ thỉ: “Nhưng, con cần học thêm nhiều điều ở âm nhạc. Âm nhạc đẹp đẽ và cao quý vì âm nhạc có khả năng giúp con người gột rửa tâm hồn mình. Cô mong con không chỉ học hát cho giỏi, mà phải học để hiểu được thực chất của âm nhạc, cho đến khi tự nhận ra rằng âm nhạc là một thánh đường!"...

3. Lại nói về nhạc sĩ Trần Ngọc. Ông đắm đuối với tác phẩm của chính mình. Đó không phải là một tác phẩm nhạc khí, cũng không phải là một ca khúc. Đó chính là một bản giao hưởng có lời hát. Ông mong muốn có một dàn giao hưởng cùng một nữ nghệ sĩ có âm vực rộng trình bầy tác phẩm của mình. Ông lục trong trí nhớ những người bạn học cũ cùng nhạc viện. Ông đến bưu điện mua báo, tìm đến những bài viết, những dòng tin về âm nhạc. Rồi ông thu vén tiền nong, ôm chiếc cặp đựng tác phẩm, chống nạng tập tễnh ra bến, đón ô tô về Hà Nội.

Trần Ngọc tìm đến khu tập thể của Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia và đã gặp được người nhạc trưởng bạn ông - Hồng Dũng. Tối ấy, sau khi cơm nước, ông giở cặp, lôi tác phẩm ra. Hồng Dũng tròn xoe mắt ngạc nhiên, rồi cắm đầu trên từng trang giấy. Ông gật gù: "Chà, nhạc bác học Việt Nam đây, đích thị là nó rồi!". Nhưng ông lại lắc đầu tiếc rẻ:"Chán quá, mình nghỉ hưu rồi, làm sao giúp được ông đây!"

Nỗi băn khoăn lớn nhất của Trần Ngọc là người hát chứ không phải dàn nhạc. Khi đi từ quê về Hà Nội, ở bến xe, trên xe ôm, ông đều hỏi thăm để biết tên những ca sĩ nổi danh thời nay. Đêm ấy, hai bạn già gần như thức trắng. Ông hỏi:

- Hình như Lam Thanh là một ngôi sao ca nhạc đang nổi phải không? Liệu cô ta có hát được bài này không?

Hồng Dũng cười đến ngất ngư :

- Sao, ông định mời một cô giọng khàn hát bài này ư? Trời ơi, một ngôi sao đang ăn khách đấy, nhưng là ngôi sao nhạc nhẹ. Người ta chỉ hát giọng thật với những bài hát không vượt quá nốt fa, làm sao hát nổi bài của ông! Mà cô ta gào là chính, nhảy nhót là chính, mốt nhạc nhẹ mà! Uầy, còn điều này nữa mới chết, cô ta có biết nốt nhạc quái nào đâu!

Trần Ngọc cười trừ: "Mình lạc hậu quá". Chần chừ một hồi vì sợ bạn cười lần nữa, Trần Ngọc mới rụt rè bảo:"Mình nghe cô Bích Hường cũng hát nổi tiếng lắm hả?"

Lại một đợt cười khùng khục trong cổ:

- Cái gì? Ông cần một giọng hát sến, ỉ eo rên rỉ kiểu nhạc vàng thời ngụy Sài Gòn à? Giọng ấy làm sao mà diễn tả được cái mãnh liệt trong tác phẩm của ông? Mà bây giờ, loại nhạc sến này cũng lỗi thời rồi. Bích Hường đã trở lại sân khấu cải lương, hết là ngôi sao ca nhạc rồi!

Trần Ngọc thở dài ngao ngán. Nhưng ông tự an ủi: "Cụ Nguyễn Trãi đâu có dặn mình đi tìm người hát theo thể loại nhạc nào? Cụ dặn mình phải tìm một nghệ sĩ từng đau nỗi đau của dân, vui nỗi vui của dân, đã sống và hát với cả tâm lực cơ mà! Vậy ta hãy cố tìm."

Thấy ông nằm im, Hồng Dũng nói nhẹ nhàng:

- Đi đường xa mệt, buồn ngủ rồi hả, thôi cứ yên tâm, từ từ rồi tính!

Hôm sau, hai bạn già lại ngồi cùng nhau bên bàn trà. Hồng Dũng ân cần:

- Chốc nữa, chúng ta cùng nhau qua Dàn nhạc. Cậu nhạc trưởng vốn là trò mình, có lẽ bảo cậu ấy dựng nhạc trước, tìm người hát sau.

Ngày qua ngày, nhờ Hồng Dũng, bản nhạc của Trần Ngọc được cả dàn nhạc Quốc gia dựng. Hồng Dũng bảo rằng trong Nhạc viện Quốc gia có một cô giáo hát siêu lắm, chắc sẽ hát dược bài của ông, nhưng tiếc quá, chị ấy đi biểu diễn tận Thụy Sĩ, phải mấy tháng nữa mới về.

Thế là lại khăn gói quả mướp ngược lên non. Trong tâm tưởng Trần Ngọc vẫn vang lên mãnh liệt bài ca với giọng nữ vừa trầm hùng, vừa cao lảnh lót...

Tháng rưỡi sau, vào một buổi chiều, Trần Ngọc nhận được bức điện của Hồng Dũng:

 - Về ngay xem hát!

Thế là vội vội vàng vàng, Trần Ngọc hạ sơn về phố.

... Suốt buổi tối hôm ấy, Trần Ngọc chìm đắm trong không khí âm nhạc. Phải nói dàn nhạc này chơi hay quá. Đặc biệt là dàn vi ô lông khá nổi trội. Nhưng chưa có giọng hát nào làm ông chú ý. Gần cuối buổi, sau lời giới thiệu trân trọng, nữ nghệ sĩ Nhân dân Mai Thu bước ra sân khấu. Chị trình bầy một bản A ri a của Việt Nam. Trong khi dàn nhạc đang dạo khúc mở đầu, chị lướt nhìn khán giả. Nhạc sĩ Trần Ngọc cũng ngước mắt nhìn lên sân khấu. Ông bỗng giật thót mình như chạm phải một luồng điện! Và kìa, chị đã cất giọng hát rồi. Giọng hát không phải là của một ca sĩ biểu diễn, mà là lời tự bạch của nhân vật trong A ri a kia. Lời tự bạch như chứa đựng tâm sự của cả một đời người. Trong tiếng hát của nghệ sĩ có niềm vui khôn tả và có cả nỗi đau trầm lắng, có sức cuốn hút lạ kỳ. Khi xung trm, giọng hát như luồn xuống mười tầng đất, khi lên bổng, giọng hát như vượt tới chín tầng mây! Vừa lúc ấy, ông thấy Hồng Dũng bấm nhẹ vào tay mình. Quay sang, ông bắt gặp nụ cười rạng rỡ của Hồng Dũng: "Châu về hợp phố rồi hả?"

Từ hôm ấy, Hồng Dũng, nhạc trưởng Hoài Vũ - học trò Hồng Dũng - và cả dàn nhạc giao hưởng đều hết lòng cùng Trần Ngọc và Mai Thu dựng tác phẩm. Tác phẩm của Trần Ngọc nhanh chóng được lên sân khấu... Rồi cũng đến ngày Trần Ngọc phải về lại rừng núi, để đứa con tinh thần lại cho dàn nhạc chăm nom...

Vào thời buổi thị trường, quảng cáo lấn át tự nhiên hương, nhưng cái hương ngào ngạt của bài hát của Trần Ngọc vẫn tỏa khắp nơi. Ngưòi ta đã chính thức chọn trình diễn tác phẩm này vào chương trình chào mừng đêm giao thừa thiên niên kỷ tại Nhà Hát lớn!

Nhận được thư Hồng Dũng báo tin vui và mời về dự buổi biểu diễn, Trần Ngọc  sung sướng đến nghẹt thở.

... Trần Ngọc đắm chìm trong biển sóng âm thanh. Dàn nhạc đã đánh đến đoạn cao trào. Những chùm hợp âm thuận xen lẫn những chùm hợp âm nghịch tạo nên một khối âm thanh dầy dặn và gai góc. Tiếng kèn vượt lên, lảnh lót và thôi thúc. Đối nghịch là dàn xen lô trầm trầm đầy suy tưởng. Xen vào, dàn vi ô lông chạy đều trên bè cao, đột ngột ngắt ở nốt sol, một cách ngắt tạo tiếng vang lạ lùng khi các nhạc công đột ngột dứt thanh vĩ ra khỏi bộ dây. Và im lặng như đêm đen. Một khoảng lặng thật dài, chuẩn bị cho giọng hát vào hồi kết thúc. Mai Thu cất lên lời ca ở phách nhẹ, hơi nghịch một chút về cấu trúc âm nhạc, để diễn tả bước đi lên đầy khó khăn của đất nước khi chuẩn bị bay lên trong lý tưởng sống đẹp đẽ và nhân ái. Từ đoạn ấy, bậc thang âm thanh chỉ có cao dần lên và nhịp điệu chỉ có dồn nhanh lên để cuối cùng kết thúc bằng một nốt nhạc cao chót vót, ngân dài tự do! Nốt nhạc ấy được hát với cường độ ngày càng mạnh. Một cách kết thúc mở, mở đến vô tận cho tài năng nghệ sĩ và cũng cho sự đồng cảm hay suy tưởng của khán giả.

Chưa lần nào có buổi hòa nhạc tài tình đến thế! Trần Ngọc cảm thấy cả dàn nhạc và nghệ sĩ đều rung lên mãnh liệt từ bên trong. Ông đang nửa tỉnh nửa mê trong biển sóng âm thanh dào dạt thì chợt thấy thoáng hình cụ Nguyễn Trãi. Ông giật thót mình! Bây giờ, ông mới nhớ tới giấc mơ hôm sáng tác bản nhạc này. Từ hôm đem bản nhạc về Hà Nội, chỉ đau đáu nỗi niềm làm sao đưa được đứa con tinh thần của mình trở về với cuộc sống, Trần Ngọc không hề nhớ tới lời dặn của cụ Nguyễn Trãi (cái đãng trí nghệ sĩ là như thế đấy!). Bây giờ, ông không lo cho bản thân mình mà chỉ lo cho Mai Thu. Buổi biểu diễn hôm nay hay vô cùng tận, và người nghệ sĩ kia đã như đốt cháy mình trong xúc cảm nghệ thuật. Ông run rẩy, mồ hôi vã ra như tắm, toàn thân lạnh toát. Làm sao rút được lời nguyền kia? Làm sao kéo Mai Thu trở lại? Không thể được, ông không cất nổi mình lên nữa, một sức mạnh vô hình nào đấy đã giữ chặt ông trên chiếc ghế bọc nhung đỏ. Mà ông biết Mai Thu là thế nào rồi, chị đã yêu thì yêu hết mình, đã đi thì phải đi đến đích, đã hát thì hát bằng cả trái tim, có bao giờ chị bỏ dở một bài ca? Ông chỉ còn biết khấn trời phật cho lời nguyền nghiệt ngã của bài ca kia vận vào chính mình. Ông sẵn sàng biến vào cõi thinh không để Mai Thu và đứa con tinh thần của mình lại với đời. Còn Mai Thu, không phải chị hát bằng thanh quản với kỹ thuật cộng minh tạo vang nữa, mà suối âm thanh trong suốt, lảnh lót nhưng lại nồng ấm kia như được tuôn ra từ toàn bộ con người chị, vượt đến cõi hư vô! Rõ ràng không phải chị dùng hơi để hát nữa, mà hát bằng khí lực nội tâm. Nốt nhạc kia đã được ngân dễ đến một phút rồi. Các nhạc công đã rã rời. Đôi tay và chiếc gậy chỉ huy của  Hoài Vũ cũng đã dừng lại ở động tác giơ cao, một động tác chuẩn bị cho lệnh chấm dứt bản nhạc. Riêng chị, chị vẫn còn ngân vang lời ca ca ngợi Tổ quốc, lời ca mô tả cảnh đất nước đang bay lên đến bến bờ hạnh phúc tuyệt đối! Cả nhà hát vang động trong giọng hát của chị! Thế rồi, giọng hát chợt tắt lịm. Cả nhà hát như chìm nghỉm trong đêm đen của sự tĩnh lặng. Không khí bỗng đặc quánh lại. Đúng lúc ấy, Mai Thu ngã gục xuống!

Mọi ngưòi còn chưa thoát khỏi cơn bàng hoàng, thì một cô gái cân đối và khỏe mạnh với mái tóc dày chấm ngang lưng lao lên sâu khấu, ôm chầm lấy Mai Thu và thét lên: "Cô ơi!"...

 

                    Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2001 – ngày 3 tháng 10 năm 2002

 

TIẾNG RAO ĐÊM

 

Đến tiếng rao cũng không còn thật nữa

                                                               Thu thanh rồi người ta phát qua loa!

 

Hôm nào cũng vậy, tầm nửa đêm là lại có tiếng rao: “Bánh khúc, xôi nóng đây!”. Tiếng rao của một cô gái. Nghe mềm mại, trẻ trung nhưng cũng không kém phần vang động. Rồi sau đó khá lâu, lại có tiếng rao khác vang lên: “Ai ngô luộc, khoai nướng đây!”. Đó là một giọng nam khỏe khoắn, ấm áp.

Thường làm việc khuya, không hôm nào là ông An không nghe thấy tiếng rao ấy, đâm quen. Vào một đêm trời mưa, nghe tiếng rao, ông bỗng thấy bụng đói cồn cào. Ông bèn mở cửa, bước ra ban công tầng hai, nói vọng xuống: “Bán cho một cái bánh khúc! Chờ nhé!”. Rồi ông đóng cửa, xuống nhà. Trong khi mở cửa, liên tưởng tới giọng rao, ông hình dung người bán bánh là một cô gái trẻ, mảnh mai…

Khi mở cửa, ông giật mình: trước mắt ông không phải là một cô gái, mà là một người đàn ông gày guộc. Tuy ngỡ ngàng, nhưng ông vẫn ân cần:

- Đẩy xe vào đây kẻo ướt. Cứ để xe ở đây!

Người đàn ông làm theo lời ông, dựng xe ở hiên nhà. Ông mời:

- Vào nhà uống hụm trà cho ấm người đã. Để tôi lấy cái đĩa…

Người đàn ông mở thúng, lấy ra một chiếc bánh khúc, đặt vào chiếc đĩa mà ông chủ nhà vừa đưa. Thấy thái độ ân cần của ông, vả lại có lẽ cũng đã thấm mệt sau mấy tiếng đồng hồ đạp xe bán bánh, anh lặng lẽ ngồi vào chiếc ghế.

Đặt chiếc đĩa trên bàn, ông An rót nước, mời khách. Trong khi người bán bánh chậm rãi nhấp từng hớp nước chè nóng hổi, ông An lặng lẽ quan sát. Người bán bánh có dáng cao, gầy nhưng khá săn chắc. Khuôn mặt vuông, sắc cạnh. Làn da tai tái như người bị sốt rét kinh niên. Ông hỏi:

- Anh đi bán bánh thế này lâu chưa?

- Cháu đi cũng lâu rồi ông ạ.

- Thế trước anh làm nghề gì?

- Cháu đi bộ đội, rồi phục viên, về làm đủ nghề

Để khách uống xong chén nước, ông An hỏi tiếp:

- Tôi hơi lạ, là tại sao tiếng rao là phụ nữ, mà người bán quà lại là anh?

Thấy sự ân cần của chủ, khách bộc bạch:

- Chuyện cũng dài bác ạ. Chẳng là, bây giờ rao hàng, người ta thu thanh vào băng rồi cho máy chạy, phát ra loa cho đỡ tốn sức. Cháu cũng nhờ người thu giọng mình rao vào băng, phát qua chiếc máy chạy ắc quy kèm theo xe hàng này. Những ngày đầu, bán hàng ế quá. Về than thở với anh em cùng ở trọ. Họ bảo: “Chắc là giọng cậu quê quá, không hấp dẫn. Nhờ một cô tre trẻ nào thu thanh, chắc là hấp dẫn hơn. Thế mới bán được hàng”. Vậy là cháu làm theo.

- Thế có bán được nhiều hơn không?

- Có, bác ạ.

Đưa tay đỡ chén nước ông An vừa rót thêm cho, người bán hàng bộc bạch tiếp:

- Nhưng cũng có lúc phiền bác ạ. Một lần, cũng vào khuya như thế này, cháu bán ở phía Hào Nam, một bác gái gọi cháu để mua bánh. Vừa mở cửa, bác gái giật nảy mình, kêu lên: “Anh làm tôi sợ hết hồn”. Bác gái bảo: “Nghe giọng con gái, thấy thương thương, mới gọi mua hộ đồng quà. Chứ khuya khoắt, ai dám mở cửa cho đàn ông.” Từ đấy, cháu chẳng dám vào cái ngõ ấy bán hàng nữa.

*

Một đêm khác, nghe tiếng rao: “Ngô luộc, khoai nướng đây!”, nhớ đến người bán bánh với việc đổi giọng nam thành giọng nữ, ông An thầm nghĩ: “Bây giờ chắc là ngược lại. Giọng nam giới khỏe khoắn này, chắc là một cô gái bán hàng”. Ông lại gọi bảo chờ và xuống mở cửa. Ông cười, vì đã đoán đúng: Trước mắt ông là một cô gái. Mời mãi mà cô gái không vào nhà, chỉ dựa xe bên hè, ông đành mua hai cái ngô luộc, bảo cô gái không phải trả lại tiền thừa, rồi chào để cô gái tiếp tục chuyến bán hàng khuya.

*

Bẵng đi mất mấy tháng, ông An không nghe thấy tiếng rao nào nữa, cả giọng nam và giọng nữ đều biến mất.

Mãi tới một hôm trời lạnh giá, ông mới nghe một giọng nữ cất lên lanh lảnh: “Ngô luộc, khoai nướng đây!”

Chắc mẩm đó là anh bán hàng vốn là bộ đội phục viên, ông An gọi:

- Anh ơi, bán cho tôi củ khoai nướng. Chờ nhé!

Mở cửa, ông An sững người: Trước mắt ông không phải là người đàn ông cao, gày, mà là người phụ nữ bán ngô, khoai hôm trước với giọng rao là nam giới. Ông mở rộng cửa, mời:

- Cháu vào đây cho đỡ lạnh!

Ngần ngừ một lúc, nhưng có vẻ thấy cách thức mời chào đàng hoàng của ông, cô bán hàng đẩy xe lên hè, rồi bước vào nhà.

Bảo cô ngồi ghế, đưa chén nước nóng mời, ông An ân cần:

- Cháu đừng ngại. Ngồi uống chén nước chè nóng cho ấm người, rồi hãy đi tiếp.

Có vẻ đã yên tâm, cô gái ngồi nhấp từng hụm nước. Ông An chăm chú quan sát cô gái. Dưới vẻ kham khổ của một người lao động cực nhọc, cô gái có khuôn mặt trái xoan xinh xắn và đôi mắt bồ câu dịu dàng – nét đẹp cổ truyền mà bây giờ hiếm gặp. Ông hỏi:

- Hôm trước, giọng rao là nam, sao hôm nay lại là nữ hả cháu?

Trước sự ân cần của ông, mà xe quà đã bán sắp hết, cô gái yên tâm ngồi tâm sự với ông.

*

Ông ạ, nghề bán quà khuya cũng lắm điều phiền toái lắm. Hôm thì bị ế hàng, về phải ăn trừ bữa mà cũng không xong. Hôm thì bị những tay thah niên càn quấy trêu chọc. Chính vì vậy mà cháu và chồng cháu mới làm theo lời mấy người bạn là đổi giọng – cháu bán hàng với giọng nam rao, còn chồng cháu lại bán theo giọng nữ rao. Thấy có vẻ được, chúng cháu mừng lắm. Nào ngờ, tai họa lại ấp đến với vợ chồng chúng cháu, mà giáng ngay vào chồng cháu.

Hôm dó, trời hơi lạnh. Bán gần hết quà thì đã quá nửa đêm. Chồng cháu cố đi thêm vào con ngõ nhỏ bên Thái Thịnh, bán được thêm vài chục ngàn tiền quà. Trở ra, chồng cháu lên xe đạp, chạy về mạn Ngã Tư Sở. Trong khi đó, tiếng rao hàng của chồng cháu với giọng nữ vẫn vang lên. Nghe tiếng gọi giật giọng, chồng cháu dừng xe. Ngoái lại, thấy tốp 3 bốn người đang tiến tới, gọi:

- Cô em ơi, lại đây với bọn anh nào!

Nhìn bộ dạng nhóm người, đoán là bọn xấu, anh ấy lên xe, định đạp đi. Nhưng tốp người đã xáp đến.

- Cô em ơi, chờ bọn anh nào! - Vì lạnh, chồng cháu mặc cái áo choàng gần kín người cho nên họ không nhận ra đó là một người đàn ông.

Một tay xông tới, nắm ghi đông xe đạp:

- Cô em, chờ đã nào. Bọn anh vừa chơi đá xong, đang ngáo đây!

Chồng cháu vùng tay ra, cố giữ xe thăng bằng. Lúc ấy, một người trong nhóm kêu lên:

- Đồ giả chúng mày ạ! Thằng này đực rựa, không phải con gái!

Cả bọn nhao nhao chửi bới chồng cháu là đồ lừa đảo, giả dối, làm cho họ mất công đuổi theo, giờ mất cả hứng… Chồng cháu chẳng phân bua gì, cố tìm cách thoát đi. Nhưng cả bọn đã xông lai, đạp đổ xe, đánh cho chồng cháu một trận thừa sống thiếu chết… May lúc ấy có tổ dân phòng đi tuần qua, mới đưa chồng cháu đi cấp cứu.

Cô gái ngừng lời. Đôi mắt bồ câu của cô hơi rơm rớm nước mắt. Ông An an ủi:

- Thôi, thế vẫn may, còn có người đến cứu…

- Vâng, cũng còn may bác ạ. Tuy chồng cháu bị chúng đánh gẫy cả tay, phải băng bó ba tháng mới đi làm được, nhưng không thành tật là may bác ạ.

Ông An hỏi:

- Nhưng chồng cháu là bộ đội phục viên, sao không đánh lại bọn chúng?

- Bộ đội thật đấy, nhưng là lính thông tin, biết võ vẽ gì đâu bác!

- Và từ hôm ấy, các cháu không đổi giọng nữa?

- Vâng ạ. Chồng cháu bảo rằng mình là người thật thà, làm giả cái gì cũng khó, cho nên tốt nhất là cứ làm thật. Còn cháu thì bảo chồng cháu là đến vụ mùa tới, mình về hẳn quê, lại làm nông, một nắng hai sương trên đồng ruộng, nó chắc hơn bác ạ!

Ngoài trời, bỗng "Ùng... oàng" - tiếng sấm nổi lên râm ran. Cô gái đứng dậy:

- Thôi, xin phép bác, cháu về kẻo mưa!

Nhìn theo cô gái xa khuất dần, ông An lẩm nhẩm: “Quái lạ, sao mùa này lại có sấm nhỉ!”.

 

                                                                             Hà Nội, 22 tháng 8 năm 2016

 

Đôi điều về tác giả Phạm VIệt Long

 

Họ tên khai sinh và thường dùng: Phạm Việt Long

Ngày sinh: 1 tháng 7 năm 1946

Nơi sinh: Ngô Khê, Bắc Quang, Hà Giang

Nguyên quán: Ninh Bình

Học vấn: Tiến sĩ ngữ văn

Hội viên Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học dân gian Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật Ninh Bình.

Xuất thân làm nghề báo, từ 1966 đến 1968, Phạm Việt Long làm phóng viên Việt Nam Thông tấn xã tại Hà Nội, Hải Dương, Sơn La. Năm 1968, xung phong đi chiến trường B, làm phóng viên Thông tấn xã giải phóng miền Trung Trung bộ, bám sát, viết nhiều tin, bài về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Khu V (Quảng Đà, Quảng Nam, Bình Định...). Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, anh trở về miền Bắc, công tác tại Việt Nam Thông tấn xã, đi học đại học rồi về công tác tại Bộ Văn hoá Thông tin cho đến khi nghỉ hưu. Đồng thời, anh làm nghiên cứu sinh từ năm 1997 tại trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, được cấp bằng Tiến sĩ ngữ văn loại xuất sắc năm 2002.

Cùng với các tác phẩm văn học, như B. trọc, Âm bản, Du khảo Hoa kì sau thảm hoạ 11 tháng 9, Giã từ, anh còn là chủ nhiệm một số đề tài nghiên cứu khoa học, chủ biên một số tác phẩm nghiên cứu được đánh giá tốt, trong đó có những công trình đã được xuất bản thành sách, như Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình, Ứng dụng công nghệ thông tin để khảo sát tục ngữ về gia đình, Một số giá trị văn hoá truyền thống với việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở vùng đồng bằng Bắc bộ, Khía cạnh văn hoá trong thương mại điện tử...

            

 

 

 

Phạm Việt Long

Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/am-barn-tap-truyen-a21212.html