Văn hóa dân gian ứng dụng- Kỳ một

TS Trần Hữu Sơn - Viện trưởng Viện Văn hóa dân gian ứng dụng, có nhiều năm nghiên cứu về văn hóa dân tộc. Ông đã có mười đầu sách, công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian. Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển giới thiệu tới độc giả công trình nghiên cứu Văn hóa dân gian ứng dụng của ông, dày 324 trang khổ A4. Tạp chí sẽ đăng nhiều kỳ liên tục 24 kỳ để bạn đọc tiện theo dõi.

tran-huu-son-1622795553.jpg
TS Trần Hữu Sơn 

MỤC LỤC

Phần 1- Văn hóa dân gian ứng dụng……………3

- Văn hóa dân gian ứng dụng   …… …………3

- Văn hóa, văn nghệ dân gian với vấn đề phát triển bền vững………….15

- Hiệu quả hoạt động của chợ vùng cao Lào Cai dưới góc nhìn nhân học..30

Phần 2- Văn hóa dân gian ứng dụng trong du lịch…………………………45

- Văn hóa dân gian với vấn đề phát triển sản phẩm du lịch………………45

- Bản sắc văn hóa tộc người miền núi với phát triển du lịch cộng đồng…57

- Đặc điểm du lịch tâm linh và vấn đề xây dựng sản phẩm du lịch……….67

- Người Dao ở Sa Pa phát huy di sản văn hóa thành tài sản du lịch………76

- Du lịch di sản ở Điện Biên……………………………………………….89

- Ảnh hưởng của du lịch đến xã hội người Hmông………………………..97

Phần 3- Văn hóa dân gian với quản lý văn hóa……………………………119

- Tính đặc thù vùng cao với công cuộc xây dựng nông thôn mới……….119

- Các yếu tố ảnh hưởng đến lễ hội và vấn đề quản lý……………………..131

Phần 4- Văn hóa dân gian với ứng xử với môi trường tự nhiên………….144

- Ứng xử người Dao vùng Tây Bắc với môi trường tự nhiên……………..144

- Ngôi nhà người Dao với môi trường…………………………………….163

- Văn hóa ứng xử của người Dao Đỏ với môi trường tự nhiên phản ánh trong khai khẩn ruộng bậc thang ở Sa Pa .....193

- Ứng xử của người Dao Họ (Dao Quần Trắng) Lào Cai với nguồn nước...208

- Tri thức bản địa của người Hà Nhì ở Việt Nam với vấn đề bảo vệ rừng...226

Phần 5- Di sản văn hóa……………………………………………………….239

- Sách cổ người Dao - nguồn sử liệu quan trọng tìm hiểu lịch sử tộc người Dao…239

- Tín ngưỡng, lễ hội dưới góc nhìn cấu trúc luận…………………………259

+ Đạo Mẫu dưới góc nhìn cấu trúc luận của Claude Levi-strauss…259

        + Lễ hội Gầu Tào…………………………………………………..270

        + Lý thuyết và cách tiếp cận nghiên cứu Bóng rỗi……………….279

- Nghiên cứu vấn đề văn hóa tộc người ở Lào Cai……………………….290

- Nghệ thuật trang trí hoa văn trên trang phục……………………………..300

le-hoi-dan-gian-1622626723.jpg
 

VĂN HOÁ DÂN GIAN ỨNG DỤNG

hiều thập kỷ qua, văn hóa dân gian tập trung nghiên cứu sưu tầm các di sản văn hóa của quá khứ nhằm lưu trữ, bảo tồn các di sản đó. Nhưng hiện nay nghiên cứu văn hóa dân gian gắn với vấn đề phát triển đang là yêu cầu cấp bách của cuộc sống. Càng cấp bách hơn khi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi phải có sự tham gia của văn hóa dân gian như vấn đề văn hóa dân gian trong quá trình đô thị hóa, văn hóa dân gian với công việc xóa đói giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, quan hệ giữa văn hóa dân gian với du lịch, văn hóa dân gian với bảo vệ môi trường, văn hóa dân gian với nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đẩy mạnh giáo dục... Vì vậy đã nảy sinh loại hình văn hóa dân gian ứng dụng.

1. Quá trình hình thành và phát triển của văn hoá dân gian ứng dụng

Văn hóa dân gian được biết đến trong nhiều thế kỷ. Plutarch (40 - 120 sau công nguyên), tác giả của tác phẩm Roman of Question, đã viết bài luận chính thức đầu tiên về văn hóa dân gian, xem xét nguồn gốc và ý nghĩa của niềm tin và tập quán của người dân với tư cách là nhà văn hoá dân gian (Michael Owen Jones, 1994, tr.1). Tuy nhiên, văn hóa dân gian ứng dụng (applied folklore) - một phân ngành mới của văn hóa dân gian được đề cập đến chỉ trong vài thập kỷ gần đây.

Văn hóa dân gian ứng dụng xuất hiện đầu tiên ở Mỹ. Năm 1939, Benjamin A. Botkin[1] phát triển cách tiếp cận này rõ nét nhất từ công việc của ông, cùng với Aunt Molly Jackson, Earl RobinsonAlan Lomax, qua việc sưu tầm và nghiên cứu các câu chuyện kể của những người nô lệ  khi ông còn làm việc cho Thư viện Quốc hội (The Library of Congress). Ông đã thấy sự phổ biến của các tài liệu này là có khả năng để cải thiện quan hệ chủng tộc ở Mỹ và để chống lại thành kiến chủng tộc.

Benjamin A. Botkin đã cùng với nhà hoạt động Rachel Davis DuBois phát triển các chương trình đại chúng để cải thiện mối quan hệ về sắc tộc bằng cách kết hợp những thực hành văn hóa dân gian, tài liệu văn hóa vào công việc tổ chức các sự kiện lễ hội. Benjamin A.  Botkin nổi lên như là vị thánh bảo trợ của phong trào văn hóa dân gian đại chúng.

        Trong thập niên 1960, các nhà văn hoá dân gian khác của Mỹ bắt đầu áp dụng kiến thức văn hóa dân gian để giải quyết các vấn đề xã hội, đáng chú ý (hấp dẫn) nhất về lĩnh vực y học dân gian (folk medicine). Các nhà văn hóa dân gian cũng bắt đầu làm việc như là chuyên gia tư vấn trong quy hoạch thành phố (city planning), người cao tuổi (gerontology), phát triển kinh tế (economic development), giáo dục đa văn hóa (multicultural education), vấn đề bảo tồn (conservation) và các lĩnh vực khác.

Từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay, nghiên cứu Văn hóa dân gian ứng dụng cũng như nghiên cứu Nhân học ứng dụng ở Mỹ và nhiều nước trên thế giới đã phát triển khá mạnh (Nguyễn Văn Tiệp, 2006, tr.88). Nổi bật là các công trình “đưa văn hóa dân gian vào ứng dụng” của Michanel Owen Jones (1994).

Ở Việt Nam, văn hóa dân gian ứng dụng tuy còn khá mới mẻ, chưa hình thành một ngành nghiên cứu riêng biệt nhưng những vấn đề nghiên cứu ứng dụng văn hóa dân gian đã được một số nhà khoa học quan tâm và bước đầu gặt hái được những thành quả nhất định. Một số công trình nghiên cứu mang dấu ấn văn hóa dân gian ứng dụng được xuất bản. Tiêu biểu như các công trình của các tác giả Viện Văn hóa dân gian (nay là Viện Văn hóa):

          - Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (đồng chủ biên) (1994), Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại.

- Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2009), Làng nghề, phố nghề, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.

- Ngô Đức Thịnh, Phan Đăng Nhật (đồng chủ biên) (2000), Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học.

Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam cũng bước đầu chú trọng nghiên cứu văn hóa dân gian ứng dụng. Ngày 15/12/2001, tại thành phố Hồ Chí Minh, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam và trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn (thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) đã phối hợp tổ chức hội thảo khoa học “Văn hóa dân gian và sự phát triển đô thị”. Hội thảo đã bước đầu đưa ra khái niệm “Văn hóa dân gian đô thị” cũng như sự biến đổi, vận hành của các loại hình văn hóa dân gian ở đô thị, tác động của văn hóa dân gian với đời sống đô thị đương đại.

Ngày 11/4/2004, tại vùng đất du lịch Sa Pa, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin Lào Cai tổ chức hội thảo khoa học “Văn hóa dân gian và du lịch - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Hội thảo đã đề cập đến mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với du lịch, xác định văn hóa dân gian thực sự là nguồn lực du lịch. Đồng thời các nhà khoa học cũng đề ra các khuyến nghị về phát triển du lịch bền vững, định hướng phát triển du lịch văn hóa cộng đồng, phát triển các sản phẩm du lịch mới mang đậm dấu ấn văn hóa dân gian ...

          Trong các hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế của Hội Folklore châu Á và Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam những năm gần đây xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu văn hóa dân gian ứng dụng. Tiêu biểu như hội thảo“Giá trị và tính đa dạng của Folklore châu Á trong quá trình hội nhập” tổ chức tại Hà Nội từ ngày 25 – 26/9/2005. Ở hội thảo này, các tham luận của Giáo sư – TSKH. Tô Ngọc Thanh, GS. TS Ngô Đức Thịnh, PGS. TS Lê Hồng Lý,... đã gợi mở một số vấn đề nghiên cứu văn hóa dân gian ứng dụng, cũng như cơ chế biến đổi của văn hóa dân gian cổ truyền trong cuộc sống đương đại. GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh đã đưa ra các vấn đề biến đổi về cấu trúc, chức năng của các loại hình của văn hóa dân gian trong cuộc sống đương đại, đồng thời đề ra các giải pháp bảo tồn văn hóa phi vật thể trong cộng đồng. Trong các hội thảo “Văn hóa biển miền Trung và văn hoá biển Quảng Ngãi” (4/7/2007) và hội thảo “Văn hóa du lịch biển đảo Tây Nam Bộ” (29/11/2007) có một số tác giả tiếp cận hiện tượng văn hoá sông, biển dưới góc độ văn hoá dân gian ứng dụng.

2. Khái niệm và một số lĩnh vực nghiên cứu của Văn hóa dân gian ứng dụng

          Trong những năm 1960, thuật ngữ "văn hóa dân gian ứng dụng" đã gần như ít người được biết tới. Trong thư mời gửi các đại biểu tham dự một hội nghị về văn hóa dân gian ứng dụng năm 1971, các thành viên Ban thường trực gồm Richard Bauman, Robert H. Byington, Henry Glassie, Rayna Green, và Harry Oster đã định nghĩa: "văn hóa dân gian ứng dụng sử dụng các khái niệm lý thuyết, kiến thức thực tế và phương pháp luận của ngành văn hoá dân gian trong các hoạt động hoặc các chương trình, nghĩa là để cải thiện các vấn đề xã hội, kinh tế và công nghệ đương đại" (Michael Owen Jones, 1994, tr.11).

          Tác giả Dorson đã đưa ra khái niệm văn hoá dân gian ứng dụng có ba ý nghĩa, một là cải cách xã hội, “nghĩa vụ của văn hoá dân gian để cải thiện rất nhiều trong dân gian”; hai là đưa trí tuệ dân gian và biết làm thế nào để sử dụng; ba là ông chủ trương “ứng dụng các khái niệm và nội dung của văn hoá dân gian để giảng dạy và nghiên cứu các lĩnh vực khác”, chẳng hạn như lịch sử, văn học, nghệ thuật…  

Theo Benjamin A. Botkin, “Văn hoá dân gian ứng dụng chỉ khi nhà văn hoá dân gian áp dụng thực tiễn của văn hóa dân gian vào lịch sử xã hội và văn học, giáo dục, giải trí, hay nghệ thuật”. Michael Owen Jones (1994, tr 13) cho rằng “Botkin đã đạt được ý tưởng về ứng dụng rộng hơn cho văn hóa dân gian, ông ấy thực sự thực hành chúng trong nhũng nỗ lực của chính ông”.

          Một khái niệm rộng hơn về văn hóa dân gian ứng dụng có thể được đưa ra như sau: “Lĩnh vực của nghiên cứu văn hoá dân gian ứng dụng sử dụng các khái niệm, phương pháp, lý thuyết từ phân ngành của nghiên cứu văn hóa dân gian cũng như chuyên môn của nó để cung cấp thông tin, xây dựng các chính sách, hoặc khởi đầu của hành động trực tiếp để tạo nên sự thay đổi hay tính bền vững trong hành vi, văn hóa, hoặc hoàn cảnh của cuộc sống con người, bao gồm cả môi trường và công nghệ”[2] (Michael Owen Jones, 1994, tr.13).

          Như vậy, Văn hóa dân gian ứng dụng là một phân ngành của văn hóa dân gian, vận dụng các kiến thức và phương pháp nghiên cứu của văn hóa dân gian nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống đương đại.

 Văn hoá dân gian ứng dụng ngày càng có xu hướng mở rộng. Thực tiễn sinh động ở Việt Nam với đặc điểm có nhiều tộc người chung sống, tính đa dạng đặc thù văn hoá nổi trội nên khả năng ứng dụng văn hoá dân gian giải quyết các nhiệm vụ cuộc sống càng phong phú và cấp bách, nhất là các tỉnh miền núi đa dân tộc.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, đô thị hóa nhiều thành tố Văn hóa dân gian không còn tồn tại như một thực thể mà vỡ vụn ra, biến đổi cả cấu trúc và chức năng. Các thành tố văn hóa dân gian đã bị mất đi cơ sở xã hội, không còn môi trường nuôi dưỡng và phát triển. nhiều thành tố đang phải trải qua một quá trình “giải cấu trúc” (Tô Ngọc Thanh, 2006). Tuy vỡ vụn, nhưng các mảnh vỡ của văn hóa dân gian vẫn tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội đương đại. Các thành tố ngữ văn dân gian, nghệ thuật dân gian, tập quán xã hội, tri thức dân gian, lễ hội truyền thống, nghề thủ công truyền thống,... tuy không tồn tại theo cả một cấu trúc, cả một hệ thống nhưng lại trở thành một bộ phận “tái cấu trúc” tạo nên bộ mặt văn hóa của xã hội đương đại. Một số chức năng “nguyên thủy” , chức năng gắn liền với môi trường sản sinh ra các loại hình văn hóa dân gian bị biến mất. Ở những vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, môi trường sản sinh ra các loại hình Văn hóa Dân gian vẫn còn tồn tại ở phạm vi nhất định, các loại hình văn hóa dân gian vẫn đóng vai trò quan trọng. Ở vùng đồng bằng hoặc đô thị xuất hiện ngày càng nhiều các loại hình văn hóa dân gian mô phỏng (Folklorismus). Văn hóa dân gian mô phỏng thực sự là các tư liệu, các mảnh vỡ của văn hóa dân gian, không nằm trong bối cảnh gốc nhưng lại “gây ấn tượng bằng thị giác và thính giác hoặc mang lại niềm vui thích về mặt thẩm mỹ như trang phục, biểu diễn trong lễ hội, âm nhạc hay ẩm thực, những tư liệu thích hợp này đã tách ra khỏi bối cảnh ban đầu của chúng và để sử dụng theo một cách mới cho một nhóm công chúng khác” (Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan, 2005, tr.108). Văn hóa dân gian mô phỏng (Folklorismus) còn xuất hiện phổ biến ở khắp miền núi với tên gọi văn nghệ quần chúng. Dù nhiều nhà khoa học phê phán các hình thức nghệ thuật dân gian mô phỏng này nhưng nó lại đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa ở cơ sở, thu hút được lượng khán giả đông đảo ở các kỳ hội diễn, các cuộc liên hoan, các “ngày văn hóa” ... Đặc biệt ở các điểm du lịch cộng đồng từ Mai Châu- Hòa Bình đến Mộc Châu - Sơn La hay Mường Thanh - Điện Biên, Mường Lò - Yên Bái,... Các chương trình biểu diễn nghệ thuật (nhất là nghệ thuật múa) chủ yếu thuộc loại hình văn hóa dân gian mô phỏng. Hiện nay với xu hướng khôi phục lễ hội, hoặc tổ chức các lễ hội du lịch đang diễn ra khắp nơi đều dựa vào chất liệu của văn hóa dân gian mô phỏng. Vì vậy văn hóa dân gian mô phỏng là một loại hình đặc biệt đang đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần hiện nay cần được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa dân gian ứng dụng

Văn hóa dân gian ứng dụng còn là một ngành khoa học ứng dụng vào nghiên cứu đô thị trở thành văn hóa dân gian đô thị . Văn hóa dân gian đô thị nghiên cứu các thành tố văn hóa dân gian đã thích ứng và “chung sống” với người dân đô thị. Nó tập trung nghiên cứu về đời sống văn hóa của cư dân nhập cư cũng như dân cư “đô thị gốc”. Các yếu tố của văn hóa dân gian (nhất là tập quán, phong tục) đã chi phối đến đặc điểm cư trú cũng như quá trình “xóa đói giảm nghèo” của một bộ phận người dân nhập cư. Đặc biệt tín ngưỡng dân gian chi phối hầu hết các gia đình cư dân đô thị với nhiều hiện tượng khác nhau như thờ “thần tài” , lễ cúng ngày rằm, mùng một, quan niệm “mở hàng” ở các cửa hàng,... Các phong tục tập quán về đón xuân, mừng nhà mới, “cưới xe”, “cưới chợ” cũng xuất hiện môi trường đô thị. Sự xuất hiện các lễ hội, ngày lễ mới như “ngày lễ tình yêu” (14/2), lễ noel cũng như các ngày lễ, ngày kỷ niệm,... đã tạo ra môi trường sinh hoạt văn hóa dân gian mới. Như vậy, văn hóa dân gian đô thị tập trung nghiên cứu quá trình hình thành các xu hướng thích nghi văn hóa của các nhóm di dân vào đô thị, nghiên cứu các phố nghề, làng nghề ở các thành phố cũng như nghiên cứu các loại hình kinh tế phi chính thức, nghiên cứu những đặc trưng văn hóa, nếp sống các sinh hoạt văn hóa của người dân cũng như tổ chức tôn giáo tác động đến đời sống cư dân đô thị. Văn hóa dân gian đô thị còn chú trọng nghiên cứu loại hình nghệ thuật ngôn từ như giai thoại, truyện tiếu lâm, ca dao, tục ngữ mới,... Nghiên cứu các phong tục tập quán cũ và mới đang vận hành trong xã hội đô thị... Cũng như nhân học đô thị, văn hóa dân gian đô thị ngày càng trở thành một ngành nghiên cứu quan trọng ở các thành phố, thị trấn, thị xã. Văn hóa dân gian đô thị còn mở ra một hướng nghiên cứu mới đối với các nhà Folklore học ở các trung tâm đô thị lớn. Các nhà nghiên cứu Folklore không phải đi điền dã ở nông thôn, miền núi xa xôi mà tập trung nghiên cứu ở ngay tại gia đình mình, tổ dân phố, ngõ xóm nơi cư trú. Kết quả nghiên cứu Văn hóa dân gian đô thị còn giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý trong công tác quy hoạch, phát triển đời sống kinh tế - văn hóa ở khu dân cư, nắm bắt tâm trạng, nhận thức, thái độ của người dân nhằm điều chỉnh, thực thi chính sách,...

Văn hóa dân gian ứng dụng hiện nay đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển du lịch. Hơn hai thập kỷ qua, làn sóng du lịch ồ ạt đổ bộ đến các làng, bản vùng cao. Nhiều điểm du lịch ở Mai Châu (Hoà Bình), Mường Thanh (Điện Biên), Sa Pa (Lào Cai), Bản Đôn (Đắk Lắk)… thu hút khá đông đảo du khách. Chính quyền địa phương đều xác định văn hoá là nguồn lực của du lịch. Nhưng khai thác nguồn lực văn hoá (nhất là văn hoá dân gian) như thế nào là một vấn đề phức tạp. Ở một số tỉnh, thậm chí cả tỉnh miền núi đều học tập mô hình làng văn hoá dân tộc để đầu tư xây dựng thành một điểm du lịch quan trọng. Nhưng không biết rằng du khách (nhất là du khách nước ngoài) không muốn xem một cái làng du lịch có từ cảnh quan, nhà cửa đến sinh hoạt văn hoá đều phải phục chế, làm giả. Hoặc chỉ thăm hàng chục bản văn hoá của một tỉnh đều có chương trình văn nghệ đón khách giống nhau. Dù làng đó là làng người Thái, làng người Khơ Mú, làng người Xinh Mun, La Ha hay Hmông, Dao nhưng chương trình văn nghệ đều “cải biên”, “cải tiến” giống nhau. Có làng du lịch, khi chưa nổi tiếng, khi chưa có thương hiệu thì rất đông du khách đến thăm. Nhưng khi đã được các doanh nghiệp đầu tư, thì làng du lịch đã vắng khách hẳn, thậm chí đi đến suy tàn. Điều này đã xảy ra ở Vân Nam - Trung Quốc và một vài điểm du lịch bản làng của Việt Nam… Như vậy, nhiều lĩnh vực của du lịch ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số như vấn đề  quy hoạch, vấn đề chính sách ở tầm vĩ mô của du lịch đến việc tổ chức các điểm du lịch, văn hoá cũng đòi hỏi phải có sự tham gia của văn hoá dân gian ứng dụng. Trong lĩnh vực du lịch, văn hóa dân gian ứng dụng được tiến hành nghiên cứu việc đánh giá tài nguyên tiềm năng của du lịch (nhất là tài nguyên du lịch nhân văn). Bất cứ việc quy hoạch hoặc xây dựng sản phẩm du lịch ở đâu cũng cần các nhà văn hóa dân gian ứng dụng tư vấn đánh giá trữ lượng, giá trị tài nguyên du lịch nhân văn, đề xuất phương thức khai thác xây dựng sản phẩm. Trong các chất liệu xây dựng sản phẩm du lịch có đủ các loại hình của văn hóa dân gian đáp ứng nhu cầu ăn (ẩm thực, trình diễn cách ăn, ứng xử trong ăn uống) hoặc đáp ứng nhu cầu xem (xem nghệ thuật trình diễn trò chơi , sinh hoạt văn hóa ,..) đáp ứng nhu cầu mua sắm đồ lưu niệm, quà tặng (như sản phẩm ngành nghề thủ công, cách  sản xuất thủ công),… Mặt khác, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian ứng dụng vừa tập trung nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc tạo thành sản phẩm, thương hiệu của du lịch, nghiên cứu mối quan hệ tác động giữa các yếu tố văn hóa dân gian với du lịch (vừa nghiên cứu những tác động tích cực lại vừa nghiên cứu những tác động tiêu cực) nhằm tư vấn xây dựng các định hướng phát triển bền vững. Đồng thời, văn hóa dân gian ứng dụng không chỉ nghiên cứu để tạo sản phẩm du lịch mang sắc thái địa phương có du khách, đáp ứng được nhu cầu mà còn nghiên cứu mối quan hệ về chủ sở hữu sản phẩm du lịch, quan hệ giữa du khách và người dân, quan hệ giữa doanh nghiệp với cư dân bản địa... Bài học kinh nghiệm đã chỉ ra ở nhiều điểm du lịch trên thế giới và Việt Nam lụi tàn vì chưa chú trọng đến mối quan hệ giữa “khách thể” và “chủ thể”. Hiện nay vấn đề phát triển du lịch bền vũng đang là định hướng chung của toàn ngành du lịch. Phát triển du lịch bền vững đòi hỏi việc khai thác tài nguyên du lịch một cách hợp lý vì lợi ích của thế hệ tương lai chứ không chỉ vì lợi ích của thế hệ hiện tại. Phát triển du lịch bền vững cũng đòi hỏi phải xây dựng mối quan hệ thân thiện với môi trường, bảo vệ môi trường, hài hòa xã hội bảo vệ lợi ích cộng đồng cư dân bản địa cũng như bảo vệ di sản văn hóa, tôn trọng sự đa dạng văn hóa các tộc người. Trong định hướng phát triển du lịch bền vững đòi hỏi sự tham gia tích cực của văn hóa dân gian ứng dụng.

Hiện nay, do tác động của qúa trình biến đổi khí hậu, thiên tai liên tiếp xảy ra đối với các tỉnh vùng ven biển và núi cao. Trong 20 năm gần đây, Lào Cai đã xảy ra 43 vụ lũ quét, lũ ống gây thiệt hại nghiêm trọng về người và của. Các hiện tượng cháy rừng, mưa đá, băng giá cũng xảy ra thường xuyên. Tuy biến đổi khí hậu xảy ra ở thời gian gần đây nhưng hiện tượng thiên tai luôn là hiện tượng phổ biến trong đời sống người dân. Người Việt cũng như nhiều dân tộc thiểu số anh em đã sáng tạo cả một kho tàng tri thức dân gian về phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường. Vì vậy Văn hóa dân gian ứng dụng cần có một phân ngành nghiên cứu về tri thức dân gian phòng chống thiên tai. Vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu Văn hóa dân gian Nhật Bản xây dựng thành các dự án khoa học. Năm 2004, Bộ Nội vụ và Cục phòng chống hỏa hoạn thiên tai Nhật Bản đã phối hợp với các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian xây dựng dự án “cải thiện cơ sở dữ liệu về truyền thuyết liên quan đến thiên tai”. Giáo sư Sakurai Tatsuhiko ở Đại học Nagoya Nhật Bản đã đề xuất nhiệm vụ quan trọng của Văn hóa dân gian ứng dụng: “Khi thế giới chìm đắm trong khủng hoảng (thiên tai), nhiệm vụ của chúng ta, những nhà Văn hóa dân gian là phải tìm cách đối phó với các vấn đề và là một phần của giải pháp trong các vấn đề đó”[3]. Ở Việt Nam vấn đề nghiên cứu văn hóa dân gian còn rất mới mẻ nhưng yêu cầu của thực tiễn cuộc sống đã được đặt ra cấp thiết. Đầu tháng 2 năm 2010 rừng Quốc gia Hoàng Liên bị cháy dữ dội, đám cháy lan rộng hàng trăm ha. Hơn ba nghìn bộ đội, dân quân cùng nhiều phương tiện hiện đại tiến hành chữa cháy. Nhưng rất tiếc đám cháy vẫn lan rộng. Trước tình hình đó, lãnh đạo tỉnh Lào Cai đã huy động hơn một trăm dân quân là con em đồng bào các dân tộc Hmông, Dao áp dụng tri thức dân gian dập lửa cứu rừng. Hệ thống tri thức dân gian( từ việc dự báo hướng gió, sức gió đến việc làm đường ranh cản lửa, cách dập lửa ở đỉnh núi cao,...) của người Hmông, người Dao đã được vận dụng đồng bộ. Nhờ vậy, trận cháy rừng lịch sử đã được dập tắt. Kinh nghiệm này được vận dụng và góp phần cứu nhiều đám cháy rừng xảy ra từ năm 2010 đến nay có hiệu quả. Ở các vùng ven biển miền Trung, người dân địa phương có nhiều kinh nghiệm dự báo và phòng chống bão lũ. Do đó vấn đề nghiên cứu về văn hóa dân gian phòng chống thiên tai cần được coi trọng, cần xây dựng lĩnh vực này trở thành một phân ngành của Văn hóa dân gian ứng dụng. Trước hết, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian phối hợp với ngành khí tượng thủy văn và các ngành hữu quan tập trung sưu tầm, nghiên cứu xây dựng các dự án về kinh nghiệm phòng chống thiên tai như dự án sưu tầm các truyền thuyết, truyện cổ, tục ngữ, dân ca về các hiện tượng thiên tai đã xảy ra trong quá khứ, hoặc nghiên cứu các tri thức dân gian phòng chống các hiện tượng thiên tai cụ thể (phòng chống cháy rừng, phòng chống lũ quét, phòng chống bão lũ,...). Dựa vào các nguồn thông tin của thế hệ đi trước truyền lại bằng các câu chuyện kể, tập quán... các nhà nghiên cứu có thể phân tích các kinh nghiệm này về các lĩnh vực dự báo thiên tai, khắc phục thiên tai, nhưng quan trọng hơn là “chung sống” với thiên tai. Văn hóa dân gian phòng chống thiên tai có nhiều điều kiện để phát triển mạnh trong thời gian tới (cả về mặt nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu ứng dụng).

          Phong trào xây dựng Nông thôn mới đang diễn ra ở hầu khắp vùng nông thôn từ miền núi đến đồng bằng, từ vùng người Kinh đến vùng cư trú của dân tộc ít người. Phong trào xây dựng nông thôn mới đã gặt hái được nhiều thành công , xuất hiện nhiều mô hình trở thành các điểm sáng ở nông thôn. Bộ mặt nông thôn cũng được biến đổi, hệ thống giao thông (nhất là giao thông liên thôn) đã phát triển rộng khắp,... Bên cạnh các kết quả đã đạt được, phong trào xây dựng nông thôn mới còn một số điểm hạn chế nhất là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cư trú. Nguyên nhân chủ yếu là các nhà hoạch định chính sách không am hiểu thực tiễn ở miền núi, không nắm vững đặc điểm văn hóa dân gian, đặc trưng văn hóa tộc người,... nên đã xây dựng các tiêu chí không phù hợp. Ở miền núi, vùng cao diện tích đất canh tác rât ít, diện tích mặt bằng để gieo trồng lương thực còn vô cùng hạn chế nhưng các tiêu chí nông thôn mới lại đề ra quy hoạch, xây dựng các trụ sở, các thiết chế văn hóa thể thao quá rộng dẫn đến tình trạng không một xã nào ở vùng cao đáp ứng được tiêu chí “cứng nhắc” như vậy. Các nhà hoạch định chính sách cũng chưa hiểu về đặc điểm sinh hoạt chợ vùng cao, về điều kiện và nhu cầu mở chợ ở vùng cao nên thời kỳ đầu đã có chủ trương mỗi xã muốn đạt tiêu chuẩn xây dựng nông thôn mới phải xây dựng một chợ của riêng xã đó. Dẫn đến tình trạng nhiều xã đua nhau xây chợ nhưng chợ xây xong lại bỏ hoang, người dân không đến họp chợ hoặc không họp vào điểm chợ đã được quy hoạch. Tương tự như vậy, các tiêu chí về môi trường, về giao thông, về quy hoạch, về thủy lợi,... có nhiều điểm không phù hợp với miền núi và không thể thực hiện được. Trong khi đó rất nhiều vấn đề tri thức dân gian trong sản xuất, quản lý xã hội, bảo vệ môi trường, xây dựng nếp sống... lại ít được vận dụng và phát huy. Tri thức dân gian (cũng như tri thức bản địa, tri thức địa phương ...) đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong vấn đề xây dựng nông thôn mới hiện nay. Tri thức dân gian gần như là một công cụ để vận dụng và thực thi chính sách ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ở nông thôn,... Do đó xây dựng nông thôn mới cần đặc biệt chú ý ứng dụng tri thức dân gian. Ở lĩnh vực này vai trò của văn hóa dân gian ứng dụng càng trở lên quan trọng và cấp thiết.

          Nghiên cứu Văn hóa dân gian ứng dụng cũng làm thay đổi vai trò, trách nhiệm của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian. Nhà văn hóa dân gian không còn chui sâu vào: Tháp ngà khoa học” không chỉ mải mê sưu tầm vốn cổ dân gian mà phải “xung trận” tham gia giải quyết những vấn đề bức thiết của cuộc sống đương đại.

          Đất nước đang trong quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa, các kế hoạch, các chương trình, đề án, dự án,... được thực thi ở khắp mọi miền. Các chính sách liên tiếp được ban hành. Nhưng các chính sách, các kế hoạch, các chương trình này có đến được với người dân hay không, người dân có nhiệt tình tham gia hay không? Các dự án lớn được xây dựng có tác động như thế nào đến với đời sống của nhân dân nhất là những tác động của văn hóa xã hội ra sao? Những vấn đề như vậy đòi hỏi có sự tham gia của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian (cũng như các nhà nhân học). Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian với tư cách là người am hiểu nhất về bản sắc văn hóa các dân tộc, am hiểu về nếp sống, về tri thức dân gian, do đó họ có điều kiện trở thành nhà tư vấn cung cấp các thông tin cho những người xây dựng và thực thi chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án. Đồng thời các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cũng trở thành những người thẩm định đánh giá kết quả thực hiện chính sách, dự án đó. Khi xây dựng một nhà máy thủy điện, một khu công nghiệp ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số, nhà văn hóa dân gian còn tham gia thẩm định tác động của các công trình đó với đời sống người dân như thế nào? Nếp sống của người dân, kho tàng tri thức dân gian của người dân bị ảnh hưởng ra sao khi xây dựng nhà máy thủy điện, khu công nghiệp. Ở mỗi địa phương nhất là khu vực miền núi, hải đảo, biên giới, vùng dân tộc thiểu số cư trú,... đều có những tính đặc thù. Tính đặc thù đó chi phối cả quá trình thực hiện chính sách, đòi hỏi chính sách phải được vận dụng phù hợp với từng địa phương. Nhà văn hóa dân gian là người am hiểu về tính đặc thù do đó họ có thể trở thành những người đồng tham gia hoạch định chính sách, xây dựng chính sách cho phù hợp với từng vùng miền cụ thể. Mặt khác khi triển khai chính sách, khi xây dựng các mô hình, dự án (như dự án du lịch cộng đồng, dự án khôi phục làng nghề, hay mô hình xóa đói giảm nghèo ở tộc người A, tộc người B,...) đòi hỏi phải có sự tham gia của các nhà văn hóa dân gian ứng dụng với tư cách là người hướng dẫn, tập huấn (cùng các nhà chuyên môn khác) nhằm thực hiện dự án đó phù hợp với người dân bản địa, phù hợp với nếp sống văn hóa của từng tộc người khác nhau. Như vậy, nhà nghiên cứu Văn hóa dân gian ứng dụng vừa đóng vai trò cung cấp thông tin lại cũng đóng vai trò xây dựng chính sách, thiết kế dự án và cả vai trò người thực thi, người huấn luyện, truyền dạy một bộ phận của dự án liên quan đến yếu tố văn hóa xã hội.

          Văn hóa dân gian ứng dụng ngày nay càng đóng vai trò quan trọng. Văn hóa dân gian ứng dựng vừa mở ra chân trời mới cho các nhà Folklore vừa đòi hỏi trách nhiệm mới của nhà nghiên cứu. Vấn đề đặt ra ở đây xin chỉ được coi là những gợi ý bước đầu nhằm thu hút sự quan tâm, trao đổi của độc giả.

Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số tháng 9/2014, tr.3-12.

________________________

[1] Benjamin Albert Botkin (1901 - 1975) là một nhà văn hoá dân gian và học gỉả người Mỹ. Ông giảng dạy tại Đại học Oklahoma trong đầu những năm 1920.

[2] Ở một mức độ, khái niệm này bị ảnh hưởng bởi định nghĩa Nhân học ứng dụng của John van Willigen, Anthropology In Use: A Bibliographic Chronology of the Development Applied Anthropology (Plesantville, N.Y.: Redgrave, 1980), tr.3.

[3] Hội Folklore châu Á (2006), Giá trị và tính đa dạng của folklore châu Á trong quá trình hội nhập, tr.89.

 

TS. Trần Hữu Sơn

Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/van-hoa-dan-gian-ung-dung-ky-mot-a3221.html