Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 46)

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc tác phẩm “Lịch sử Việt Nam từ tiền sử đến năm 2007” của PGS TS Cao Văn Liên  do NXB Thanh niên ấn hành năm 2009.

cvl2-1628470852.jpg

 

Kỳ 46

Sau khi hợp tác xã giải thể thì người nông dân Việt Nam trở thành nông dân cá thể, tư hữu. Chế độ tư hữu tư liệu sản xuất vốn tuân theo qui luật phân hoá giàu nghèo. Đã diễn ra hiện tượng một bộ phận nông dân do nhiều nguyên nhân đã phá sản, đã phải chuyển nhượng ruộng đất cho người khác và mất ruộng đất. Hiện tượng này diễn ra nhiều nhất ở đồng bằng Nam Bộ. Năm 1988, số nông hộ không có ruộng đất  chiếm 0,7%, đến năm 1998 đã lên 5, 6 % (NCLS số 6-2004). Sự tích tụ ruộng đất vào tay một số người diễn ra theo chiều hướng gia tăng. Sản phẩm nông nghiệp ở nước ta rẻ và bị giảm giá vì sản phẩm kém chất lượng, do bị cạnh tranh chèn ép làm cho ngươì nông dân khó khăn. Nhà nước đã tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông dân qua các chương trình xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn. Nhưng do đầu tư còn ít và phân tán, vùng nông thôn quá rộng lớn cho nên đầu tư của Chính phủ chưa đủ sức mạnh tạo nên sự chuyển biến có tính chất đột phá cho nông thôn, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa  của miền núi. Vì vậy, đa số nông dân vẫn sống ở mức nghèo khó, ngay cả nông dân Nam Bộ nhiều ruộng vườn, là vựa lúa và hoa quả của cả nước và của Đông Nam Á. Dân số gia tăng, ruộng đất ít, nông dân phải đối mặt với nạn thiếu việc làm vì lực lượng lao động tự nhiên tăng mỗi năm 1,2 triệu người  mà nông thôn là nơi tăng mạnh nhất. Cho đến năm 2000 ở nông thôn có 9 triệu người thiếu việc làm. Thanh niên nông thôn , đặc biệt là thanh niên miền Bắc và miền Trung tản mác về các đô thị kiếm việc làm, vào làm ở các nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc xuất khẩu lao động ra ngoài nước. Những năm cuối cùng của thế kỷ XX, nông dân liên tục phải  đối mặt với nạn lũ lụt bão gió, đại dịch HIV, dịch cúm gia cầm, gia súc. Tất cả đã gây thiệt hại to lớn cho nông thôn và nông dân. Nông dân là giai cấp chủ yếu cung cấp nguồn bổ sung cho giai cấp công nhân, cho trí thức, cho thị dân, cho quân đội, công an, cảnh sát, đóng vai trò chính trong sản xuất nông nghiệp. Nông dân vẫn là một trong những lực lượng xã hội  làm chỗ dựa chính trị vững chắc cho Đảng và Nhà nước, cùng với công nhân là nền tảng cho Mặt trận đoàn kết dân tộc. Nông dân là một trong những lực lượng chính trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và tương lai của giai cấp nông dân cũng phụ thuộc vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phụ thuộc vào tương lai vận mệnh của dân tộc. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu nông thôn đang là một sự nghiệp to lớn và bức thiết của toàn Đảng và của toàn dân trong những thập niên tới .

Trí thức Việt Nam (1975-2007: Trong mọi thời đại, trí thức là một tầng lớp quan trọng trong xã hội. Về phương diện nhà nước  từ cổ đại cho đến ngày nay, nhà nước chung qui chỉ có ba bộ phận: Bộ phận hành chính, thứ hai là cơ quan sức mạnh bao gồm quân đội và các lực lượng  khác, bộ phận thứ ba là trí thức, hoặc là cả tăng lữ và trí thức. Trí thức theo các lý thuyết thì không phải là một giai cấp  vì họ không có tư liệu sản xuất, không gắn với một hệ thống sản xuất xã hội. Họ phục vụ cho giai cấp nào thì mang tính từ của gia cấp đó như trí thức chủ nô thời cổ đại, trí tức  phong kiến  thời kỳ trung đại, trí thưc tư sản, trí thức xã hội chủ nghĩa thời kỳ hiện đại .

Ở nước ta, tầng lớp trí thức mới, trí thức cách mạng ra đời  từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, sau sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ban đầu là những trí thức được đào tạo dưới thời thuộc địa Pháp nhưng họ có tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, lại do chính sách trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của nhà nước nên họ đã đi theo cách mạng, đi theo kháng chiến, phụng sự dân tộc, phụng sự nhân dân, đã đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền văn hoá mới. Tầng lớp này được gọi là trí thức cách mạng, trí thức kháng chiến và khi đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội thì được gọi là trí thức xã hội chủ nghĩa. Đây là những thế hệ trí thức mới đựơc đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng  trong nước  hoặc từ các trường đại học, các học viện  của các nước xã hội chủ nghĩa mà nhiều nhất là Liên Xô. Trong thời kỳ 1954-1985, học vị phó tiến sĩ, tiến sĩ ta chưa đào tạo được trong nước mà nguồn hoàn toàn do Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa anh em như Ba Lan, Cộng hoà dân chủ Đức, Cu Ba, Tiệp Khắc . . . đào tạo, trong đó Liên Xô đóng vai trò đào tạo chủ yếu nguồn trí thức cao cấp cho nước ta. Tính đến năm 1986, khoảng 2.000 tiến sĩ và phó tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài.  Tầng lớp trí thức của ta đã phục vụ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế,  xã hội, khoa học, văn hoá, nghệ thuật, xây dựng, kiến trúc, giao thông vận tải, cơ khí, quân sự, chính trị, ngoại giao, quốc phòng, báo chí, truyền thông, y dược, ngân hàng, chứng khoán. Sau năm 1991,  nguồn trí thức từ đại học trở lên  do ta tự đào tạo trong nước. Số ít được đào tạo ở Nga, Nhật, Mỹ, Otstrâyli a, Trung Quốc  và một số nước khác. Một thế hệ trí thức mới ra đời với trình độ mới do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại mang lại, có khả năng phục vụ cho việc xây dựng một nền kinh tế hiện đại, khoa học công nghệ tiên tiến của nước nhà. Chúng ta cũng đã chuẩn hoá lại học vị, bỏ học vị phó tiến sĩ, qui định học vị cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ cho phù hợp với qui định của thế giới. Người có học vị tiến sĩ có nhiều công lao trong nghiên cứu khoa học và đào tạo được nhà nước phong học hàm phó giáo sư  và giáo sư. Ở nước ta Giáo sư và Phó giáo sư là đỉnh cao nhất của trí tuệ học thức và cống hiến. Năm 2007, ta đã có khoảng 6.500 Giáo sư và Phó giáo sư, hàng vạn tiến sĩ, thạc sĩ và cán bộ giảng dạy đại học, cao đẳng, cán bộ ở các Viện nghiên cứu, ở các bệnh viện, trong các cơ quan dân sự và quân sự. Còn có một triệu giáo viên trong hệ thống tiểu học, phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Trí thức Việt Nam hiện đại còn bao gồm cả các nhà văn, nhà thơ, nhà báo và những nguời làm việc trong các ngành văn hoá nghệ thuật .

Tầng lớp trí thức Việt Nam hiện đại xuất thân từ nhiều giai tầng  khác nhau: Từ gia đình trí thức, thị dân thành thị, con em công nhân viên chức nhà nước, thương nhân, nhưng phần lớn trí thức Việt Nam xuất thân từ gia đình nông dân và công nhân, Cho nên có thể nói trí thức Việt Nam hiện đại là con đẻ, là sự tổ hợp đủ mọi giai tầng xã hội. Nguồn gốc xuất thân này bảo đảm tính cách của trí thức Việt Nam, gần gũi với  nhân dân lao động, giầu tình yêu quê hương đất nước, đồng cảm, chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với nhân dân. Khi họ đã đạt đến đỉnh cao trí tuệ thì cũng là lúc họ thấu hiểu sâu sắc cái đức: Trung với nước và hiếu với dân.  Do hoàn cảnh đất nước còn nghèo nên đồng lương của trí thức Việt Nam nhìn chung chỉ bảo đảm cuộc sống bình thường nhưng họ không bao giờ chểnh mảng với công việc, phần vì ham mê sáng tạo, phần vì tận tuỵ vì dân vì nước. Trí thức Việt Nam đóng một vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước, trong sự nghiệp phát triển văn hoá khoa học kỹ thuật, trong sự nghiệp giáo dục, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì trí thức Việt Nam là người có trí thức, truyền bá kiến thức, đào tạo các thế hệ trí thức mới cho nước nhà, nghiên cứu khoa học để giải quyết những vấn đề mà công cuộc hiện đại hoá, công nghiệp hoá  đất nước đặt ra. Một bộ phận lớn trí thức đã trực tiếp tham gia lao động. Trí thức Việt Nam ngày càng đông đảo trong các lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học. Tiêu chí  của một đất nước phát triển văn minh sẽ là trí thức chiếm phần lớn phần trăm  trong tỉ lệ dân cư .

Tầng lớp thị dân: Có thể coi những người sống và làm việc ở  các đô thị và các  thành phố  là thị dân bao gồm một bộ phận hầu hết các giai tầng của xã hội Việt Nam  hiện đại. Nhưng thị dân trong lịch sử chỉ  đề cập đến những người không có tư liệu sản xuất,  không phải  trí thức, cũng không phải là công chức. Đó là những người làm nghề thủ công, những người buôn bán nhỏ, những người bán hàng rong trên các hè phố. Từ năm 1986 đến 2007 do chính sách đổi mới với nhiều thành phần kinh tế, đô thị mọc lên nhiều và ngày càng phồn vinh là cơ sở kinh tế địa bàn để thị dân phát triển mạnh. Trong qui luật của cơ chế thị trường, thị dân cũng bị phân hoá giàu nghèo. Thị dân Việt Nam hiện đại cũng đóng vai trò trong nền kinh tế, gạch nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Tương lai của họ cũng như các tầng lớp khác trong xã hội phụ thuộc vào tương lai của dân tộc, phụ thuộc vào công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. .

Tầng lớp doanh nhân: Trong thời kỳ  đổi mới, nhà nước cho phát triển nhiều thành phần kinh tế bao gồm doanh nhiệp nhà nước,  doanh nghiệp tư nhân Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài (FDI). Tương ứng với các nền kinh tế đó xuất hiện tầng lớp doanh nhân. Doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước thì quyền sở hữu nhà máy, xí nghiệp, công ty thuộc nhà nước, những người lãnh đạo các cơ sở kinh tế này chỉ có quyền sử dụng tài sản và vốn đầu tư của nhà nước để kinh doanh. Kinh tế nhà nước phải đóng vai trò chủ chốt của nền kinh tế quốc dân. Cho đến năm 2000 có khoảng 5.280 doanh nghiệp nhà nước với số vốn 116.000 tỉ đồng Việt Nam, bình quân mỗi doanh nghiệp sử dụng 22 tỉ đồng, chiếm khoảng 45,5% tổng tài sản cố định của nền kinh tế. Trong doanh nghiệp nhà nước vừa có doanh nghiệp trung ương vừa có doanh nghiệp địa phương. Đứng về mặt sở hữu, những doanh nhân của doanh nghiệp nhà nước không thể gọi là tư sản. Tài sản của các doanh nghiệp nhà nước là của nhà nước, không phải của một cá nhân nào . Các Tổng giám đốc, giám đốc chỉ thay mặt nhà nước  quản lý, vận hành kinh doanh và chịu hoạch toán với nhà nước .

Những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là tư sản nhưng không phải thuộc doanh nhân Việt Nam. Cho đến năm 2007, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam lên đến 21 tỉ USD, là một lực lượng kinh tế khá lớn ở Việt Nam .

Những doanh nghiệp do vốn tư nhân của các doanh nhân Việt Nam đầu tư kinh doanh là một trong những thành phần kinh tế quan trọng của đất nước. Những chủ nhân của các doanh nghiệp,  xí nghiệp tư nhân là một bộ phận của doanh nhân Việt Nam, làm ăn có hiệu quả. Tính đến năm 2007 có khoảng 200.000 doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra còn có khoảng 3 triệu hộ kinh doanh cá thể. Những doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là kinh doanh trong lĩnh vực đấu thầu những công trình xây dựng đường sá, xây dựng nhà cửa, các khu chung cư, chế biến nông, thuỷ, hải sản, buôn bán trong các lĩnh vực dịch vụ mà chủ yếu là lương thực, thực phẩm. Doanh nghiệp tư nhân làm chủ tư liệu sản xuất và kế hoạch  nên năng động, bộ máy gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả. Từ năm 1997 đến năm 2000, khu vực ngoài quốc doanh tăng trưởng 18,5 %, trong khi đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ tăng 15 % , khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng 12 %. Trong xu hướng phát triển của đổi mới và hội nhập, đặc biệt trong chính sách cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước làm ăn không hiệu quả thì thành phần kinh tế doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nhìn chung, cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân còn non yếu so với các doanh nghiệp trên thế giới, không đủ sức cạnh tranh trên bình diện quốc tế. Trong thị trường nội địa với 70% dân số là nông dân, sức mua còn thấp. Biến nông thôn Việt Nam thành một thị trường rộng lớn và đủ sức cạnh tranh trên thị  trường quốc tế là một thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam .

(Còn nữa)

CVL

 

PGS TS Cao Văn Liên

Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/lich-su-viet-nam-tu-tien-su-den-nam-2007-ky-46-a5131.html