Giã từ - Tiểu thuyết của Phạm Việt Long - Chương hai - Vụ án xoay tít thò lò

Với hơn 400 trang sách, Giã từ là một tiểu thuyết có dung lượng khá lớn. Cuốn sách cho thấy một giai đoạn chuyển tiếp, tranh chấp quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tốt đẹp và cái xấu xa, giữa bảo thủ, trì trệ và cách tân, năng động, giữa đạo đức trong sáng và thói vụ lợi, tham lam, quỷ quyệt. Ðây là một trong 51 cuốn tiểu thuyết đã lọt vào vòng chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam

bia-gia-tu-1627524038.jpg

 

Chương hai

ĐẢO ĐIÊN TRONG VÒNG XOÁY

 

Vụ án xoay tít thò lò

 

Được Đại Sư phụ chỉ giáo, Đản sáng cả mắt ra. Gã tìm gặp Trương Nha. Hai gã cùng với Nguyễn Tuấn Lặng vào nhà hàng Đại tửu lầu khá sang ngay gần Khách sạn Bạch Liên. Trương quen uống rượu suông, Đản cũng chiều. Trương bảo có thời gã sang Nhật Bản uống rượu Sa kê nhiều đâm nghiện, nay chỉ thích uống rượu Sa kê. Có ngay. Việt Nam chúng ta mở rộng giao lưu với thế giới cho nên cái gì cũng có. Nhập khẩu là có tất. Nhập từ cọng tăm của Thái Lan đến con cá trứng của Nhật Bản. Nhập Siêu. Cho nên ở Việt Nam có hầu hết những thứ mà con người cần, mang nhãn mác đủ các nước, đủ các hãng trên thế giới. Vì vậy, rượu Sa kê chính hiệu Nhật Bản cần là có ngay. Ba gã nâng cốc, tợp một tợp thứ rượu được hâm nóng có mùi ngai ngái vị nồng nồng. Đản chẳng thích gì loại rượu này, nhưng để tỏ lòng hữu hảo với Trương, gã liên tục nâng lên hạ xuống. Gã nắm tay Trương, giọng chảy dài một niềm thông cảm. Lặng dịch lại, cũng bằng cái giọng chảy dài thê lương như vậy: ‘’Tôi rất ái ngại cho hoàn cảnh của ông, bị bọn thằng Chu sa thải. Bọn chúng là xã hội đen (Đản rất hay dùng từ này để chỉ những người mà gã không ưa. Chính Trương Nha đã bị gã gọi là xã hội đen trong báo cáo chính thức gửi Bộ và Tập đoàn Tri thức). Không thể hợp tác với chúng được và cũng không thể quy hàng chúng được. Phải phản kháng. Đúng rồi, chúng ta cùng phản kháng. Tôi cũng phản kháng nhưng vẫn phải rút khỏi Khách sạn, bởi vì tôi bị cơ quan chủ quản gọi về. Còn ông, không ai bắt ông ra khỏi Khách sạn được. Dấu ông cứ giữ. Buồng làm việc ông cứ giữ. Ghế ông cứ giữ. Thằng Chu trốn biệt ở Đài Loan vì đã bị cơ quan Chức năng Việt Nam truy tố, nó làm gì được ông nào. Ông cứ làm Tổng Giám đốc. Ông hãy khiếu nại cơ quan hữu trách Việt Nam. Thằng Chu can án rồi, làm gì có quyền làm Chủ tịch nữa. Thế thì Quyết định của nó làm gì có hiệu lực. Ông cứ đấu tranh đi, chúng tôi đứng về phía ông. Trước mắt, ông hãy tiếp nhận ông Nguyễn Tuấn Lặng trở lại làm việc tại Khách sạn’’.

Không rõ Trương Nha có phải là dân xã hội đen Hồng Kông như lời Đản đã từng báo cáo không, cái đó chưa được minh chứng, nhưng về năng lực quản lý, thấy rõ anh ta yếu kém. Khi anh ta đảm nhận chức vụ Tổng Giám đốc, Khách sạn càng thua lỗ, chỉ trong sáu tháng đã lỗ mất một trăm năm mươi ngàn đô la Mỹ. Đang bực tức vì bị ông chủ Đài Loan thải loại, Trương càng uất ức trước những lời khích bác của Đản. Gã nâng cao ly rượu, giọng lè nhè: "Ta thề không chịu thua vợ chồng thằng Chu. Ta cùng sát cánh bên nhau!".

Từ hôm đó, Trương ở lỳ tại Khách sạn, độc chiếm con dấu. Nguyễn Thắng Ngọc xuống thay Lê Đản cũng đành bó tay, chỉ quanh quẩn trong quan hệ nội bộ Khách sạn, không làm được việc gì ra ngoài. Trong khi đó, Trương bắt đầu thể hiện rõ bản chất lưu manh của mình. Có hôm, hắn khuân một lô bát đĩa, thìa nĩa của Khách sạn về trang bị cho một cửa hàng ăn mà hắn mới mở ở phố Mai Hắc Đế. Minh thấy bí quá. Ngọc tuy được Ban Lãnh đạo đồng ý bổ nhiệm chức Uỷ viên Ban Lãnh đạo, Phó Tổng Giám đốc thứ nhất Liên doanh thay Đản, nhưng chưa được cơ quan hữu trách của Hà Nội xác nhận theo quy định của pháp luật. Con dấu thì bị Trương giữ. Muốn liên hệ với các cơ quan khác, không có dấu đóng vào công văn, coi như không có giá trị. Minh báo cáo cho Ngộ, Ngộ nhăn nhó: "Việc đã giao cho chị, chị phải tự lo, tôi đâu biết gì mà giải quyết!". Báo cáo anh Trực, Trực trầm ngâm: "Bọn này giở thói lưu manh, khó đây!". Nhìn bộ mặt thiểu não đầy lo âu của Minh, Trực thấy ái ngại. Đúng là ách giữa đàng lại mang vào cổ. Nếu không bị bắt buộc phải tiếp nhận Liên doanh này từ cái thây ma kia, thì cả anh, cả Minh đâu đến nỗi vất vả, mất uy tín như vậy. Nay, không biết sự việc còn kéo dài đến đâu, còn phức tạp đến đâu. Đã báo cáo, đã đề nghị các cơ quan hữu trách biết bao nhiêu lần rồi, mà vẫn chỉ nhận được sự thờ ơ. Thói vô cảm đang lan mạnh trong các cơ quan công quyền Việt Nam như một bệnh dịch nhưng ít ai quan tâm phòng chống. Trực bảo Minh: "Em chỉ thị cho Ngọc cứ phát huy quyền quản lý tại Khách sạn. Giữ tài sản, không cho tay Trương tẩu tán. Động viên quần chúng tham gia với ta đấu tranh. Những nhân viên nhà hàng, bảo vệ cần theo dõi, báo cho Ngọc những hành vi lưu manh của Trương để ngăn chặn. Em làm văn bản để anh ký thông báo cho các cơ quan hữu trách về việc Trương Nha đã thôi làm Tồng Giám đốc nhưng vẫn giữ con dấu. Đề nghị giúp ta thu hồi con dấu!". Minh nhanh chóng triển khai ý kiến chỉ đạo của Trực. Quần chúng phát hiện Trương chuẩn bị khuân đi một số tài sản có giá trị của Liên doanh. Ngọc cùng bảo vệ yêu cầu Trương cho xem thùng đồ mà anh ta bảo là đồ dùng cá nhân đem về nhà sử dụng. Mở ra, toàn là máy móc phục vụ chế biến thức ăn và máy FAX. Da mặt vốn tái xanh của Trương lúc này tái dại đi, rồi chuyển sang mầu đỏ rựng. Gã lúng búng trong miệng mấy câu tiếng Đài Loan rồi giao cho bảo vệ thùng đồ. Nhưng, gã đâu có chịu một phép với Ngọc, tuy gã vẫn trờn trợn trước cái uy của Ngọc. Người đàn ông vóc dáng tầm thước, khuôn mặt đầy đặn, mắt sáng trưng, với hàng ria mép đen đậm trông khác xa với Đản, làm cho Trương luôn luôn có cảm giác kiềng nể. Mỗi lần nghe giọng nói sang sảng của Ngọc cất lên những câu tiếng Anh rất chuẩn, ngắn gọn và rõ nghĩa, Trương lại thấy nhụt chí. Ngọc đã tuyên bố thẳng với Trương rằng tôi và ông bây gờ mới quen biết nhau, không oán thù cũng chẳng tình nghĩa, cho nên cứ phép công mà ứng xử. Tôi phải làm tròn bổn phận được giao. Ông cũng phải chấp hành những quy định của pháp luật Việt Nam. Trương ôkê, nhưng lại phá ngầm. Gã cho gọi Nguyễn Tuấn Lặng đến ký hợp đồng làm Thư ký Tổng Giám đốc. Bản hợp đồng được ký không thông qua ban Giám đốc, nhưng lại có dấu đỏ hẳn hoi. Ngọc liền cho khoá phòng làm việc của Trương lại. Hai thầy trò Trương - Lặng đành tá túc ở phòng Nhân sự, nơi mà trước đây Lặng làm Giám đốc (ngang cấp trưởng phòng). Ngọc cũng chỉ thị cho phòng Tài vụ cắt các khoản chi tiêu cho Trương. Trương giãy lên như đỉa phải vôi. Lúc này, hắn mới bộc lộ hết bản chất ti tiện của mình. Hắn bám theo Ngọc dai như đỉa đói, nhèo nhẽo đòi tiền lương, đòi tiền cước điện thoại. Gã lại còn gọi mấy thằng bạn đến ăn chạc ở nhà hàng Á. Mọi người tức giận, khinh rẻ hắn ra mặt. Riêng Ngọc thì bình thản, lạnh lùng, bảo hắn ông nên biết điều một chút, phải ra dáng đàn ông một chút.

Nguyễn Tuấn Lặng vốn có quyền sinh quyền sát đối với những người lao động ở Khách sạn Bạch Liên này. Đặc trách vấn đề nhân sự, kiêm phiên dịch cho Tổng Giám đốc, Lặng là loại thét ra lửa. Với cơ chế ký hợp đồng ngắn hạn liên tục, Lặng tạo ra thế nắm đầu người, ai cũng phụ thuộc vào gã. Ngoài việc phải chịu chi khi chuẩn bị ký lại hợp đồng, người lao động còn phải biết tuân phục hắn vô điều kiện. Ngoài ra, trong số này cũng có mấy người chịu "ơn cưu mang" của Lặng vì đã được hắn cho vào làm việc tại Khách sạn Bạch Liên khi đang lang thang, cơ nhỡ. Đó là chưa kể mấy người có họ hàng, ruột thịt hắn gài vào một số vị trí quan trọng. Khi Lặng không được ký tiếp hợp đồng nữa, hầu hết số người lao động ở đây thở phào nhẹ nhõm. Chỉ có một ít người, trong đó có một vài anh trưởng bộ phận vốn là tay chân của Lặng, là ỉu xìu, co vòi lại. Nay, Lặng trở lại làm việc, một không khí hoang mang trùm lên Khách sạn. Mấy kẻ đàn em của Lặng lại thò vòi ra. Lặng tiếp tục phát huy vai trò của báo chí, cho đăng trên trang nhất báo Việc Làm: "Do nhận thức được lẽ phải, Tổng Giám đốc Liên doanh Bạch Liên Trương Nha đã phục hồi lao động đối với Chủ tịch Công đoàn Nguyễn Tuấn Lặng". Kèm tin là ảnh Nguyễn Tuấn Lặng cùng Trương Nha bắt tay nhau cười ngoác miệng. Tình hình sẽ xấu hơn nếu không ngăn chặn được hoạt động chống phá của hai tay này.

Trực nhận ra một thiếu sót trong chỉ đạo của mình là chậm tiếp cận các cơ quan Chức năng. Minh thì hay xồn xồn, ít lắng lại phân tích tình hình, nhiều khi phát ngôn sơ hở, có khi phân tích không đúng bản chất của sự việc. Minh nói với Trực rằng bọn thằng Đản khoe đã "mua" được hầu khắp cán bộ của những cơ quan Chức năng có liên quan đến việc quản lý Khách sạn Bạch Liên. Ngay cả cơ quan Điều tra cũng không khách quan, cứ bênh chằm chặp bọn thằng Đản, Lặng. Tệ nhất là cô Hoàng Thiên Hàn bên sở Kế hoạch; cô này đứng hẳn về phía Đản để chống Tập đoàn. Trực bảo Minh cứ bình tĩnh, đừng hoang mang mà đánh giá sai mọi người. Chắc không đến nỗi tệ hại như thế đâu. Nhưng anh cũng lo lắng vô cùng. Cuộc sống bây giờ đang trong thời kỳ chuyển giai đoạn cho nên rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Bao giờ trong những thời kỳ chuyển giai đoạn của lịch sử, tình hình xã hội cũng phức tạp, khó nắm bắt và cũng tạo ra nhiều mẫu người mới lạ. Có thói quen quan sát của người làm báo và thói quen nghiên cứu của nhà khoa học, Trực rất chú ý tìm hiểu, phân tích mẫu người của thời đại. Trong nghiên cứu văn học, Trực rất cảm phục giáo sư Trần Đình Hượu, và sau này là người trò giỏi của giáo sư Hượu - Giáo sư tiến sĩ Trần Ngọc Vương - ở chỗ đã phát hiện ra mẫu người Nhà Nho tài tử của giai đoạn lịch sử thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, giai đoạn chuẩn bị chuyển từ Nho học sang Tây học. Trực rất tâm đắc với ý kiến của Giáo sư Trần Ngọc Vương: "Nhà Nho tài tử bằng sáng tác của mình đã làm cho công việc sáng tác văn học trở nên lĩnh vực tiên phong trong đời sống tinh thần của xã hội, nhưng lại chưa đủ sức để kéo bật nó ra khỏi sự kiểm soát của quan niệm Nho giáo chính thống", và "Chỉ với sự xuất hiện mẫu người tài tử, một nền văn học viết bằng ngôn ngữ và thể loại dân tộc mới thực sự hình thành và nhanh chóng đạt tới giá trị cổ điển". Có nghĩa là, trong giai đoạn lịch sử ấy, một lực lượng tiên tiến trong giới trí thức mới hình thành và phát triển, còn non nớt, nhưng đã báo hiệu một sức sáng tạo mới, một đóng góp mới đầy triển vọng góp phần làm thay đổi xã hội; lực lượng ấy cần được coi trọng. Còn bây giờ, chúng ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (người ta hay bỏ bớt cái bổ ngữ định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước để nói gọn là kinh tế thị trường, cho nên người ta hay hiểu theo cách gọn như thế, đâm ra lệch lạc cả) thì mẫu người của nó là gì? Trực cảm thấy thú vị vì phát hiện ra rằng thời đại này không những có một, mà có khá nhiều loại mẫu người với những đặc tính nổi bật, đều tác động vào xã hội, có khi đấu tranh với nhau dữ dội, có khi hoà hợp với nhau, có khi đòi loại trừ nhau. Loại mẫu người chất bao cấp còn khá nhiều, như Nguyễn Thu Minh, Vị Lãnh đạo (tất nhiên mức độ đậm đặc của cái chất ấy ở người này người khác có khác nhau, và không phải không có người đã pha một số chất khác, nhưng cái chất bao cấp vẫn là chính). Biến thể của loại này là loại chất bao cấp mới như Đại Hoạ sĩ lếu tếu. Loại người chất bao cấp và biến thể của nó lao động hăng say, yêu quý chế độ, giữ được đạo đức thời bao cấp, nhưng đã biết lo cho bản thân một cách xứng đáng chứ không vì nhân dân quên mình như xưa. Họ gắn bó với thời bao cấp bằng cả trái tim mình, bằng cả quá trình sống không thể thay đổi được, nhưng họ đã tự đổi mới bằng cách học hỏi, nâng cao tri thức, và họ làm mọi việc để xây dựng cuộc sống mới theo lý tưởng mà họ đã xác định từ đầu đời. Phải có những con người này thì lý tưởng nguyên bản của Đảng Cộng sản mới có khả năng biến thành hiện thực. Loại thứ hai cũng khá nhiều, là sự pha tạp gần như cân bằng giữa hai chất bao cấp và chất thị trường. Loại mẫu người pha tạp này có đặc trưng nổi bật là đạo đức giả, dối trá, trong dân gian gọi đó là loại đồng chí chưa bị lộ. Họ có mặt trong mọi vị trí xã hội, kể cả ở hàng những ngôi cao vọi đến hàng những ngôi kha khá hoặc trung bình trong bộ máy lãnh đạo. Chất bao cấp định hướng hoạt động của họ theo mô hình đất nước Xã hội chủ nghĩa, và họ hành động vì mô hình ấy. Họ có trình độ, có chức vị, có quyền hành. Họ làm việc và yêu cầu người khác làm việc hết mình vì Chủ nghĩa Xã hội. Bên cạnh đó, chất thị trường khiến họ tìm mọi cách vơ vét của cải. Có cơ hội là họ vơ vét. Họ bán chức (vì có quyền thì mới bán được chức chứ dân đen làm sao bán được). Họ làm hậu thuẫn cho bọn tội phạm. Họ tham ô của công, nhận hối lộ. Loại người này chúa hay rao giảng lý tưởng, đạo đức. Nghe họ diễn thuyết trên các diễn đàn, thường thấy họ dạy bảo nhân dân phải noi gương Bác Hồ vĩ đại, phải nêu cao tinh thần trách nhiệm vì hạnh phúc của nhân dân, phải chống tham những tiêu cực. Rời diễn đàn, bản thân họ cũng lao động, thực hiện trách nhiệm khá mẫn cán, và trong các góc khuất, họ thò bàn tay nhơ nhớp ra thu vén quyền lợi bất chính. Một mô hình được nhiều người trong số họ vận dụng là bố làm chính trị, con làm kinh tế. Nói một cách cụ thể, đó là kiểu bố hoạt động trên lĩnh vực chính trị, có địa vị cao trong xã hội, trở thành hậu thuẫn vững mạnh cho con hoạt động trên lĩnh vực kinh tế. Nếu làm theo kiểu chân chính, thì những ông con này lợi dụng ngôi cao của bố để nắm bắt thông tin, trong đó có những thông tin tuyệt mật về tài chính - tiền tệ, về cơ chế - chính sách, rồi vận hành guồng máy của mình theo cách đi tắt đón đầu hốt bạc. Chẳng hạn nhờ những nguồn tin tuyệt mật, biết Nhà nước sắp nâng tỷ giá đô la so với tiền Việt, thì họ quăng tiền Việt ra đổi gom đô la, thu một mẻ lời lớn. Nhiều khi, các ông con này lái cả cơ chế, chính sách, dự án của Nhà nước theo chiều có lợi cho mình. Có ông con mua đất xây dựng Khách sạn cỡ bốn sao. Khi mua, đất nằm sâu trong ngõ, giá rẻ như bèo. Khi bắt đầu xây dựng, một dự án mở đường cấp quốc gia cũng vận hành theo, khiến toà nhà hoành tráng kia đứng sừng sững ngay sát mặt đường. Chưa hết, Khách sạn không lúc nào vắng khách, công suất khai thác lên cỡ chín chục hoặc trên chín trục phần trăm, nhờ ông con này được các cấp hữu trách ưu ái lùa khách cỡ Nhà nước về cho liên tục, hết đoàn chính trị này sang đoàn kinh tế khác rồi đoàn thể thao nọ lại đoàn văn hoá kia. Thậm chí, có ông con mua cả một vùng đất rộng lớn rồi xây dựng Dự án biến nơi này thành khu đô thị vệ tinh của thành phố. Chỉ vài năm sau, Dự án này trở thành hiện thực, khiến cho ông con trở thành ông chủ của mảnh đất vàng, có giá trị nhiều triệu đô la Mỹ. Có những ông con ngông hơn, dùng oai danh của bố làm lá chắn đi buôn lậu hoặc làm ăn phi pháp. Khi ấy, các trạm kiểm soát, các đội chống buôn lậu, chống ma tuý... trở nên bất lực; có trạm vừa nghe ông con xưng danh đã bạt vía kinh hồn mau mau mở barie mời ông con đi thượng lộ bình an. Tiền do các ông con kiếm được lại giúp củng cố ngôi vị của các ông bố. Ngoài ra, có không ít ông quan rất chịu khó chăn dắt các Giám đốc doanh nghiệp, biến doanh nghiệp tư nhân hoặc Nhà nước thành sân sau của mình, ưu tiên cho họ về cơ chế, về dự án, về nguồn vốn, cho họ dựa thế theo kiểu thỏ mượn oai cọp... và tất yếu được họ trả công xứng đáng. Lại có những quan chức có cổ phần ở vũ trường này, nhà hàng nọ, trở thành kẻ bảo kê ngầm cho những hoạt động phi pháp lắm lợi nhuận, nhiều tai tiếng nhưng khó phanh phui. Các quan chức này thuộc hạng người vừa sang vừa giầu, sang là vì có chức vị cao, giầu là vì có thu nhập nhiều gấp không biết bao nhiêu lần thu nhập từ lương công chức, có người là triệu phú, thậm chí tỷ phú đô la. Trên đất nước ta, không thiếu gì những trang trại, khu biệt thự, khu nghỉ dưỡng sang trọng của các ông con và ông bố như thế. Một loại người nữa thuộc mẫu công dân. Họ sống theo trách nhiệm công dân, nghiêm túc thực hiện những quy định của xã hội nhưng không thể hiện những tình cảm nồng cháy với chế độ như những người chất bao cấp, và họ đòi hỏi được trả thù lao xứng đáng theo hợp đồng chứ không chí công vô tư như người chất bao cấp. Tinh thần công dân của họ được thể hiện trong các bản hợp đồng lao động, hợp đồng kinh tế, trong đó có quy định sòng phẳng quyền lợi và trách nhiệm của họ cũng như đối tác. Đối với họ, có cá nhân mới có xã hội, có xã hội mới có nguồn sống cho công dân, và cá nhân phải lao động xây dựng xã hội đồng thời phải được xã hội trả công xứng đáng. Đa số trong số họ chịu khó học hành, nắm bắt công nghệ tiên tiến, có vốn tri thức thực chất và chịu khó bươn chải, chen đua để khẳng định mình trong xã hội. Loại này tập trung vào giới trẻ. Xã hội rất cần lớp người này. Còn có loại cơ hội kiểu như Lý Ngồ Ngộ. Ngoài ra, các loại lưu manh trộm cướp, lừa đảo, buôn gian bán lận... xã hội nào chẳng có. Nhìn vào xã hội, nếu theo con mắt của nhà hội hoạ, thì không chỉ có hai mầu đen và trắng, mà còn có một mầu trung gian khá rộng lớn, đó là mầu xám. Tất cả những đồng chí chưa bị lộ, cơ hội đều nằm trong khoảng mầu xám đó, với mức độ đậm nhạt khác nhau. Trên nền chung của xã hội, thời bao cấp, nhiều thứ bị kìm hãm. Sức sản xuất bị kìm hãm. Sức sáng tạo bị kìm hãm. Dục vọng bị kìm hãm. Và may thay, vì thế mà tội ác cũng bị kìm hãm. Cho nên thời ấy, khó khăn, thiếu thốn lắm nhưng tội phạm không nhiều, tội ác không khủng khiếp như bây giờ. Thời thị trường này, mọi thứ đều bung ra. Sức sản xuất bung ra. Sức sáng tạo bung ra, nhiều khi sinh ra quái thai. Dục vọng bung ra. Tội phạm càng bùng phát. Tội ác nhiều hình nhiều vẻ hơn, dã man hơn. Từ các mẫu người nói trên, các mối quan hệ cũng đa chiều, phức tạp. Việc kiến tạo mối quan hệ với những người có trách nhiệm trong các cơ quan công quyền nhuốm biết bao nhiêu là mầu sắc. Vô tư vì công việc cũng có. Chạy chọt, đút lót cũng có. Cầu xin, van lạy cũng có. Nhờ vả bằng tình thân cũng có. Nhưng, dù bằng cách nào thì cũng cần có các mối quan hệ. Đầu tư vào các mối quan hệ là đầu tư của mọi đầu tư. Mai Chính Trực vốn khái tính, không thích chạy chọt, không muốn luồn lỏi, uốn mình để tạo ra các mối quan hệ. Nhưng anh cũng thấy cần thiết phải có những cuộc tiếp xúc đàng hoàng với một số chức sắc để bảo vệ cái đúng, loại trừ cái sai. Nếu mình lơ là, cứ để những kẻ xấu xa tiếp xúc với những người có trách nhiệm, cung cấp cho họ những thông tin sai lệch, bịa đặt, thì mình dễ bị coi là kẻ tiêu cực. Để có những cuộc tiếp xúc mang tính chính thống, Trực cho tổ chức cuộc họp giữa Tập đoàn với những cơ quan Chức năng có liên quan đến vấn đề Bạch Liên. Những cán bộ cốt cán của Tập đoàn, từ Văn phòng, đến phòng Nghiệp vụ Tổng hợp, phòng Tài vụ... đều sát cánh bên những người lãnh đạo trong cuộc đấu tranh này. Họ phối hợp với Thắng Ngọc ở Bạch Liên nghiên cứu tình hình, chuẩn bị hồ sơ đầy đủ, in thành tập, đóng bìa làm nội dung cho cuộc họp. Minh muốn cảm ơn anh chị em đã hết lòng vì mình, cũng là vì việc chung, nhưng chưa biết cách thể hiện tình cảm thế nào cho thích hợp. Cuộc họp có khá đầy đủ những thành phần cần thiết. Mở đầu cuộc họp, Trực nêu lên những vấn đề mà Tập đoàn đang cần giải quyết ở Liên doanh. Trong đó, có việc quan trọng là thay đổi nhân sự. Tổng Giám đốc Trương Nha đã bị Ban Lãnh đạo Liên doanh sa thải, cần phải trả lại con dấu cho Liên doanh. Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Thắng Ngọc cần được xác nhận chức vị để chính thức làm việc. Qua các ý kiến phát biểu, Trực thấy tình hình khá phức tạp. Có những vướng mắc từ sự vận dụng những quy định của pháp luật, chứ không phải vì cơ quan Chức năng bênh Đản, Lặng, chống Tập đoàn. Mặt khác, cũng có những cơ quan vì thiếu thông tin về Tập đoàn mà hiểu lầm, thiếu thiện cảm với Lãnh đạo cơ quan này. Nhưng riêng Thiên Hàn, cô cán bộ của Sở Kế hoạch, đã bộc lộ rõ thái độ không khách quan, bảo vệ cho Đản, Lặng, chỉ trích vô lối Lãnh đạo Tập đoàn. Những luận điệu mà cô gái có dáng người mảnh mai, gương mặt sắc cạnh, mắt trắng, môi mỏng này phát biểu chẳng khác gì những ý kiến của Đản. Tại sao Tập đoàn đi Đài Loan. Đi Đài Loan làm gì mà lắm thế. Thằng Chu đã là tội phạm mà vẫn sang gặp nó à. Gặp để làm gì, để tìm cách chạy tội cho nó à. Bây giờ thằng Chu đã là tội phạm thì chữ ký của thằng Chu không có giá trị nữa. Một loạt vấn đề Thiên Hàn nêu lên chỉ nhằm quy tội lỗi cho Tập đoàn. Trực thẳng thắn bác bỏ những ý kiến sai lầm của cô gái gầy gò chua ngoa nọ. Anh nói dõng dạc:

- Đoàn công tác sang Đài Loan là thực hiện trách nhiệm của Bộ giao. Đoàn làm việc với đối tác chứ không làm việc với cá nhân Chu. Trong khi Chu vẫn đang là Chủ tịch Tập đoàn thì những văn bản do Chu ký vẫn có hiệu lực... Do vậy, văn bản Chu ký sa thải Tổng Giám đốc Trương Nha, chấp nhận Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Thắng Ngọc khi Chu chưa bị phát lệnh truy nã, thì vẫn phải thực hiện.

Cô Học, cán bộ của Bộ Kế hoạch, phê phán Trực về việc đã gửi công văn đi một số cơ quan thông báo việc Trương Nha đã bị sa thải nhưng vẫn giữ dấu, đề nghị các cơ quan Chức năng giúp thu hồi dấu, nếu không, khi Trương dùng dấu vào việc gì thì Tập đoàn không chịu trách nhiệm. Trực cười thầm. Cô này non quá, nghĩ ngắn quá. Tôi gửi công văn đi, cũng không hy vọng rằng sẽ thu được ngay con dấu của Liên doanh, nhưng để trừ hoạ bây giờ và mai sau. Lỡ tay Ttrương Nha này làm liều, dùng con dấu phục vụ các hoạt động phi pháp thì sao? Giả sử sau này vài ba năm, cơ quan Chức năng phát hiện việc làm phạm pháp nào đó có liên quan đến con dấu của Liên doanh, thì lúc ấy Thông báo này sẽ phát huy giá trị, sẽ là lời bào chữa đanh thép cho Tập đoàn. Thực tế quản lý nhiều năm dạy cho Trực bài học cảnh giác, phòng xa; đặc biệt là phải biết văn bản hoá các ý kiến báo cáo, chỉ đạo... để tránh tình trạng lời nói gió bay. Khối vụ án chỉ khác nhau ở chỗ có báo cáo cấp trên và không báo cáo cấp trên mà đi đến những kết cục khác nhau. Nghĩ thế, nhưng Trực thấy không cần thiết phải tranh luận với cô gái có giọng nói đanh đanh và đôi mắt long lanh này. Cuối cùng, Hội nghị tìm ra điểm chốt để xử lý là truất chức Tổng Giám đốc Trương Nha và công nhận chức Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Thắng Ngọc. Mới chỉ tìm ra điểm chốt chứ chưa phải là giải quyết nó. Cái mà Hội nghị tìm ra ấy, Trực đã thấy từ lâu rồi. Nhưng, việc làm cho cả một tập thể hiểu ra vấn đề then chốt ấy, thống nhất cách xử lý, đã là một thắng lợi. Bản thân Nguyễn Thắng Ngọc cũng đã hoạt động tại Khách sạn như một Phó Tổng Giám đốc thực sự. Ngọc có vẻ có uy, được nhân viên Khách sạn tuân phục. Việc xác nhận Ngọc ở chức vị ấy, chỉ mang tính thủ tục mà thôi. Điểm nóng nhất chính là thằng cha Trương kia. Quan sát cách nghe, cách nói của Liêm, Trưởng phòng thuộc sở Kế hoạch, thủ trưởng trực tiếp của Thiên Hàn, Trực thấy anh này có vẻ đàng hoàng, khách quan. Trực trao đổi riêng với Minh: "Ta phải chủ động hơn nữa. Phải tăng cường quan hệ trực tiếp với những cán bộ có liên quan đến vụ này. Em chủ động hẹn làm việc với anh bạn Liêm kia nhé!".

Cuộc họp thứ hai để giải quyết chuyện của Liên doanh do Hà Nội mời. Đó là kết quả cuộc làm việc riêng mà Trực đã bảo Minh bố trí. Hội nghị cũng đủ thành phần tham dự như hôm trước, có thêm đại diện Cơ quan Chức năng thành phố. Đại diện này là Trịnh Hoài Trung, Phó Thủ trưởng đơn vị. Minh vẫn nói rằng đơn vị này chỉ nghe Đản nên có ác cảm với chúng ta. Trên thực tế, cách đây ít lâu, Trực có làm văn bản gửi cơ quan này xin được cấp bản sao Quyết định khởi tố, truy nã bị can Chu Dung nhưng không được đáp ứng. Tuy khó chịu, nhưng Trực không tin Trung lại có thể bênh vực tay Đản. Trung là một sĩ quan trẻ đầy triển vọng, anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ đổi mới kia mà! Trong cuộc họp, Trực phát biểu:

- Đề nghị ngành Chức năng có biện pháp dứt điểm các sự vụ có liên quan đến Khách sạn Bạch Liên. Những kẻ có tội phải được xử lý. Đã có lệnh truy nã Chu, nhưng chưa bắt được, thì cần hợp tác với cảnh sát quốc tế để bắt bằng được và đưa ra xét xử. Lẽ ra, chúng ta phải bắt cả bà Chin Thục Phương, vì bà này trực tiếp điều hành hoạt động của Khách sạn.

Trực quan sát thấy trên nét mặt Trung thoáng vẻ ngạc nhiên. Có lẽ anh này nghĩ rằng Trực sẽ bênh vực vợ chồng Chu? Trong các bài do nhà báo đại bịa đặt Khánh Đô đăng trên báo Việc Làm, chẳng đã đổ riệt cho Lãnh đạo Tập đoàn Tri thức là tiếp tay cho tội phạm nước ngoài là gì? Trung đứng dậy phát biểu:

- Chúng tôi cũng đã bắt đầu liên lạc với cảnh sát quốc tế để bắt Chu. Chúng tôi cũng đề nghị khởi tố cả vợ Chu là Chin Thục Phương, nhưng Viện Kiểm sát chưa phê chuẩn.

Từ sau ý kiến của Trực, khi bàn đến những vấn đề cụ thể khác, Trực cảm thấy giữa anh và Trung có nhiều điểm tương đồng. Chu tuy bị cơ quan Chức năng Việt Nam truy nã, nhưng trên đất nước ông ta, ông ta vẫn là công dân, và trong Liên doanh, ông ta vẫn là Chủ tịch Tập đoàn. Cũng vì vậy, mọi quyết định của Chu trong Liên doanh vẫn có giá trị. Việc đi Đài Loan họp, là bình thường. Không có quy định nào bắt buộc khi họp Ban Lãnh đạo Liên doanh phải họp tại Việt Nam... Về cơ bản, các cơ quan hữu trách thống nhất sẽ tiến hành các công việc theo tinh thần giúp Liên doanh sớm ổn định, làm lành mạnh môi trường đầu tư. Sau cuộc họp, Trực tranh thủ gặp riêng, bắt tay cảm ơn Trịnh Hoài Trung và hẹn sẽ có dịp gặp chuyện trò lâu hơn. Trung gọi Trực bằng bác, xưng cháu và cũng hẹn sẽ có ngày gặp Trực.

Cuộc họp thứ ba là do Bộ tổ chức ngay tại cơ quan Bộ. Liên doanh chính là con đẻ của Bộ, cho nên Bộ hiểu nó hơn ai hết. Hiểu từ chân tơ kẽ tóc, hiểu những khó khăn, bất lợi của phía Việt Nam trong Liên doanh, hiểu những oan trái của Tập đoàn vì vừa nhận thay cái thây ma làm đối tác thì gặp bao cảnh truân chuyên, cho nên Bộ động viên, Bộ sẽ ra Thông báo tỏ rõ thái độ, Bộ sẽ cử đoàn Thanh tra tiến hành thanh tra Liên doanh để xác định đúng sai, quy trách nhiệm cụ thể cho cá nhân. Vị Lãnh đạo có thái độ rõ ràng, khen ngợi những cố gắng của Tập đoàn, dặn phải cảnh giác, chỉ ra những sơ hở, thiếu sót. Một tuần sau, Tập đoàn nhận được Thông báo kết luận của Lãnh đạo Bộ về Liên doanh Bạch Liên. Trong Thông báo, Bộ khẳng định "Tập đoàn Tri thức tuy mới tiếp thu làm đối tác nhưng đã nhanh chóng nắm tình hình, làm được nhiều việc có lợi cho phía Việt Nam và đấu tranh làm ổn định tình hình".

Thời gian cứ lặng lẽ trôi. Thông báo của Bộ là văn bản duy nhất mà Tập đoàn nhận được sau ba cuộc Hội nghị. Chưa việc nào được giải quyết đến nơi đến chốn. Trực gọi điện đi khắp nơi, đôn đáo, động viên, thuyết phục. Đều nhận được lời hứa sẽ xử lý. Riêng Trung có vẻ chân thực: "Bác thông cảm, chúng cháu phải chờ văn bản của Sở Kế hoạch, nhưng đến nay vẫn chưa thấy họ gửi sang. Chúng cháu cũng đã nhắc họ." Tán thành, ra Nghị quyết, rồi để đấy, không triển khai thực hiện, đó là căn bệnh nan y trường kỳ của nền hành chính Việt Nam. Nhiều vấn đề cần có thái độ rõ ràng, đi đến quyết định dứt khoát lại bị các cơ quan hành chính đưa vào tình trạng im lặng đáng sợ - không đồng ý, không phản đối nhưng cũng chẳng đi đến quyết định nào cho dứt điểm. Căn bệnh này có nguyên nhân sâu xa của nó. Đó chính là nỗi sợ trách nhiệm và thói vô trách nhiệm đang lan ra như vi rút máy tính khắp các cơ quan Nhà nước.

Trực nói với Minh: "Ta cần làm theo phương châm tự cứu mình trước khi trời cứu. Đầu tiên, là phải chính thức hoá vị trí của Ngọc". Trực, Minh liên tiếp gọi điện, gặp Liêm đề nghị tách riêng việc của Ngọc ra để giải quyết, vì việc này mang tính nội bộ, không có gì phiền toái. Trao qua đổi lại, điện nhờ Lãnh đạo này Lãnh đạo nọ tác động, cuối cùng, cũng đã có Quyết định công nhận ông Nguyễn Thắng Ngọc là Uỷ viên Ban Lãnh đạo, Phó Tổng Giám đốc thứ nhất Công ty Trách nhiệm hữu hạn Bạch Liên. Từ Quyết định ấy, Ngọc nhanh chóng làm xong thủ tục và được cấp giấy chứng nhận đảm bảo an ninh cho Khách sạn. Xong được một việc. Sang việc thứ hai, Trực bàn với Minh, Ngọc thử áp dụng biện pháp thuyết phục và ly gián đối với Trương. Vừa nghe lời Ngọc hẹn, Trương đã vui vẻ nhận lời gặp Trực. Trương đưa theo một cô phiên dịch khá xinh người Hải Phòng đến làm việc tại phòng của Trực. Trực nói rằng anh đã nhờ Đản hẹn làm việc mấy lần với Trương nhưng đều chưa được gặp. Trương tỏ vẻ ngạc nhiên. Tôi không thấy ông Đản nói gì. Nhìn khuôn mặt ngựa xương xương, dài ngoẵng, làn da mai mái, đôi mắt bàng bạc, hay nhìn lấc láo, Trực thấy khó tin tay này. Nhưng việc hắn không nhận được lời hẹn gặp, chắc là đúng. Đản không bao giờ muốn Trực gặp đối tác vì gã muốn loè bịp đối tác và che giấu những hành động khuất tất của mình. Trương Nha ba hoa khoe của:

Thấy Trương im bặt, hết đường khoe khoang, Trực tấn công luôn:

Sau khi trao đổi nhiều chuyện linh tinh, Trương hẹn sẽ suy nghĩ thêm.

Biết Trương không phải là kẻ có bản lĩnh và lại ham tiền, Trực bảo Ngọc gặp riêng Trương để nói điều hơn lẽ thiệt. Trực dặn Ngọc: "Bọn này chung quy cũng chỉ vì tiền. Cậu trao đổi với đối tác trợ cấp cho nó mấy chục triệu do mất việc, chắc là nó đồng ý rời khỏi nhiệm sở, trả dấu cho mình". Quả nhiên, sau khi nghe Ngọc thông báo Liên doanh sẽ trợ cấp hai nghìn USD nếu Trương thôi việc và trả dấu, hắn vui vẻ chấp thuận, bỏ mặc đồng minh Đản tức muốn hộc máu. Mất chỗ dựa, Nguyễn Tuấn Lặng cũng lặng lẽ rời Khách sạn với quyết tâm kiện Liên doanh đến cùng để trở lại Khách sạn. Thế là nhổ được một cái gai ở Liên doanh.

Nhìn sự việc phát triển theo chiều hướng ổn định dần tình hình Liên doanh, Đản cay cú vô cùng. Nước cờ mà Đại Sư phụ dạy cho vừa chạy qua chạy lại trên bàn cờ mấy ô đã bị tắc. Có lúc hắn ngồi lặng chìm trong suy nghĩ, môi chúm lại, thỉnh thoảng lưỡi lại thè ra rồi thụt vào rất nhanh, giống như lưỡi rắn thè ra tìm cách bập vào con mồi. Lại phải xin mưu Đại Sư phụ. Lần này, Đại Sư phụ đáp gọn lỏn: Hình sự hoá. Đại Sư phụ không chỉ bày mưu. Đại Sư phụ nhảy hẳn vào vòng chiến.

Như chúng ta đã biết, Đại Sư phụ xuất thân bần hàn, nhờ tham gia đấu tố kẻ giầu mà được nâng đỡ. Lại nhờ được nâng đỡ mà được học hành tử tế. Nói cho công bằng, nhờ cái gien di truyền cao cấp của ông hiếp dâm, Đại Sư phụ rất sáng dạ. Cộng với sự chịu khó, miệt mài học tập, Đại Sư phụ học rất giỏi. Chuyên môn sâu của Đại Sư phụ là luật. Người Đức rất giỏi về triết học và luật, cho nên học luật ở Đức là thượng sách. Nhưng, nước ta mãi sau này mới xây dựng Nhà nước pháp quyền, cho nên luật sư như Đại Sư phụ lúc về nước chưa được trọng dụng lắm. Đại Sư phụ được bố trí vào ngành Văn hiến, phân công lên tận Tây Bắc. Trưởng thành nhờ chế độ, cho nên Đại Sư phụ có một tình yêu chế độ thực sự, và cũng làm nhiều việc phục vụ chế độ. Chàng thanh niên Phu từng luồn rừng vượt suối sâu đèo cao đến các bản làng xa xôi nghiên cứu, sưu tầm phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số, từng cõng trên lưng trên bốn chục cân sách báo tới phân phát cho đồng bào... Nhờ thành tích tốt, Phu được chuyển về cơ quan trung ương. Lúc ấy, cơ quan ưu tiên cho Phu chọn chỗ làm việc. Phu chẳng phải suy nghĩ gì, xin ngay vào cơ quan Tổ chức. Chàng thanh niên này hiểu rõ vai trò của cơ quan Tổ chức trong bộ máy chính quyền nước ta. Quyền hành lớn lắm. Ngay cả một chuyên viên bình thường, cũng có quyền sắp đặt bộ máy, nhân sự. Có quyền hành rồi sẽ có các thứ khác. Nhưng muốn có quyền hành, lại phải biết phục tùng người có quyền. Phục tùng và nhẫn nhục. Có lần, xử lý chậm một hồ sơ, Phu bị Vụ trưởng Tổ chức sạc cho một trận ngay trước mặt mấy đồng sự. Không rõ lần ấy ông Vụ trưởng đang bực chuyện gì, mà té tát như dội nước làm lông vịt ngay lên đầu Phu. Chàng chuyên viên Phu lý nhí xin lỗi và bậm môi ngồi im. Khi Vụ trưởng ra khỏi phòng, Phu nói tỉnh bơ: "Ở nhà có bố có mẹ, phải phục tùng bố mẹ. Ở cơ quan có thủ trưởng, phải phục tùng thủ trưởng như phục tùng bố mẹ. Phải chịu để cho cấp trên hắt nước vào mặt thì mới có cơ được lên chức. Đến khi có chức có quyền rồi, tha hồ mà hắt nước vào mặt cấp dưới." Đúng như vậy, chỉ làm chuyên viên Tổ chức một thời gian, Đại Sư phụ được bổ nhiệm làm Giám đốc một doanh nghiệp của Bộ. Trong thời gian lãnh đạo doanh nghiệp, Đại Sư phụ khá năng dộng. Doanh nghiệp làm ăn được, nộp ngân sách cho Nhà nước kha khá, đời sống anh chị em cán bộ nhân viên được nâng dần lên. Thời nào, đất cũng quý. Thời bao cấp, cán bộ công nhân viên chưa biết quý đất, nhưng Giám đốc của họ là người nhìn xa trông rộng cho nên bảo họ hãy biết yêu đất đi. Người sinh sôi nảy nở chứ đất có biết sinh sản đâu. Khi đất chật người đông thì ai có đất người ấy là kẻ mạnh. Giám đốc xoay xở, xin được hẳn mấy ngàn mét vuông đất cho cơ quan. Chia nhau mỗi người trăm mét, riêng Giám đốc được nhiều gấp ba. Thời bao cấp đất chỉ là đất, thời thị trường đất đã biến thành vàng. Cả cơ quan biết ơn Giám đốc. Cho nên, khi cơ quan bị kiểm tra, săm soi chuyện xin đất có những uẩn khúc, thì có biết bao Lê Lai cứu chúa ở cái Công ty ấy, Giám đốc chỉ bị nhắc nhở sơ sơ. Học ở nước ngoài, tầm nhìn có thoáng hơn người thường, Giám đốc mở rộng hoạt động của Công ty ra bốn phương tám hướng. Phương Nam, có chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh. Phương Bắc, quan hệ buôn bán, xuất nhập khẩu với Trung Quốc, Liên Xô và mấy nước Xã hội chủ nghĩa. Có thứ hàng, nhờ tình hữu nghị, được nước bạn cho không, Giám đốc vẫn bán đều đều, thu biết bao nhiêu là tiền, để ngoài sổ sách. Nhưng Giám đốc không ăn một mình. Giám đốc biết vơ vét, nhưng sớm nhận thức rằng tham thì thâm, ăn một mình đau tức, nên biết vơ vào cho mình mười thì cũng cho quân sĩ vài ba. Từ nhỏ, thấy nhà hàng xóm Nguyễn Nguyên bị quy là địa chủ, chỉ vì làm ăn hơn người lại chẳng chia sẻ cho ai, là bài học đầu đời quý giá cho thằng Tèo hồi ấy, Giám đốc Hoàng Phu bây giờ. Vào thời ấy, làm loong toong cho các ông Đội, Tèo sớm nhận thức được vai trò của những kẻ bề dưới. Các ông Đội cũng phải biết dựa vào những thằng loong toong như Tèo thì mới có bằng chứng để đấu tố địa chủ. Làm Giám đốc, cũng phải biết dựa vào nhân viên. Giám đốc thu nạp mấy nhân viên khố rách áo ôm nhất làm đệ tử. Tạo điều kiện cho làm ăn khấm khá lên. Và khi đệ tử đã khấm khá, Giám đốc cũng có lộc theo. Nhưng, quan trọng nhất, là chúng nó sẽ làm bia đỡ đạn thay mình. Hồi đó, vụ để tiền bán hàng viện trợ ngoài sổ sách bị lộ, nhưng lại nhờ sự bảo vệ của toàn thể cán bộ công nhân viên, và sự hy sinh dũng cảm của Trưởng phòng Tài vụ, Giám đốc thoát tội, chỉ bị nhắc nhở (Trưởng phòng này bị cách chức, một năm sau Đại Sư phụ lại phục chức cho). Bây giờ, khi về hưu rồi, Đại Sư phụ vẫn có mấy đệ tử thân tín như kiểu thằng Đản này. Mỗi tháng nó cũng trích thu nhập từ Liên doanh chu cấp cho Đại Sư phụ ba trăm đô la Mỹ. Nay nó bị loại khỏi Liên doanh, Đại Sư phụ cũng bị thất thu theo.

Nghĩ đến chuyện về hưu mà không thực hiện được ý đồ sắp xếp cán bộ của mình, Hoàng Phu thấy nghẹn ứ họng. Quan sát đội ngũ cán bộ trong Bộ, lão chấm Mai Chính Trực vào chức Chủ tịch Tập đoàn thay mình. Lão biết tay này không ham hố quyền lực, sống nặng về tình, sau này sẽ được việc cho lão. Gì chứ, người kế nhiệm lão do chính lão tiến cử, làm sao mà chẳng có chút vì nể lão? Khi ấy, sẽ dùng tay này sắp xếp mấy Phó Tổng đệ tử của lão. Thế là lão đề nghị với Bộ cử Trực thay vị trí của mình. Bộ thấy Tập đoàn đang bê bối, cần có người vững vàng ra giúp Bộ bình ổn, cho nên tán thành ngay ý kiến của Hoàng Phu. Thế nhưng, Hoàng Phu không ngờ rằng Mai Chính Trực tuy nhân từ, nhưng lại khá nguyên tắc. Anh tỏ thái độ trọng thị lão, nhưng không vội nghe những ý kiến chỉ bảo của lão. Cay cú nhất là việc bố trí chức danh Phó Tổng Giám đốc, Trực thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm cán bộ theo phương châm dân chủ, tập trung, cho nên Minh đã được chọn. Thế là hỏng bét cả. Hoàng Ca, đệ tử ruột của Hoàng Phu, vừa mới nhớm chân bước lên cái ghế Phó Tổng, đành rụt chân lại. Thế là hỏng một con bài giúp lão thực hiện ý đồ tiếp tục thao túng Tập đoàn. Lẽ ra, Hoàng Ca ngồi vào ghế Phó Tổng rồi, sẽ giúp lão trị thằng Triệu Hà Chét nhi a, đưa Lan Hương lên Giám đốc và đưa Thuý Hỏi lên Phó Giám đốc chi nhánh Công ty Sa Ba. Ngoài này, sẽ để Đản tiếp tục tham gia Liên doanh. Riêng với Lý Ngồ Ngộ, Hoàng Phu không trông cậy gì ngoài việc thỉnh thoảng nã dăm mười triệu tiêu xài. Bởi lão biết Tổng Giám đốc tuy chịu chi, chịu chơi và cũng cúc cung với lão, nhưng là người cơ hội, không có bản lĩnh, làm việc theo lối cải lương, đầu óc lại bã đậu, không thể nào thực hiện trọn vẹn được mưu toan của lão. Hoàng Phu muốn nấc lên vì căm hận. Quyền lực của lão thế là hết thật rồi sao? Không, lão quyết giữ lại. Phải lật đổ bằng được con mụ Minh, đưa Hoàng Ca vào ghế Phó Tổng. Khát vọng về quyền lực luôn luôn giày vò lão. Cái hồi mới về hưu, lão vẫn giữ thói quen chờ ô tô đến đón đi làm mỗi ngày. Cứ bảy giờ mười lăm phút sáng là lão quần áo chỉnh tề, cặp tài liệu kè kè, ngồi dưới phòng khách nhâm nhi chén trà chờ xe đón. Chờ mãi chẳng thấy xe đâu, lão cầm điện thoại bấm số gọi lái xe. Đến khi chú Hà, nguyên lái xe cho lão, thưa và lúng búng nói câu gì đó không rõ, lão mới giật mình nhớ ra rằng mình đã nghỉ hưu. Nghỉ hưu thì nghỉ, lão vẫn quyết giữ lấy chút quyền lực qua tay chân của lão. Thế nào cũng phải hạ bệ con mẹ Minh hỗn hào này. Cứ nhắc đến Minh, Hoàng Phu lại hực lên như con lợn lòi bị trúng đạn. Lại ngo ngoe đổi mới hả? Lại dám dỡ tung nền nếp ở cái Tập đoàn mà ta mất công sắp đặt bao lâu hả? Lại dám giải thể Công ty của đệ tử Định của ta hả? Lại cổ phần hoá các thành viên hả? Thế thì xé tan quyền lực của ta ra rồi còn gì. Thế thì mày phải bị hạ gục.

Ngày xưa đấu địa chủ thì tố cáo với Đội, sau đó ra các cuộc họp tại sân đình xa xả vạch tội áp bức, bóc lột. Ngày nay đấu cán bộ thì viết đơn, phôtôcóppy hàng loạt bản gửi đi hàng loạt nơi. Thời buổi dân chủ này, nơi nào cũng nhận đơn. Từ Nghị Viện, Chính phủ tới các Bộ đều nhận đơn. Nhận đơn rồi thì Kính chuyển. Muốn khỏi Kính chuyển, phải kiên trì tranh đấu, phải phối hợp với báo chí, hoặc phải có người thân quen lưu ý. Đại Sư phụ hiểu rất rõ phương thức đấu tranh của thời đại mới phải kết hợp hài hoà các biện pháp rắn mềm, trong ngoài, kín hở. Đại Sư phụ vạch một kế hoạch bài bản để đấu tranh từng bước, từ trong ra ngoài, từ thấp lên cao. Nhớ đừng viết hết tội lỗi của nó trong một đơn. Để dành, câu dầm, hết đơn này sang đơn khác, làm cho chúng nó liên tục chống đỡ, liên tục rối ren, ăn không ngon, ngủ không yên. Giống như trong chiến tranh, người ta phải biết tiết kiệm đạn, phải phối hợp tấn công từ nhiều mũi chính trị quân sự binh vận, dân quân du kích bộ đội địa phương bộ đội chủ lực. Phải làm cho địch bị tiêu hao dần, tổn thất dần, tinh thần bê bết bải hoải, rồi ào một cái tổng tấn công, dứt điểm. Đại Sư phụ bảo Lê Đản ra quân trước. Đánh từ nội bộ đánh ra. Viết đơn gửi lãnh đạo Tập đoàn, lãnh đạo Bộ tố cáo bà Minh ăn tiền bất hợp pháp ở Liên doanh, đi Trung Quốc không báo cáo, lại còn dùng tiền của Liên doanh cho chuyến đi cá nhân của mình. Bộ lập tức Kính chuyển Tập đoàn. Chủ tịch Mai Chính Trực nhận liên tục đơn Kính gửi và đơn Kính chuyển của cùng một người, liền họp Lãnh đạo để phân công việc điều tra, trả lời đương sự. Minh được yêu cầu làm bản tường trình. Thấy cơ quan chuyển động, xầm xì, Đản khấp khởi mừng thầm. Phen này con mụ Minh chết toi. Chỉ bực một điều, với tư cách cá nhân, Chủ tịch Trực lại gọi gã đến phòng khuyên bảo nên sống có đức, có tâm, đừng lấy oán báo ân. Còn tố cáo là quyền của cậu, không ai cấm. Tôi không quản lý cậu vì cậu thuộc Văn phòng quản lý, nhưng cậu nên nghe theo lời khuyên của tôi. Lão này bênh con mụ Minh à? Xưa nay lão nổi tiếng là Bao thanh thiên cơ mà.

Nghe Đản bẩm báo, Đại Sư phụ nổi trận lôi đình. Thằng Trực này không nể mặt ta à. Thế là lão xuất tướng. Đại Sư phụ viết một thư ngỏ dài dặc kể tội Minh gửi lãnh đạo Bộ, lãnh đạo Tập đoàn và không quên gửi gia đình chị Minh. Một thư ngỏ mang tính đàng hoàng, được viết tay bằng thứ mực tím đậm, chữ nghiêng rạp, có chữ ký và ghi tên Hoàng Phu hẳn hoi. Với cương vị nguyên Chủ tịch Tập đoàn, lão chắc mẩm thư của mình sẽ gây được sự chú ý của mọi người. Tập đoàn lại nhận được thư có chữ Kính chuyển, cùng với thư Kính gửi của Hoàng Phu. Chẳng thấy ai trả lời gì cả (Thực ra, Tập đoàn đang tìm hiểu tình hình, chưa kịp trả lời). Lão bực vô cùng. Thế này thì phải dùng đòn cường kích, đánh vỗ mặt. Hoàng Phu liền viết đơn gửi Sở Chức năng, một Sở rất lớn, đầy uy lực. Để khỏi bị Kính chuyển, lão sử dụng nội ứng. Như chúng ta đã biết, Hoàng Phu đã biết sử dụng món võ đặc tình ngược, dùng chính nhân viên những cơ quan Chức năng làm tay trong cho mình. Tại Phòng X. của cơ quan Chức năng Hà Nội, Hoàng Phu có một đặc tình ruột. Xưa kia, đặc tình này đã từng giở bao ngón võ bẩn, làm cho Tổng Giám đốc Tuyết Nhung khốn đốn. Nay, đặc tình này giúp Hoàng Phu chuyển đơn tới tận tay các sếp, kèm theo lời tham mưu - đơn có nhiều thông tin quan trọng, cần tổ chức điều tra. Một loạt đơn vị chức năng được huy động vào cuộc điều tra quan trọng có liên quan đến an ninh Quốc gia. Bởi vì, nội dung đơn có nhiều điều hệ trọng, trong đó có điều nói rằng bà Minh đã nhận tiền của can phạm nước ngoài để chạy cho họ vụ án mại dâm ở Khách sạn Bạch Liên. Nghiêm trọng hơn, bà Minh được nhận tiền thường xuyên của nước ngoài để giúp họ thống trị người Việt. Thế này thì thành gián điệp, tay sai cho nước ngoài rồi còn gì. Mầu sắc chính trị quá rõ. Phải nghe trộm điện thoại xem sao. Không phải là nghe trộm theo kiểu cá nhân lén lút, mà là được cơ quan có trách nhiệm cho phép đàng hoàng. Liên tục, tiếp nối các cán bộ của các cơ quan Chức năng tới Tập đoàn làm việc với lãnh đạo. Người đầu tiên bị soi là Lý Ngồ Ngộ. Tổng Giám đốc Lý Ngồ Ngộ một mực tôi không biết, bà Minh làm gì thì bà Minh chịu trách nhiệm, các đồng chí cứ làm việc thẳng với bà Minh, nếu cần, tôi bố trí bà Minh tạm ngưng việc để tiếp các đồng chí. Bản tính Lý Ngồ Ngộ là vậy, luôn luôn sợ trách nhiệm cho nên bao giờ cũng đổ vấy cho người khác. Ngay cả với lái xe riêng của mình, Lý Ngồ Ngộ cũng không bao giờ bênh vực. Có lần, theo yêu cầu của Chủ tịch tập đoàn, Văn phòng kiểm tra việc sử dụng xe của Lý Ngồ Ngộ, yêu cầu lái xe giải trình về việc có một số ngày liên tục chạy ngoài giờ, lái xe nhờ Lý Ngồ Ngộ xác nhận, thì Tổng Giám đốc chối phắt. Tôi có xài xe nhiều thế đâu. Những ngày ấy tôi có đi xuống Vân Hồ đâu... Cậu lái xe hậm hực. Tổng Giám đốc đã ký xác nhận từng chuyến đi vào sổ chạy xe, nay chối như vậy thì em hết chỗ nói!

Chủ tịch Trực cũng phải tiếp, làm việc với hết đoàn này đến đoàn khác và cung cấp tài liệu, bàn phương án giải quyết những sự cố mới xảy ra liên quan đến Minh. Ở nước ta, không biết do cơ chế hành chính thiếu chặt chẽ, rành mạch hay vì thói quen dây máu ăn phần, "đánh hội đồng", mà khá nhiều nơi khi gặp sự cố liền có cả chục cơ quan Chức năng tới hỏi thăm, nắn gân. Đoàn công tác đến làm việc rồi thì khi về thế nào cũng được nhận phong bì với lời xin lỗi đầy ăn năn - lẽ ra chúng tôi mời các anh dùng bữa trưa nhưng vì các anh bận quá không dám phiền cho nên chúng tôi gửi chút ít gọi là bữa trưa của các anh. Làm việc buổi sáng, có chút ít bữa trưa. Mà làm việc buổi chiều cũng có chút ít bữa trưa. Cái chút ít bữa trưa của các anh ấy, nhân viên cơ quan có thể ăn trưa cả quý. Riêng với Chủ tịch Trực, chẳng đưa phong bì nào cho các đồng chí, chỉ có tình trắng nước trong và tinh thần hợp tác triệt để. Tài liệu ư, xin cung cấp đầy đủ. Công văn có lưu, xin gửi bản chụp lại. Nhưng bảo rằng bà Minh đi họp Đài Loan hai lần chui với mục đích bàn với người nước ngoài đàn áp, bóc lột lao động người Việt Nam tại Liên doanh, là không có cơ sở. Bà Minh đi công tác có quyết định của Bộ Nhân văn, có nhiệm vụ rõ ràng, khi về có báo cáo theo đúng quy chế. Thậm chí, chuyến đi Đài Loan lần thứ hai, thì chính tôi là trưởng đoàn. Cứ thế, bộc trực, nhiệt tình, chỉ mỗi tội Trực không đưa phong bì. Những cuộc làm việc với Trực đem lại nhiều loại cảm xúc cho nhiều đoàn khác nhau. Đoàn thì xì, lão trí thức keo kiệt, không chi nổi bữa ăn trưa. Đoàn thì có vẻ ông Chủ tịch này bênh bà Minh. Riêng đoàn do Trung cử đến, thấy cần điều tra khách quan, chứ không thể bị nội dung các lá đơn dẫn dắt. Dù thế nào, thì vụ việc của Minh đã trở nên căng thẳng, theo hướng hình sự hoá.

Mặc dù lãnh đạo Tập đoàn đã phân công cho Ban Kiểm tra Đảng, ban Thanh tra nhân dân trực tiếp nghiên cứu, điều tra để đề ra biện pháp xử lý vụ việc có liên quan đến Minh và Đản, nhưng do sự việc quá lớn, quá tầm kiểm soát mang tính nội bộ, vả lại, các cơ quan Chức năng đã vào cuộc, cho nên đành phải làm việc cầm chừng, chờ kết luận của các cơ quan Chức năng. Suốt thời gian chờ đợi là thời gian căng thẳng. Nói chuyện điện thoại những việc không liên quan gì đến vụ án cũng phải dè chừng, kẻo bị nghe trộm. Minh mất bao nhiêu thời gian với việc viết giải trình, ra khai báo ở cơ quan Chức năng, tiếp các cán bộ chức năng... Chị rất sợ vụ án cứ bị treo lơ lửng, không đi đến hồi kết. Ở Việt Nam ta có một cái bệnh mang tính xã hội là lửng lơ con cá vàng. Nhiều sự việc chẳng có hồi kết rõ ràng gì cả. Có vụ vụ án bị treo lơ lửng. Người bị nghi là can phạm, bị điều tra, rồi cứ lơ lửng giữa cán cân pháp lý, chẳng ai phán có tội, cũng chẳng ai quyết không có tội. Thậm chí bị bắt, bị tra hỏi liên miên mấy tháng giời, bỗng một hôm nhận được lệnh tạm tha. Rồi về, không biết là tạm tha đến bao giờ, mình có được đưa ra xét xử hay không... Bộ máy công quyền của chúng ta kềnh kếnh cang, đủ mọi cơ cấu tổ chức rối rắm, nhưng nhiều khi không giải quyết được việc nào ra việc nào, chỉ làm khổ dân lành. Minh ca thán với Trực: "Phiền hà quá anh ạ. Thế này thì thời gian đâu mà làm việc". Trực khuyên Minh bình tĩnh, cứ tin tưởng ở các cơ quan Chức năng và ở Lãnh đạo Tập đoàn, Lãnh đạo Bộ. Anh không nói với Minh, nhưng thầm nghĩ rằng Hoàng Phu đã tính sai nước cờ. Cách viết trong đơn của Phu đã chạm đến một vấn đề nhạy cảm vào bậc nhất của đất nước, đó là an ninh quốc gia. Nếu Minh có những hành động như đơn tố cáo của Phu viết, thì Minh đã phạm tội phá rối an ninh quốc gia. Đó là việc tày đình. Việc hệ trọng như thế, đâu có dễ vu cáo. Các cơ quan Chức năng sẽ phải làm việc thận trọng, kín kẽ, đâu dám kết luận bừa. Làm việc với Minh hàng chục năm, Trực biết rằng Minh không phải là loại người tham lam, vô chính trị. Truyền thống gia đình và quá trình hoạt động cách mạng của cả hai vợ chồng Minh, Minh không dễ gì đánh đổi lấy mấy chục ngàn đô la Mỹ. Không ai dại gì bán sinh mạng chính trị quý giá mà mình mất công xây dựng bao nhiêu năm với giá rẻ mạt như thế. Vì vậy, Trực có một niềm tin vững chắc rằng Minh không phạm vào cái tội tày đình như đơn tố cáo. Còn việc đi Trung Quốc, Minh có khuyết điểm là không báo cáo với cơ quan. Thời nay, đi nước ngoài có khó khăn, bị săm soi như ngày xưa đâu? Ai cần đi việc riêng, chỉ cần báo cáo cơ quan là được đi. Việc đơn giản ấy, Minh chỉ cần viết một lá đơn ngắn gọn gửi cho Trực, thì Minh sẽ chẳng gặp rắc rối gì, vậy mà Minh không làm. Lại còn sử dụng tiền của Liên doanh nữa, dù đã nộp cho Tài vụ cơ quan, cũng là một thiếu sót. Sao mà sơ hở thế, Minh ơi! Trực dặn Minh phải trung thực báo cáo, báo cáo phải trước sau như một, phải thấy cả khuyết điểm của mình chứ đừng nghĩ rằng mình không có thiếu sót gì.

Việc đi Trung Quốc diễn ra như vừa qua, là còn may cho Minh. Nếu không vì một sự tình cờ, chắc chắn Minh sẽ thực sự sập bẫy của Đản. Hồi ấy, Đản có sẵn kịch bản như sau: Cử một đàn em đưa Minh sang Trung Quốc "vì muốn giúp đỡ chị". Sử dụng tiền của Liên doanh cho chi phí của cả Minh và Giao. Đưa thêm tiền tiêu vặt, tiền mua thuốc cho Minh. Sau khi sang Trung Quốc, thì báo Chu sang gặp. Đệ tử của Đản sẽ gợi ý cho Chu bàn với chị Minh chuyện chạy vụ án mại dâm. Cũng đệ tử của Đản sẽ đưa tiền cho Chu để Chu đưa Minh, nói là Liên doanh giúp Minh trong lúc khó khăn. Mọi việc sẽ được đệ tử của Đản ghi âm, quay phim, chụp ảnh...

Hôm ấy, thằng Bạch lại lên cơn co giật, ngã lăn giữa nền nhà. Minh chỉ biết ôm vai con mà khóc. Con chị to như hộ pháp, chị không khuân nổi nó lên giường. Bố nó lại đi công tác Tây Nguyên. Vợ nó đi làm ca. Chị đành nhìn con nằm dưới sàn nhà, cầu trời khấn phật phù hộ độ trì cho con tai qua nạn khỏi. Hôm sau, Minh vẫn đi làm. Còn ôm nặng nỗi đau trong lòng, Minh chỉ muốn gặp Trực để tâm sự. Nhưng Trực lại đi họp trong miền Nam, hết tuần mới ra. Đang buồn bã thì Minh nhận điện thoại của Giao. Vốn thân thiết từ trước, Minh bảo: "Chú sang bên chị nhé. Chị có việc buồn!".  Là người cởi mở, hồn hậu, Giao phóng xe sang gặp Minh chỉ vài chục phút sau đó. Nghe chuyện Minh, Giao bảo: "Em biết có một ông thầy ở Bắc Kinh chữa bệnh thần kinh và tim mạch rất giỏi. Em đã sang bên đó lấy thuốc tim mạch cho bố em một lần, về thấy hiệu nghiệm lắm. Chị có muốn sang gặp ông thầy đó, thì em và chị cùng đi." Như chết đuối vớ được cọc, Minh vội vã nhận lời. Khi nhận tin Minh sẽ đi Trung Quốc, Đản đã gài bẫy chị như thế nào, chúng ta đã biết ở phần trên. Nói chung, cái bẫy đó nhỏ, lại vướng một vật cản vô tình là Giao, cho nên không gây hậu quả nghiêm trọng gì, nhưng cũng tạo cho Minh một vết thương khá đau.

Chờ đợi các cơ quan Chức năng giải quyết những vấn đề theo đơn thư tố cáo, Minh sốt ruột một thì Đản sốt ruột mười. Làm ở Tập đoàn này lâu năm, Đản biết rõ một điều là nơi này có truyền thống đơn thư và cứ khi có đơn thư, thì y như rằng người bị tố cáo bị vô hiệu hoá. Chẳng ai làm rõ xem nội dung đơn thư tố cáo có đúng sự thật hay không, mà chỉ nhè vào người bị tố cáo mà phê bình, mà yêu cầu rút kinh nghiệm. Rồi, người bị tố cáo bị mất uy tín, bị chuyển vị trí công tác. Lần này, Đản mong ít ra sự việc cũng diễn ra như vậy. Con mụ Minh nhẹ nhất sẽ phải rút khỏi Liên doanh, nếu mạnh hơn, có thể mất chức Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Tri thức. Còn nếu mạnh hơn nữa, thì sẽ vào vòng lao lý. Thế nhưng, lần này Đản thấy diễn biến sự việc khác xưa quá. Ban Lãnh đạo, Đảng Uỷ cơ quan chưa phán quyết gì cả, mà giao cho Ban Kiểm soát, Uỷ ban Kiểm tra thực hiện nhiệm vụ. Không những thế, họ còn phối hợp với Bộ, với các cơ quan Chức năng gặp cả Minh và Đản, hỏi đi hỏi lại toàn những câu hỏi hắc búa, đòi Đản đưa ra bằng chứng, khiến cho Đản trả lời một số câu bộc lộ mâu thuẫn, không trung thực. Ngay cả Đại Sư phụ Hoàng Phu cũng bị cơ quan Chức năng gọi lên gọi xuống ba bốn lần, lúng búng như ngậm hột thị, chẳng đưa ra được bằng chứng nào chống lại Minh. Hai thầy trò lại chụm vào bàn bạc.

Nhà Hoàng Phu nằm trong một khu tập thể cạnh vườn hoa lớn Đại Ngàn. Cái mảnh đất ba trăm mét vuông được mua rẻ như cho ở trên Tây Hồ, cứ để đấy làm của chìm. Nhà Phu chỉ có hai vợ chồng, đứa con gái cả, và thằng con rể. Phu bắt cậu rể cả ở rể vì lão không có con trai. Thấy Đản thậm thụt liên tục ở nhà mình, bà Kim, vợ Phu, tỏ ra khó chịu. Bởi vì bà đã nghe anh chị em ở cơ quan chồng nói nhiều về cái tính láu cá lại phản phúc của cậu này. Khi loáng thoáng nghe câu chuyện về đơn từ, đấu đá, bà càng hoảng. Bà là một phụ nữ người Thái Tây Bắc, được Hoàng Phu lấy, đưa từ Sơn La về. Người phụ nữ Thái giỏi kéo sợi đệt thổ cẩm, thêu khăn piêu, hiền lành, chất phác ấy tuy là vợ, nhưng bị Phu coi thường, cái gì cũng nói bà biết gì mà can dự vào. Lần này, bà vừa mở miệng nói: "Ông định làm gì với chú Đản đấy?", thì bà đã bị mắng té tát: "Bà đừng can dự vào việc của đàn ông, bà biết gì mà hỏi. Bà đừng có thọc mạnh nữa nhé!".  Tủi phận, bà Kim lên gác nằm, khóc tấm tức.

Hình như là bị tẩu hoả nhập ma, thày trò Phu - Đản không những không dừng lại ngẫm nghĩ sự đời, mà càng điên cuồng hơn. Đại Sư phụ nhận ra sai lầm của mình trong chiến dịch đầu là quá đao to búa lớn, nêu những việc tày đình liên quan đến vận mệnh quốc gia, đâm ra khó nuốt. Chiến dịch này, phải nêu việc nhỏ hơn, cụ thể hơn, trình lên cơ quan to hơn. Nói là làm, Phu viết đơn tố cáo Minh đã chiếm đoạt của Đản bảy lăm triệu đồng gửi Bộ Chức năng. Thời gian sau, Trực nhận được phiếu chuyển của Bộ Chức năng kèm theo đơn của ông Phu. Dở thư tố cáo của Hoàng Phu ra, Trực đọc kỹ từng chữ:

"... Tôi vạch mặt bà Nguyễn Thu Minh, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Tri thức, Phó Chủ tịch Liên doanh Bạch Liên, cụ thể như sau: Từ tháng mười một năm hai nghìn lẻ bốn đến tháng tám năm hai nghìn lẻ năm bà Minh đã chiếm đoạt của ông Đản nguyên Phó Giám đốc Công ty Hân Hoan, nguyên Phó Tổng Giám đốc Liên doanh Bạch Liên bảy mươi lăm triệu đồng. Sự việc xảy ra như sau: Tháng tám năm hai nghìn lẻ bốn, bà Minh nói với ông Đản rằng Công ty Hân Hoan của ông sẽ bị giải thể. Mà giải thể thì không còn pháp nhân ở Liên doanh, tức là ông cũng thất nghiệp như cán bộ công nhân viên khác. Có gì bà ấy nói hộ cho ông Đản được chuyển về Tập đoàn và vẫn làm với Liên doanh nhưng các anh lãnh đạo Tập đoàn có vẻ không vừa lòng cậu tức là ông Đản.

Nhận được tin dữ ông Đản khiếp quá phải nhờ bà Minh nhận giúp số tiền hàng tháng là bẩy triệu rưởi đồng để đưa về cho Lãnh đạo Tập đoàn chia nhau tiêu xài. Sau mười tháng ông Đản mới biết đấy là trò lừa bịp của bà Minh với mình và bà ta nuốt gọn cả bẩy lăm triệu đồng chứ chẳng đưa cho Lãnh đạo một xu nào.

Đây rõ ràng là hành vi lợi dụng chức vụ, vị trí của mình gây ảnh hưởng để thu lợi cá nhân hoặc cũng có thể nói là lừa gạt để chiếm dụng tiền của cấp dưới.

Tôi xin cam đoan lời vạch tội của tôi trên kia là đúng sự thật, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Trân trọng.

Hoàng Phu"

Đọc xong, Trực bực tức thốt lên: Vớ vẩn. Chẳng có trách nhiệm, quyền lợi gì trong việc này mà cũng nhảy xổ vào đấu tố. Nhưng, với tinh thần trách nhiệm của người lãnh đạo cơ quan, anh cũng triệu tập cuộc họp Đảng uỷ cơ quan và ra Nghị quyết giao cho Uỷ ban Kiểm tra Đảng xem xét.

Đại Sư phụ tức muốn nổ con ngươi khi biết rằng Bộ chức năng lại Kính chuyển đơn của lão. Lão không chịu thua. Lão lại rút kinh nghiệm, thay đổi phương thức tác chiến. Gửi lên cơ quan to không ăn thua thì gửi xuống cơ quan nhỏ. Cơ quan nhỏ, cấp cán bộ nhỏ, trình độ nhỏ, xử lý vấn đề nhỏ, dễ thao túng hơn. Đại Sư phụ bảo Đản viết đơn với nội dung giống y hệt đơn của Đại Sư phụ để gửi cho Cơ quan Chức năng Khu Thành Đô. Đại Sư phụ còn cóppy thêm một bản, nhờ tay đặc tình chuyển thẳng tới một vị Đại Lãnh đạo và lấy được bút phê của ngài: "Cơ quan Chức năng Thành Đô làm rõ việc này và báo cáo với tôi". Lúc này, Đản mới bẩm với Đại Sư phụ rằng trong chuyến đi nghỉ ở Tiết Hạnh hồi trước, Đại Sư phụ Tóc đen nhánh có hứa sẽ giới thiệu cho Đản hai đệ tử ở Khu Thành Đô để châm ngòi nổ khi cần thiết. Đại Sư phụ trách đệ tử chậm nghĩ, để Đại Sư phụ cứ phải tác chiến lòng vòng mãi (Thực ra Đản không chậm nghĩ như lão Phu phán, mà vốn ranh ma, gã chẳng bao giờ nói thật, nói hết các chuyện với người khác, dù người đó là Đại Sư phụ). Vậy thì chuyến này, chú mày đứng ra mà chiến đấu, ta đứng đằng sau chỉ huy.

Thế là Đản lại xông trận lần nữa. Chẳng sợ gì thương tích do những cuộc ẩu đả trước còn rớm máu tinh thần. Chẳng sợ hậu quả sẽ thế nào. Đấu đá là đấu đá. Liều có khi thắng. Khối thằng mang tính Chí Phèo lại trở nên nổi danh, được thiên hạ vì nể. Cái bà giáo viên đã đi nước ngoài làm Thạc sĩ lại chỉ đạt được bằng Đại học, về nước biến mất hút con mẹ hàng lươn sáu tháng trời, chả thèm báo cáo báo chồn xin phép cơ quan, rồi lại nhăm nhe ra mở trường tư, xin về một cục, khi mở trường tư không được vì tài hèn sức mọn lại đòi trở lại làm nghề giảng dạy Đại học, đòi không được thì tuyệt thực. Tuyệt thực thì cả nước, cả thế giới đều biết do báo chí, do mạng Internet loan tin. Đại hội Đảng đang diễn ra. Cơ quan quản lý cấp trên chỉ đạo phải làm êm chuyện đi. Thế là phải cố tìm xem cơ quan quản lý cấp dưới có khuyết điểm gì không. À, tìm ra rồi, khuyết điểm về thủ tục hành chính không chặt. Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển từ thời quản lý hành chính bao cấp sang thời quản lý theo pháp luật, chưa quen giải quyết công việc theo đúng trình tự pháp luật. Cho nên, khối anh cơ quan thua anh Chí Phèo chỉ vì làm các thủ tục không đúng, không đủ. Khi đã làm sai thủ tục, thì phải huỷ các quyết định cũ, thay bằng quyết định mới. Thế là úm ba la, bà tuyệt thực trở lại thành bà giáo. Chẳng hiểu bà tài cán nỗi gì, chứ ngày nay mà giáo viên dạy đại học lại chỉ có bằng đại học, được gọi là cơm chấm cơm, chối tỷ lắm. Chẳng hiểu bà sẽ dạy được gì cho sinh viên về kiến thức toán học, nhưng chắc chắn bà đang là tấm gương cho sinh viên soi để thấy rõ chất Chí Phèo thời a còng. Chả ai dám dây vào với Chí Phèo thời a còng. Chí Phèo thời Nam Cao chỉ chửi toáng cái làng Vũ Đại lên. Chứ Chí Phèo thời a còng có thể khuếch đại giọng chửi của mình lên toàn quốc, ra thế giới. Mạng Internet là thiết bị khuyếch đại, khuyếch tán lời chửi nhanh nhất, rộng rãi nhất, tới với nhiều người nhất. Thế thì Đản cứ đấu vung xích chó lên, thể nào thiên hạ cũng sợ, con mụ Minh sẽ bị ra cám. Dạo này, Văn phòng Tập đoàn chẳng bố trí việc gì cho Đản. Thằng cha Trí, Chánh Văn phòng Tập đoàn, còn viết giấy báo với Tổng Giám đốc là không biết bố trí việc gì cho Đản, xin trả lại cho Tổng Giám đốc bố trí. Không bố trí việc cho ta thì ta nghỉ ở nhà, ta tìm đồng minh chiến đấu.

Nhớ lời Đại Sư phụ Tóc đen nhánh, Đản gọi điện thoại cho hai đệ tử của ông này. Cả hai đều tỏ vẻ ngạc nhiên. Sao lại biết số điện thoại này của tôi. Số này là số hạn chế cơ mà. Nhờ Đại Sư phụ Tóc đen nhánh đấy. À, thế thì tốt rồi. Ta gặp nhau ở đâu nào. Quán Dũng Xồm nhé.

Đản lại lấy quán Dũng Xồm làm điểm hẹn. Gọi là quán, nhưng thực ra là một nhà hàng to đùng, rộng thênh thang. Khách đông đến nỗi thường xuyên phải ngồi tràn ra hè phố (anh Dũng Xồm này cũng phải có vây cánh, dựa vào thế lực này bảo kê nọ mới có cái quyền cho khách khứa ngồi tàng hang ra hè phố, chứ không như loại dân đen thấp cổ bé họng vừa thò chút hàng họ ra vỉa hè đã bị vụt cho què cẳng). Đản lại thuê một phòng riêng. Bước đầu, gặp gỡ mang tính chất thăm dò đối tượng, ngồi quán Dũng Xồm cỡ trên bình dân là vừa phải. Đản đến trước, gọi đồ nhắm và bia. Lát sau, có hai người mặc thường phục bước vào. Một dong dỏng cao, gầy gò, da tái ngắt. Một người nhỏ nhắn, da dẻ hồng hào. Người cao tự giới thiệu là Thán. Người nhỏ nhắn tự giới thiệu là Tồn. Phải tự giới thiệu vì mới gặp nhau qua điện thoại, chưa rõ hình hài của nhau ra sao. Đản mời: ‘’Cứ làm mấy chầu bia rồi hãy công việc. Các anh cứ tự nhiên. Khi Đại Sư phụ Tóc đen nhánh đã giới thiệu, thì chúng ta coi như là anh em rồi’’. Hai anh em hoan hỷ nâng cốc chúc cho tình anh em sẽ bắt rễ, nở hoa kết trái. Đản nhấn mạnh rằng cây sẽ sớm đâm chồi phát lộc. Chà chà, lộc thì chả cứ gì cây, người cũng cần lắm. Thế mà vừa gặp đã hứa hẹn có lộc thì yên tâm rồi, Anh này hay thật. Lộc ơi, cứ phát nhé. Chẳng úp mở, Đản đem sự vụ của chị Minh ra trình bày. Tất nhiên, mọi chi tiết được vẽ ra theo hướng trói chặt chị Minh trong một vụ án lợi dụng chức vụ và lừa đảo. Chị ta là Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn nhé. Tôi chỉ là cấp Phó Trưởng phòng thôi nhé. Chị ta oai quyền lắm nhé. Tôi sợ một phép nhé. Được làm ở Liên doanh khó lắm nhé. Tôi muốn được tiếp tục làm ở Liên doanh lắm nhé. Chị Minh doạ rằng Lãnh đạo Tập đoàn không muốn cho tôi tiếp tục làm ở liên doanh nhé. Chị Minh bảo rằng hai người phải nộp tiền vào một quỹ lãnh đạo để biếu xén lãnh đạo thì tôi mới được ở lại Liên doanh nhé. Tôi đã nộp gần trăm triệu đồng nhé. Tôi phát hiện chị Minh chẳng nộp tiền cho ai cả nhé. Thế thì chị Minh lợi dụng chức quyền ép buộc tôi nhé. Thế thì chị Minh lừa đảo tôi nhé. Nhé! Nhé! Nhé !... Mỗi nhé là một tình tiết quan trọng, dựng dần nên vụ án một lãnh đạo oai quyền luôn luôn thống trị cấp dưới, bắt ép cấp dưới lập quỹ lãnh đạo để cống nạp lãnh đạo, nhưng lại bỏ túi riêng. Như để kết luận, Đản nâng cao cốc tới mức gã phải dướn người lên: ‘’Ta uống chúc mừng buổi đầu hợp tác nhé. Công tư vẹn cả đôi đường nhé. Phá vụ án này, các anh lập công chống tham nhũng tiêu cực nhé. Xong vụ án này, các anh cầm mỗi người mười vé nhé !’’. Kế hoạch nhanh chóng được vạch ra dưới sự dẫn dắt của men bia. Trước khi chia tay, Đản móc túi lấy ra hai phong bì đưa cho hai anh em, gọi là thể hiện tinh thần chuẩn bị phát lộc.

Lần này, Đản chuẩn bị cuộc đấu đá chu đáo hơn. Vũ khí phải tinh nhuệ, đầy đủ. Vũ khí của các cuộc đấu đá là tài liệu, bằng chứng (trước đó phải dọn đường bằng đô la). Đản đã chuẩn bị sẵn từ lâu rồi, nay sẽ tung ra. Cuốn sổ ghi chép tiền thu chi của hai chị em (theo cách gọi của Đản trước đây) có ghi hàng tít quỹ lãnh đạo, hàng tháng đều có ghi các khoản thu chi, có chữ ký của hai người, đã được cóppy lại từ lúc nào mà Minh không để ý. Những đoạn ghi chép trong cuốn sổ nhỏ với hàng chữ lý nhí về những lời nói, những việc làm của Minh cũng đã được sao làm nhiều bản (đoạn nào ghi chưa phù hợp lắm thì Đản tự ghi lại vào trang khác cho phù hợp, rồi cũng phôtô nguyên bản). Đơn tố cáo Minh do Đản thảo ra, được hai người anh em sửa đi sửa lại cho kín kẽ. Hai người anh em này đánh khá nhiều án, rất có kinh nghiệm trong việc xử lý hồ sơ, cho nên dặn Đản phải kín kẽ từng chi tiết nhỏ. Thực ra, không phải là dặn, mà là cùng Đản chuẩn bị hồ sơ theo kịch bản. Vớ được hai người anh em, Đản như vớ được ông thần đèn của Alađin trong Ngàn lẻ một đêm. Đi tìm hiểu, biết rõ hai người anh em này là thế nào, gã càng yên tâm. Hồi này, Khu Thành Đô yên tĩnh quá, nền nếp quá, chẳng có vụ án nào cả, cho nên hai người anh em đâm ra đói. Từ lâu lắm rồi, các cụ nhà ta đã đúc kết rằng quan thấy kiện như kiến thấy mỡ. Có tố cáo, có đâm chém, có tội phạm thì hai người anh em mới có việc làm. Có việc làm thì mới có thành tích, lại có thu nhập. Với hai người anh em này, vụ án do Đản đem tới như một cơ hội vô giá giúp cho họ lập thành tích với cấp trên dâng lên Đại hội Đảng toàn quốc sắp khai mạc. Qua tài liệu và những lời nói của Đản, họ tin chắc rằng bà Minh này phạm tội rồi. Vấn đề chỉ là đưa ra những bằng chứng để cột tội, để buộc bà này ký xác nhận tội mà thôi. Cũng phải có sự xác nhận của lãnh đạo Tập đoàn Tri thức nữa. Theo lời Đản, lão Chủ tịch rắn lắm, nhưng không ngại. Cứ làm chiến thuật bao vây đánh lấn, cô lập lão. Còn Tổng Giám đốc ư, dễ ợt. Thằng cha này cá nhân một cục, chẳng có đồng đội đồng chí nào hết, chẳng bênh vực ai bao giờ. Gặp sự cố có nguy cơ đe doạ danh dự và chức vụ, Lý Ngồ Ngộ sẽ rẫy ra, đổ tội hết cho bà Minh. Ấy là chưa kể khi cần sẽ dở ra cái võ bẩn kéo cái đuôi dâm ô của hắn ra, hắn sẽ nhẽo nhèo nheo như rắn mồng năm, nhất nhất khai theo lời mớm của ta. Đánh án bảo vệ Nhà nước, vạch mặt tội phạm trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo, cần làm mạnh vào. Đã thế, lại có khoản tiền khá hậu hỹ mà người tố cáo gửi nhằm bồi dưỡng chiến sĩ, tăng cường sức chiến đấu, thì càng phải hăng. Hai người anh em chuẩn bị chu đáo mọi thứ, rồi lập hồ sơ báo cáo cấp trên xin đánh án. Một hồ sơ sáng rõ như ban ngày, tội phạm rành rành ra đây. Trong bầu không khí thừa thắng xốc tới từ vụ PMU18, cả nước sục sôi chống tham nhũng, vớ được tập hồ sơ như thế, cấp trên nào mà chẳng nhanh nhanh cho phép lập án.

Hai người anh em thuộc mẫu người nào trong thời kỳ chuyển đổi của xã hội này? Họ là loại người pha tạp cân bằng giữa tính chất bao cấp và tính chất thị trường. Họ nằm ở vùng xám của bức tranh xã hội. Nói cách khác, cái tốt và cái xấu, cái hợp pháp và bất hợp pháp song song tồn tại, nương vào nhau mà phát triển trong cùng một con người họ. Có nghĩa, họ là cán bộ cần mẫn, chăm lo bảo vệ an ninh cho đất nước; kẻ nào vi phạm pháp luật, họ thẳng tay trừng trị. Nhưng, họ cũng sẵn sàng tạo thêm thu nhập bằng những hành động ngầm. Có những vụ ăn vặt, cần chăm chỉ làm, tạo ra thu nhập thường xuyên, chẳng hạn như thỉnh thoảng đến bóp hầu nặn cổ vài ba con mụ đề đóm, cá cược hoặc chủ nhà hàng karaôkê kiếm dăm bảy triệu. Nhưng có những vụ lớn, làm và ăn đều khá. Đó là những vụ đặt hàng đánh án - người tố cáo tội phạm lại đút lót cơ quan công quyền để vụ án được đánh nhanh, đánh dứt điểm, loại trừ đối thủ. Có những vụ có khả năng hoà giải, thì họ ăn cả hai mang, thu nhập cũng khá mà lại không căng thẳng. Họ vừa là người thi hành công lý, bảo vệ pháp luật, vừa là người chà đạp công lý, vi phạm pháp luật. Thế nhưng, họ vẫn đường hoàng sống trong xã hội, thực thi nhiệm vụ, vẻ mặt oai phong, tác phong chững chạc. Họ là những đồng chí chưa bị lộ. Người anh em thứ nhất, cũng tức là đồng chí chưa bị lộ thứ nhất, tên là Thán. Cuộc đời không may mắn lắm khiến cho Thán lúc nào cũng có vẻ mặt thiểu não. Bệnh đau dạ dày kinh niên khiến Thán càng hay nhăn nhó với nước da xám xanh, cái lưng gầy hơi còng còng. Lẹt đẹt mãi ở hàm vị thấp, Thán đang lo sẽ phải về hưu non. Cái ngành này nó nghiệt ngã lắm. Nếu không được lên hàm thì buộc phải về hưu. Khối anh mới chỉ quá năm mươi tuổi một chút đã phải giã từ đồng đội về với bốn bức tường chật chội chẳng có vườn tược gì (cho nên không thể gọi là về vườn được, mà phải gọi là về tường). Gia cảnh của Thán lại chẳng ra gì. Vợ thì ly thân, đem theo thằng con trai duy nhất về nhà ngoại. Một mình Thán cơm niêu nước lọ, khi cơm bụi, khi nhậu nhẹt với khách hàng, quên điều độ, cho nên bệnh dạ dày càng trở nên trầm trọng. Làm cái anh lính quèn, đâu có dễ kiếm chác. Có vụ nào ngon, thì những thằng trẻ ranh ma hơn nó xơi gọn. May quá, có vụ này, Đại Sư phụ Tóc đen nhánh đưa đến tận mồm, nếu không gặm được, thì thôi, nhổ quách hàm răng đi cho rồi. Người anh em thứ hai, cũng tức là đồng chí chưa bị lộ thứ hai, tên là Tồn. Tuổi còn trẻ, tương lai đang vẫy gọi phía trước, khiến Tồn hăng hái phấn đấu. Chưa vợ con gì, nhẹ tênh thân xác, dám quăng mình vào chốn hiểm nguy đánh án, Tồn lập được thành tích khá cao, cho nên lại được phong hàm cao hơn Thán. Nhìn tấm gương của Thán, về tường đến nơi rồi mà vẫn kiết xác, Tồn tự nghĩ phải phấn đấu theo cả hai chiều chính trị và kinh tế. Chiều chính trị, tức là làm tròn, là làm xuất sắc trách nhiệm được giao, tích cực phá án, chống tội phạm, cư xử lễ độ với cấp trên. Chiều kinh tế, là hoạt động trong bóng tối, làm án ăn tiền, ăn cả hai mang. Phải kết hợp chặt chẽ giữa chính trị và kinh tế. Đây là nghệ thuật ứng xử vào bậc cao, không phải ai cũng thực hành được. Phải là học trò xuất sắc của thời kinh tế thị trường, biết tận dụng những cái mạnh của thời bao cấp, mới trả bài được. Phải biết đánh giá chính xác tính chất của từng vụ án, từ đó đề ra biện pháp xử lý tối ưu. Lẫn lộn, xử lý sai, có ngày bị lộ. Vụ án nào nghiêm trọng, có liên quan đến an ninh chính trị, phải đánh thẳng tay, cấm tơ hào một xu một cắc. Truy gắt gao. Đưa tội phạm ra vành móng ngựa. Vụ án nào tầm thường mà kẻ vi phạm chịu chạy, thì lập hồ sơ nhè nhẹ, xử lý nhè nhẹ. Nhưng, những kẻ ấy phải biết chạy từ đầu để có hồ sơ đẹp từ đầu. Hồ sơ có ổn, thì việc xử lý mới ổn. Bất đắc dĩ lắm mới phải thay hồ sơ. Đó là trường hợp kẻ can tội chạy muộn quá, nhưng đạn lại nhiều. Chạy chậm, cho nên hồ sơ xấu. Nhưng chạy mạnh, thì phải thay đổi hồ sơ để đổi xấu thành đẹp. Việc này cần làm kín và không được ăn mảnh, phải biết chia sẻ cho những người cùng thụ án, và tất nhiên là với cả cấp trên. Dễ ăn nhất là những vụ do mâu thuẫn nội bộ mà tố cáo lẫn nhau. Bên nào cũng có những bằng chứng chống bên kia. Thế thì phải khách quan, có nghĩa là phải ăn cả hai mang. Bên nguyên cũng như bên bị đều phải chịu chi. Tồn ta nhận tuốt. Lật qua lật lại. Gọi lên gọi xuống. Cả hai đều bị hành. Cả hai đều hoảng. Nhưng đồng thời, cũng hé mở cho cả hai triển vọng tươi sáng. Do vậy, cả hai đều hy vọng. Thi nhau chi. Hồ sơ được hoàn thiện dần. Cuối cùng, đi đến kết luận có những dấu hiệu vi phạm nhưng chưa đến mức phải xử lý hình sự, yêu cầu xử lý nội bộ. Nội bộ đưa ra. Nay quay về nội bộ sau khi đã chu du trong vòng điều tra hàng tháng trời, có khi cả năm trời, cả hai tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, nhưng cả hai đều thấy cách giải quyết ấy là duy nhất đúng. Thôi, giảng hoà. Cũng là mâu thuẫn nội bộ, nhưng có khi người tố cáo đưa ra những bằng chứng xác đáng, họ lại hiếu thắng, quyết hạ gục đối thủ, và họ chịu chi nhiều, thì cần ngầm đứng về họ từ đầu, lập hồ sơ đẹp cho họ từ đầu. Lúc ấy, nếu đối thủ của họ chịu chi, thì không việc gì mà không nhận, nhưng chớ hứa hẹn điều gì, cứ nói rằng vụ án phức tạp lắm, chúng tôi sẽ làm việc khách quan, cứ tin ở chúng tôi. Tồn xếp vụ án chị Minh thuộc loại cuối cùng này. Với cách trình bày của Đản, Tồn cũng tin là chị Minh có tội. Lại chẳng thấy chị Minh có phản ứng rõ ràng gì, Tồn ta càng tin vào những lời tố cáo của Đản. Cũng tin lời Đản, Tồn dự kiến hai thái độ ứng xử khác nhau với hai cán bộ khác nhau của Tập đoàn. Với ông Chủ tịch rắn mặt, cần hạ uy thế bằng cách gọi ra trụ sở cơ quan Chức năng, bắt ngồi ở bàn thẩm vấn, lấy lời khai. Với tay Tổng Giám đốc dễ bảo, chỉ cần làm việc tại nhiệm sở của ông ta. Còn trẻ tuổi, nhưng Tồn đã sớm rèn luyện cho mình một phương thức làm việc bài bản và một ý chí kiên định. Tồn mơ một ngày nào đó sẽ được chuyển lên cơ quan cấp trên. Cơ quan to hơn. Làm ăn lớn hơn. Thu nhập cao hơn. Không nhỏ nhoi, lặt vặt như ở cái cấp thấp quèn này.

 

*

*   *

Minh báo cáo với Trực rằng mình có giấy gọi của Cơ quan Chức năng khu Thành Đô. Trực động viên: "Em cứ ra làm việc đàng hoàng. Nhớ bình tĩnh, đừng run sợ mà cũng đừng nổi nóng. Việc có sao, mình khai báo vậy."

Ngỡ là một buổi làm việc bình thường, Minh không ngờ bị quây suốt một ngày, từ tám giờ sáng tới tối mịt. Làm việc chính thức với Minh là hai cán bộ chức năng, nhưng lại còn có thêm hai người nữa phụ trợ. Hai anh này lờn vờn trong phòng, thỉnh thoảng chọc vào một câu hỏi, một lời nhận xét xóc hông. Có một anh dáng gầy khỏng khoẻo, giọng nói lè nhè, thở ra sực mùi rượu khiến Minh buồn mửa. Tất cả tập trung vào mối quan hệ giữa Minh và Đản, việc lập quỹ lãnh đạo, việc Minh chiếm đoạt tiền của Đản. Bằng chứng được chưng ra là hai cuốn sổ ghi chép, một của Đản, và một của Minh ghi cùng với Đản. Đến lúc này, Minh càng thấy tởm lợm cái chất lưu manh, phản trắc của một con người cũng là đảng viên, là cán bộ Nhà nước, là đồng sự của mình. Khi hai cán bộ chức năng đọc cho Minh nghe những đoạn ghi chép của Đản, chị rùng mình vì hoang mang trước những chi tiết được ghi tỉ mẩn khiến chị không rõ đó là thực hay giả. Anh cán bộ cao gầy nói:

- Này nhé, chị nghe đây. Anh Đản đã ghi về chị như sau: "Khách sạn Bạch Liên, hồi 15 giờ đúng ngày 27 tháng 9 năm 2004. Chị Minh nói rằng lãnh đạo Tập đoàn thu nhập thấp lắm cho nên cần hỗ trợ cho các sếp. Không có ai nghe cùng nhưng có hai bảo vệ là Hồng và Quân chứng kiến chị Minh vào Khách sạn". Đấy, chị nhớ chưa, rõ ràng chị đã gợi ý để anh Đản phải nộp tiền cho chị nhé. Vậy chị khai thực đi, chị có gợi ý cho anh Đản phải nộp tiền đút lót lãnh đạo không?

Minh ngẩn người ra một lúc trước những chi tiết do Đản ghi quá rõ, từ ngày, giờ, địa điểm, người chứng kiến...

- Sao, chị khai đi chứ, nghĩ cách đối phó hả?

- Các anh bình tĩnh đã nào, để tôi nhớ lại xem có đúng ngày ấy tôi xuống Khách sạn không... Nhưng, tôi khẳng định tôi không gợi ý cho anh Đản đút lót ai cả.

- Chị có nói với anh Đản là đời sống trên Tập đoàn khó khăn không?

- Tôi chỉ nói là...

- Không được nói dài dòng, chị chỉ có thể trả lời có hay không? Chị có nói với anh Đản là đời sống trên Tập đoàn khó khăn không?

- Tôi nói là trên Tập đoàn đời sống không khá gì.

- Có nghĩa là khó khăn, còn vòng vo làm gì nữa.

- Chị có yêu cầu anh Đản nộp tiền không?

- Không!

- Chị xem xem, đây là bằng chứng nói lên việc chị ép buộc anh Đản nộp tiền. Anh cán bộ người cao gầy đưa cho Minh xem mẩu giấy ghi: "Khách sạn Bạch Liên, 10 giờ 11 phút ngày 30 tháng 9 năm 2004. Chị Minh nói rằng công việc rất khó khăn, muốn được tiếp tục bố trí công tác thì cần phải cung phụng Lãnh đạo! Cùng nghe có anh Nguyễn Tuấn Lặng, Chủ tịch Công đoàn Liên doanh". Chị còn chối không?

- Tôi nói là hỗ trợ Tập đoàn chứ không yêu cầu cung phụng Lãnh đạo.

- Các sếp là đại diện Tập đoàn, hỗ trợ Tập đoàn tức là cung phụng các sếp còn gì nữa.

Các câu hỏi vòng đi vòng lại, dồn Minh vào thế phải công nhận có yêu cầu Đản nộp tiền cho lãnh đạo. Minh khá tỉnh táo và vững vàng, không để hớ câu trả lời nào.

Anh cán bộ người thấp nhỏ hơn đưa ra cuốn sổ ghi chép của Minh và Đản:

Minh lại giật mình một lần nữa vì những chi tiết ghi trong sổ: "Khách sạn Bạch Liên, 14 giờ 27 phút 30 giây, chị Minh đến, mặc bộ váy kiểu công chức, mầu xanh đậm. Chị Minh yêu cầu lập quỹ lãnh đạo để chi cho lãnh đạo Tập đoàn. Không có ai chứng kiến nhưng có sổ sách làm bằng. Ghi chú: Lúc chị Minh đến, trời mưa phùn lất phất. Chị Minh đi xe máy, không khoác áo mưa. Lúc chị Minh rời Khách sạn, trời tạnh mưa".

Quành qua quành lại mấy buổi nữa, vẫn quanh quẩn chuyện tiền quỹ, chuyện chị Minh ép buộc Đản nộp tiền cho Lãnh đạo rồi chiếm đoạt luôn.

*

*   *

Hôm ấy, mới tám giờ sáng đã có khách đến gặp Chủ tịch Trực. Đó là hai cán bộ cơ quan Chức năng Khu Thành Đô. Đó chính là hai người anh em, hai đồng chí chưa bị lộ như ta đã biết ở trên. Sắc phục chỉnh tề, họ chào theo tác phong binh nghiệp rồi đưa cho Trực giấy mời tới cơ quan Chức năng về những việc có liên quan đến vụ án. Trực bình thản nhận giấy và hẹn sẽ đến đúng giờ. Anh cảm thấy đây là một sự xúc phạm mình, bởi trong giấy hẹn ghi mập mờ đến để giải quyết những việc có liên quan đến vụ án. Vụ án nào. Ai là nghi can của vụ án. Đến để giải quyết với tư cách gì? Tất cả đều mập mờ. Một màn hoả mù làm mờ mắt đối phương để dễ bề tung ra những cú đấm hạ gục chăng? Tuy khó chịu, nhưng vì việc chung, Trực vẫn nhẫn nhịn đến cơ quan Chức năng đúng hẹn vào sáng hôm sau.

Đây là một cơ quan khá quan trọng của Khu Thành Đô cho nên có trụ sở khá tươm tất. Cả một khu đất rộng. Có sân vườn. Có những ngôi nhà được xây dựng khá kiên cố và đẹp với dáng dấp kiến trúc Pháp. Thán đón Trực và mời anh vào một căn phòng ở tầng một. Căn phòng nhỏ hẹp, ẩm thấp, chỉ kê một cái bàn và hai cái ghế. Tồn đã ngồi trên một ghế. Ghế đối diện dành cho Trực. Thán đứng bên cạnh Tồn. Quan sát căn phòng một lượt, Trực thầm nghĩ: mấy tay này hỗn thật, dám đưa mình vào nơi thẩm vấn để làm việc. Định phủ đầu mình chăng? Vốn đằm tính, Trực ngồi vào ghế, mắt nhìn thẳng vào Tồn. Anh bỗng ngớ người vì thấy tay này quen quá. Đúng rồi, đây chính là một hắc tinh của tội phạm đã từng được là khách mời trên VTV. Trực nhớ rõ đã xem khá kỹ chương trình truyền hình trực tiếp buổi giao lưu giữa tuổi trẻ Thủ đô với những chiến sĩ xuất sắc chống tội phạm, trong đó có chiến sĩ Tồn này. Ấn tượng mạnh nhất để lại trong Trực lúc ấy là mặc dù thân thể nhỏ bé, nhưng ý chí tấn công tội phạm của Tồn lại mạnh như Thánh Gióng. Chính anh đã dũng cảm, mưu trí quật ngã tội phạm, giải cứu con tin người nước ngoài vào cuối năm ngoái. Chính anh đã một mình xông vào hang ổ bọn cướp quật ngã hai tên anh chị, đưa chúng ra trước vành móng ngựa. Và bây giờ, anh đang ngồi trước Trực, ánh mắt nghiêm nghị. Tồn giở giấy tờ, sổ sách ra, thông báo với Trực việc Đản kiện chị Minh: đã lợi dụng chức vụ bắt ép Đản nộp tiền cho lãnh đạo, nói rằng để lo cho Đản được tiếp tục tham gia Liên doanh, để lập quỹ lãnh đạo, sau đó chiếm đoạt tiền của Đản. Thán đế vào: "Dạo này dư luận xã hội đang dấy lên vụ Bùi Tiến Dũng, anh có theo dõi không?". Trực cười thầm: "Cái đòn tâm lý cũ mèm. Muốn đưa vụ PMU18 ra so sánh để hù doạ ai? Vụ này với vụ Bùi Tiến Dũng chẳng liên quan gì hết. Có chăng, chính Đản mới cần so sánh với Dũng". Sau các câu hỏi mang tính thủ tục, Tồn nghiêm giọng:

- Chúng tôi mong anh hợp tác với thái độ trung thực!

Trực cười:

- Tôi và các anh đang cùng nhau xử lý một vụ việc quan trọng của Tập đoàn chúng tôi, tôi cũng mong được hợp tác với thái độ trung thực.

Trong khi trả lời các câu hỏi của Tồn, Trực nhấn mạnh đến việc đề bạt Đản và cử Đản tiếp tục tham gia Liên doanh là việc làm công khai, dân chủ, hoàn toàn xuất phát từ yêu cầu của công việc, không chịu sự tác động của riêng ai. Anh cũng nói rõ phương pháp làm việc của lãnh đạo Tập đoàn là công khai, dân chủ00, do vậy, Đản được biết trực tiếp và biết rất sớm thông tin về việc Lãnh đạo Tập đoàn đã thống nhất cử Đản tiếp tục tham gia Liên doanh, chị Minh không thể lợi dụng việc Đản mù thông tin để loè bịp Đản, kiếm lợi riêng.

Thán đưa ra bản phôtôcóppy sổ ghi quỹ lãnh đạo của Minh:

Trong khi Tồn vặn vẹo thì Thán đế vào - chị Minh là cấp trên. Cấp trên bắt nộp tiền thì cấp dưới phải nộp chứ, ai dám trái lời. Tồn tiếp lời Thán:

Đột nhiên, Tồn đưa ra ba mảnh giấy sao chụp:

- Đây là ba phiếu thu tiền mà chị Minh nộp vào cơ quan. Anh thấy có gì sai không?

Bị động, nhìn ba phiếu thu không có chữ ký của chủ tài khoản, Trực trả lời:

Còn nhiều câu hỏi và câu trả lời nữa, tựu trung xoay quanh vấn đề chị Minh ép buộc Đản nộp tiền lập quỹ lãnh đạo và chiếm đoạt tiền của Đản, chị Minh nộp tiền vào quỹ ba lần là sai…

Trực thấy khó chịu thật sự. Lối hỏi này mang tính áp đặt, kiểu như mớm cung, ép cung. Thảo nào, bên các nước tiên tiến, bao giờ cũng có luật sư ngồi cạnh nghi phạm để can thiệp và hướng dẫn thân chủ của họ trả lời. Nếu không, hỏi vòng vo một lúc, theo lối áp đặt và mớm cung như thế này, người không có tội có khi cũng trở thành có tội bởi các câu trả lời hớ hênh của mình. Đáng ngại nhất, là lối hỏi bao giờ cũng cụt lủn, cắt khúc vấn đề theo phương pháp siêu hình, bắt người đối thoại chỉ được trả lời có hay không, đúng hay sai, chứ không được diễn giải để đi tới bản chất của vấn đề. Cách hỏi này cũng giống cách hỏi theo kiểu truy bức, theo phương pháp siêu hình của các tay phóng viên thiếu thiện chí, sẽ khó dẫn dắt các cuộc trao đổi đến bản chất sự việc.

Cuối buổi làm việc, Tồn nói không ra đề nghị cũng không ra ra lệnh:

- Anh về họp Ban Lãnh đạo ra Nghị quyết trả lại tiền cho chị Minh để chị Minh trả lại tiền cho anh Đản.

Tồn còn bóng gió rằng nếu cứ để số tiền này tại quỹ cơ quan, thì khi cần tịch thu nó, cơ quan Chức năng sẽ phải kiểm tra toàn diện quỹ cơ quan, lúc ấy sẽ rất phiền toái.

Về nhà, suy nghĩ sâu thêm, Trực thấy rằng mình cũng có lúc bị hoả mù làm lạc hướng. Việc Minh nộp tiền cho Tập đoàn thì liên quan gì đến việc Đản tố cáo Minh chiếm đoạt tiền. Hoá ra hai tay này muốn quy cho Minh có những vi phạm cho nên mới đưa ra những loại việc như thế. Riêng việc đòi tháo tiền khỏi quỹ có vẻ là một cái bẫy. Lúc Minh cầm tiền rồi, thì Cơ quan Chức năng dễ coi đó là bằng chứng cho thấy Minh chiếm đoạt tiền của Đản và đó là cơ hội để họ xử rắn với Minh.

Cảm nhận được bước chuyển nguy hiểm của sự việc, Trực đăng ký gặp Vị Lãnh đạo. Vốn khái tính, Trực ít khi đến nhà các quan chức cấp cao, trừ khi có việc thật cần thiết. Cũng vì thế, khi Trực đã đăng ký gặp, thì Vị Lãnh đạo rất vui vẻ nhận lời. Ngồi với Vị Lãnh đạo trong phòng khách, vừa uống nước trà, Trực vừa tranh thủ báo cáo tình hình Tập đoàn và cả sự việc cơ quan Chức năng yêu cầu anh tháo tiền khỏi quỹ. Anh nêu nhận xét về mức độ nghiêm trọng của sự việc này và đề xuất sẽ làm báo cáo chính thức với Lãnh đạo Bộ. Vị Lãnh đạo ôn tồn:

- Nếu bây giờ anh báo cáo, thì chỉ nhân danh cá nhân Chủ tịch Tập đoàn thôi. Anh cần họp Ban Lãnh đạo, trình bày rõ vấn đề, thảo luận kỹ, ra Nghị quyết, rồi thay mặt Ban Lãnh đạo báo cáo sớm cho Bộ. Sự việc phức tạp nhưng không phải là không có những đầu mối để gỡ. Tôi sẽ quan tâm chỉ đạo việc này.

Hôm sau, Trực tổ chức họp Ban Lãnh đạo. Trước lời trình bầy thẳng thắn và rõ ràng của Trực, các thành viên đều phát biểu thống nhất với nhận định và cách xử lý của anh. Ban Lãnh đạo ra Nghị quyết chưa tháo tiền khỏi quỹ như lời đề nghị của Tồn mà báo cáo Bộ để xin ý kiến chỉ đạo. Trong công việc hàng ngày, Lý Ngồ Ngộ hay tỏ ra khó chịu khi Bộ có ý kiến chỉ đạo hơi sâu vào việc của Tập đoàn; nhưng Trực không nghĩ như Ngộ. Dù thế nào, Bộ là cơ quan chủ quản, Bộ cũng có quyền và trách nhiệm với Tập đoàn. Những lúc khó khăn, sự giúp đỡ về tinh thần của Bộ hết sức quý giá, không vật chất nào đánh đổi được.

Cùng thời gian này, Minh báo với anh Trực rằng mình nhận được thông báo của Toà án Khu Bình Đà về hai lá đơn kiện Liên doanh Bạch Liên, trong đó đều quy trách nhiệm chính cho Minh. Đó là đơn của Lặng và Đản, đều kiện về việc Liên doanh vi phạm pháp luật, sa thải người lao động trái nguyên tắc. Đọc đơn kiện của Lê Đản, Trực giật mình. Không phải vì nội dung đơn kiện đã cố tình bóp méo sự thật, quy lỗi vô cớ cho Minh, mà là trong đơn này, Đản đã tiết lộ hết khoản thu nhập của gã mà xưa nay gã vẫn giấu. Gã thường nói rằng làm ở Liên doanh, gã được một ngàn đô là một tháng, mà phải chi nhiều, kể cả chi cho các mối quan hệ của Liên doanh, cho nên cũng chẳng sung túc gì. Còn bây giờ, trong đơn kiện, tính các khoản thất thu do bị sa thải trái pháp luật để đòi được bồi thường, gã thống kê như sau:

Tổng cộng, thu nhập chính thức của Đản là ba ngàn không trăm năm chục đô la mỗi tháng. Trực hỏi Minh có biết con số này chưa? Minh cũng ngạc nhiên không kém:

-  Đây là lần đầu tiên em biết cậu ta thu nhập cao như thế!

Trực trách:

- Em đại khái quá. Lẽ ra, tham gia Liên doanh, em phải biết những vấn đề về kinh tế của Liên doanh, về thu nhập của cán bộ tham gia Liên doanh chứ!

Minh nhận lỗi:

- Em cũng tin cậu Đản, hắn nói hắn có một ngàn, em có bốn trăm một tháng, thì em biết như vậy, em không tính đến chuyện phải kiểm tra sổ sách. Ngờ đâu cậu ta lại gian như thế.

Trực bảo Minh thông báo cho phía Đài Loan về hai vụ kiện. Cần phải thuê luật sư để đảm bảo mình thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Vụ Đản kiện, thật là như trò trẻ con. Chưa xử, Trực đã biết Đản sẽ thua kiện. Bởi vì Đản là cán bộ do phía Việt Nam cử vào Liên doanh, chứ không phải là người làm thuê, cho nên không ký hợp đồng lao động với Liên doanh, nay phía Việt Nam rút về thì Liên doanh chỉ biết chấp thuận, đó không phải là sự sa thải. Riêng với Lặng, cần kín kẽ. Bởi vì, chỉ từ việc không được ký tiếp hợp đồng lao động với Liên doanh, Lặng đã tung lên mặt báo nhiều bài vạch "tội" Liên doanh vi phạm Luật Lao động, sa thải người lao động một cách bất hợp pháp, phê phán Tập đoàn Tri thức và bà Nguyễn Thu Minh không bảo vệ quyền lợi cho người lao động Việt Nam tại Liên doanh mà còn tiếp tay cho giới chủ nước ngoài trù dập lao động Việt Nam. Với cái trò đánh tráo đối tượng, biến cá nhân mình thành cả tập thể đông đảo lao động Việt Nam tại Liên doanh, Lặng đã gây nên những bức xúc trong dư luận. Nhưng, trước Toà án, không thể đânhnh ta chơi mãi cái trò phản lô gích này được, phải chỉ rõ những mánh khoé lập lờ đánh lận con đen của anh ta. Anh dặn Minh, dù thế nào, phải có quan hệ sớm và mật thiết với Toà án Khu Bình Đà, đừng để cho Đản, Lặng độc chiếm quyền cung cấp thông tin cho cơ quan pháp luật, dẫn đến những hiểu lầm đáng tiếc như trước đây. Anh gọi điện cho Ngọc yêu cầu thông báo rõ cho đối tác tình tiết của hai vụ kiện, phân tích cho họ thấy sự cần thiết phải đầu tư vào việc thuê luật sư để đảm bảo thực hiện đúng pháp luật. Ngọc hứa sẽ thực hiện ngay tức khắc. Có Ngọc trụ ở Liên doanh, Trực thấy yên tâm. Anh bạn này ít nói, nhưng có tinh thần kỷ luật, đã nói là làm, làm theo đúng tinh thần chỉ đạo của cấp trên.

Qua một nguồn tin mật, Trực biết rằng đã có cuộc đặt hàng giữa Đản và hai anh cán bộ Thán, Tồn. Tiền đặt hàng không ít. Họ còn lên lịch ép Tập đoàn tháo tiền khỏi quỹ và khi Minh vừa nhận lại tiền từ quỹ, sẽ ra lệnh khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam Minh. Vừa được đặt hàng, vừa nhận thức đây là vụ tiêu cực thực sự, hai chiến sĩ này hăng tiết vịt ghê gớm.

Đồng thời với việc gặp Chủ tịch Trực, hai cán bộ chức năng tìm gặp Tổng Giám đốc Lý Ngồ Ngộ. Họ mặc sắc phục, đem giấy giới thiệu tới gặp Lý Ngồ Ngộ vào một buổi sáng trời u ám. Ngộ đang ngồi ngắm mấy tấm hình loã lồ của cô diễn viên Điện ảnh Lâm Vi trên máy vi tính, nghe tiếng gõ cửa gấp, giật nảy mình, vội rời ghế, xăng xái chạy ra bắt tay hai cán bộ chức năng, gọi thư ký bảo Văn phòng đem nước mời khách. Nhìn thân hình hộ pháp mà thái độ lại hơi khúm núm, quá xăng xái của Lý Ngồ Ngộ, Tồn tự nhủ: nắn gân thằng cha này được đấy. Anh ta chẳng có bản lĩnh gì, khớp với lời mô tả của Đản. Nghiêm nét mặt, Tồn bảo:

Tồn cười thầm trong bụng: ‘’Ai khảo mà xưng, chắc tay này được hưởng lợi lộc gì ở Liên doanh cho nên chẳng ai hỏi cũng cứ chối đây đẩy rằng chẳng tiêu một xu nào của Liên doanh...’’

Thế việc chị Minh nộp tiền vào quỹ cơ quan?

Cứ thế, suốt buổi làm việc, Lý Ngồ Ngộ một mực: Tôi không biết gì. Tôi mà biết thì tôi không cho phép. Tôi không dùng một đồng nào của Liên doanh, của chị Minh, anh Đản... Trước khi hai chiến sĩ ra về, Lý Ngộ Ngộ rút từ ngăn kéo ra hai chiếc phong bỳ dán kín, dày cộp: ‘’Gửi các đồng chí ăn trưa, tôi bận quá không mời các đồng chí đi nhà hàng được, thông cảm nghe!’’.

Ra về, hai chiến sĩ chức năng bảo nhau: tay này non gan lắm, cứ tấn vào.

Rồi cứ đôi ba ngày, cặp chiến sĩ này lại vào gặp Lý Ngồ Ngộ một lần. Ra về, lại mỗi người một phong bì, không rõ bên trong có bao nhiêu để ăn trưa. Riêng Chủ tịch Trực, cặp bài trùng này chỉ gặp độc nhất một lần rồi biến. Thấy Lý Ngồ Ngộ bị hành liên tục, Trực gặp Ngộ hỏi han tình hình. Ngộ bực bội:

- Bà Minh này gây phiền hà quá. Em cứ phải cung cấp tình hình cho cơ quan Chức năng hoài, đau đầu quá.

- Cậu cung cấp những tình hình gì?

- Thì chị Minh phải thấy khuyết điểm chớ!

- Tôi cũng nghĩ chị Minh có những thiếu sót, nhưng điều quan trọng là phải đi tới bản chất sự việc. Cậu có nghĩ là chị Minh chiếm đoạt tiền của Đản không?

- Em không rõ, đó là việc của hai người.

- Nhưng cậu nghĩ thế nào?

- Vậy anh nghĩ thế nào, chứ em lung bung quá!

Trực nói một cách nghiêm trang và đằm thắm:

- Ta không bao che cho tiêu cực, nhưng cũng đừng đẩy đồng chí mình vào vòng oan trái. Không bao giờ tôi tin rằng chị Minh chiếm đoạt tiền của cậu Đản. Cả tôi và cậu đều thường xuyên gặp Đản, có gì cách bức đâu mà Đản phải thông qua chị Minh đút lót bọn mình? Cậu không nhớ à, mình và cậu chẳng đã nói mấy lần với tay Đản là cứ yên tâm mà làm việc, Tập đoàn đã thống nhất giữ cậu ở lại làm Liên doanh. Trước mắt, cần giúp Tập đoàn kiêm chức Phó Ban Giải thể Công ty Hân Hoan. Bận một chút cũng phải cố, nửa ngày làm việc ở Tập đoàn, nửa ngày làm việc ở Liên doanh. Ngộ có nhớ không? Như thế, làm sao Đản lại sợ bị rút khỏi Liên doanh mà phải nộp tiền cho chị Minh? Mà mình còn nhớ, tại phòng mình, khi chuẩn bị họp Ban Lãnh đạo, Minh có nói chuyện với mình và cậu là chị ấy cùng với Đản góp tiền, đợi đến cuối năm được kha khá thì nộp vào quỹ đời sống của cơ quan, cậu có nhớ không?

- Anh à, em lui bui quá, không nhớ nổi thiệt mà.

- Nhớ hay không, chỉ là chuyện vặt. Cái cần là tâm phải sáng, đừng sợ liên luỵ mà đổ vấy cho đồng sự những thứ không có. Càng không được lợi dụng lúc đồng chí gặp vận hạn mà đẩy người ta xuống vực. Từ nay, nếu hai cán bộ Chức năng đến làm việc, cậu phải hỏi có giấy giới thiệu không nhé. Nếu không có giấy giới thiệu thì không tiếp nữa.

Đứng dậy, Trực vỗ vai Lý Ngồ Ngộ:

- Mà đừng đưa phong bì cho họ nữa nhé. Càng đưa, họ càng hay vào hỏi thăm cậu. Phiền lắm đấy!

Ra đến cửa, chợt nhớ ra điều gì, Trực quay lại đứng bên Ngộ, nói nhẹ nhàng:

- Hôm vừa rồi, cậu Đản đến nhà mình, đưa cho mình một phong bì nhưng mình không nhận. Mình nghe nói cậu ta khoe với anh Nguyên rằng cũng đưa cho cậu một phong bì mấy trăm đô và chai rượu. Nếu đúng như vậy thì cậu đem ngay sang Văn phòng bảo cậu Trí ghi giúp biên bản tạm quản lý cái phong bì ấy nhé!

Ngộ vâng dạ nhưng lại nghĩ thầm rằng cái lão này sao mà tinh quái, việc gì cũng biết, lại hay can thiệp vào công việc của Tổng Giám đốc. Ngộ nghĩ đến Đại Sư phụ. Có lẽ phải nhờ Đại Sư phụ làm cho mấy bài cúng bái nhờ vả thần linh giúp đỡ. Thế là, ngay ngày hôm sau, vào thứ bẩy, Đại sư phụ mời Thầy về lễ bái, khói hương nghi ngút ngay trong phòng làm việc của Lý Ngồ Ngộ. Họ làm những gì, nhân viên Văn phòng Tập đoàn không được biết. Chỉ biết rằng vào đầu tuần, mọi bài trí trong phòng làm việc của Ngộ đã thay đổi hoàn toàn, trong đó nổi bật lên là chiếc ghế ngồi làm việc của Tổng Giám đốc đã được thay bằng chiếc ghế mới to hơn, cao hơn, trông uy nghi hẳn ra nhưng lại mất cân đối nghiêm trọng với đồ vật trong phòng bởi cái dáng nghễu nghện của nó. Thầy phán rằng cái ghế ấy sẽ giúp Lý Ngồ Ngộ vững vàng trên vị trí lãnh đạo, luôn luôn ở thế đứng trên đầu thiên hạ. Lý Ngồ Ngộ lại háo hức với mộng tưởng leo lên ngôi cao, củng cố cái quyết tâm  lên chức Thứ trưởng bằng mọi giá mà anh ta đã tuyên bố với mấy tay đàn em khi mới ra Hà Nội nhận chức Tổng Giám đốc.

Minh cũng là người giỏi nắm thông tin. Không hiểu từ nguồn nào, chị biết được những nội dung mà Lý Ngồ Ngộ báo cáo với hai chiến sĩ Chức năng. Điên tiết, chị xô vào buồng làm việc của Ngộ, nói một mạch:

- Người ta nói khi hoạn nạn mới biết ai là người tốt ai là kẻ xấu. Anh định hại tôi à?

Chị nói một thôi một hồi về việc Ngộ tỏ ra khó chịu khi lên Bộ nghe mọi người ở đó kháo nhau rằng công cuộc đổi mới Tập đoàn, cổ phần hoá, thì Minh làm hầu hết, về việc Ngộ ca thán rằng quần chúng phản ứng vì chị Minh thao túng công việc nhiều quá, cứ như là ở Tập đoàn này có hai Tổng Giám đốc, về việc Ngộ đổ vấy trách nhiệm cho mình... Ngộ tái mặt, chẳng nói được câu nào.

Minh sầm sầm chạy xuống phòng Chủ tịch Trực nói ào ào về nỗi bực mình của chị đối với Lý Ngồ Ngộ và thú thực vừa cho anh ta một trận. Trực bảo Minh ngồi, rót nước cho chị và khuyên:

- Cũng đã đến lúc cần nói thẳng thắn với Ngộ những điểm không đồng ý của mình, nhưng đừng thô bạo. Mặt khác, với cương vị Phó Tổng, tức là người giúp Tổng Giám đốc, em phải làm việc công tâm, có trách nhiệm, chứ không được tỏ thái độ bất hợp tác. Đấu tranh đúng nơi, đúng lúc, có tổ chức, khoanh vấn đề lại. Đừng làm xồn xồn bung bét mọi chuyện, lại bị quy cho là gây mất đoàn kết đấy. Mình bị họ bôi xấu, nhưng muốn thể hiện rằng mình trong sạch, không thể chạy theo cách bôi xấu của họ. Phải giữ được nguyên tắc, phải giữ gìn đoàn kết nội bộ. Giữa lúc này mà để xảy ra mất đoàn kết trong lãnh đạo, thì Tập đoàn sẽ sa vào thảm hoạ đấy. Kinh nghiệm chỉ ra cho anh rằng ở đâu mà mất đoàn kết thì ở đấy làm cũng không được, ăn cũng không được, kết quả là bị hốt cả ổ đấy em ạ. Nhất là trong thời buổi nhiễu nhương này, trắng đen lẫn lộn, người tích cực đấu tranh không khéo lại bị cho là gây rối nội bộ, gỡ không ra đâu!

Minh vâng, nhưng cố thanh minh:

- Anh xem. Em cúc cung tận tuỵ với chức danh Phó giúp việc cho anh Ngộ như thế nào, anh chị em trong cơ quan ai chả biết. Nhưng anh ta có ủng hộ em đâu. Đã thế, lúc nào cũng muốn vùi em xuống bùn thì em chịu làm sao nổi.

Trực ôn tồn:

- Anh cũng công nhận em tận tình với công việc. Nhưng nếu cứ xồn xồn nói vung lên cho hả giận, thì sẽ dễ bị hiểu lầm lắm. Cần bình tĩnh em ạ.

Minh hứa sẽ làm theo lời khuyên của Trực, nhưng vẫn nói một câu trước khi rời phòng Trực cho hả giận: "Nhưng mà em tức lắm. Đồng sự mà hại nhau!".

Nhìn Minh quày quả bước ra, Trực mỉm cười rồi lại lắc đầu. Anh biết rằng con người có khí chất mạnh mẽ ấy lại rất dễ mủi lòng. Khối lần bị Lý Ngồ Ngộ chơi khăm, tức muốn nổ con ngươi, nhưng khi ngồi ăn chung bữa trưa với Ngộ ở Văn phòng, được Lý Ngồ Ngộ gắp cho miếng đậu phụ rán và bảo: "Chị ăn đi cho có sức mà làm việc", Minh lại rưng rưng cảm động. Có lần đi công tác thành phố Hồ Chí Minh, được Lý Ngồ Ngộ xách giúp cái túi đựng tài liệu, Minh cũng rưng rưng cảm động. Thế là quên hết bực bội. Mà Ngộ khôn lắm. Mỗi lần cần Minh giúp sức, là Ngộ lại giở cái chiêu ga lăng rởm đó ra. Lần nào cũng hiệu nghiệm. Đáng kể nhất là cái lần vào giải quyết những tồn đọng của Công ty Miền Nam từ thời Ngộ làm Giám đốc. Lần ấy, sau cái chiêu xách giúp túi tài liệu từ máy bay ra cửa phòng chờ rồi mua cho Minh dăm trái xoài để ăn dần trong Khách sạn, Ngộ liền bảo: "Việc này khó dữ, chỉ có chị mới làm nổi, chị ráng giúp giùm!".  Thế là Minh đã thức trắng cả đêm để nghiên cứu tài liệu, lập đề án xử lý công nợ, hàng tồn...

Trực ngồi lặng trong niềm đau đớn khi nghĩ về đồng loại, về cuộc đấu tranh sinh tồn giữa các loài. Anh nhớ đến một đoạn phim kể chuyện loài vật mà rùng mình. Chuyện thứ nhất, mô tả một loài bướm có tên là Bướm Xanh đã biết dùng mùi để đánh lừa loài kiến: Khi vừa nở ra, ấu trùng bướm tiết ra một loại mùi giống mùi kiến, nhờ vậy lũ chúng được lũ kiến đem về tổ nuôi nấng. Sau hai tháng sống nhờ sự chăm sóc của bầy kiến, lũ ấu trùng biến thành bướm bay đi. Chuyện thứ hai, nói về loài chim cúc cu đánh lừa và áp chế chim chích. Chim cúc cu cái đẻ trứng vào tổ chim chích. Chim chích ấp trứng, nở ra cả chim cúc cu non và chim chích non. Khi chim chích mẹ đi kiếm mồi, chim cúc cu non đẩy chim chích non ra khỏi tổ để thụ hưởng toàn bộ sự chăm sóc của chim chích mẹ. Nhìn cảnh con chim cúc cu non vừa mới nở, mắt còn nhắm tịt, đã biết dùng mỏ đẩy con chim chích non ra khỏi tổ khiến con này rơi xuống mắc trên cành cây rồi chết khô, Trực thấy lợm giọng. Trực càng thấy ghê sợ hơn nữa, khi xem đoạn phim miêu tả con chim chích bé tí phải tha mồi nuôi con chim cúc cu có sức lớn nhanh gấp mười lần sức lớn của mình. Vậy mà chim chích không dám loại bỏ kẻ ăn bám gian giảo kia. Bởi vì, cúc cu là loại dân anh chị, nếu bị loài chim khác phá tổ, hại con, chúng sẽ phá nát ít nhất một nửa số tổ chim cùng trứng chim và chim non trong vùng. Lũ bướm và chim này gian manh, ác độc thật, nhưng chúng hoạt động hoàn toàn theo bản năng, vì sự sinh tồn của nòi giống. Còn con người, con người có ý thức, tại sao cũng có những hành động loại trừ đồng loại dã man làm vậy?

Trải bao thăng trầm của cuộc sống, nếm bao chua cay mặn ngọt của cuộc đời, nhưng Trực chưa bao giờ phải chứng kiến cảnh nhân tình thế thái đảo điên như thế này. Thấm nhuần tư tưởng nhân văn, Trực những mong được sống trong một môi trường nhân ái, đoàn kết, ở đó mọi người thương yêu, giúp đỡ nhau, làm cho cuộc sống vui lên, sướng lên. Thế nhưng, ra Tập đoàn này, anh đã phải chủ trì giải quyết biết bao nhiêu việc trái với tâm nguyện của mình. Ít nhất, tới vụ này, anh đã phải đương đầu với bốn trận đấu đá nội bộ, trong đó anh không phải là người tham gia, nhưng là người phân xử. Trong các cuộc đấu đá đó, dù là bên nào, thì họ cũng là cấp dưới của anh, anh phải xử lý khách quan, công bằng, với mục đích là ổn định nội bộ, đưa Tập đoàn tiến lên. Nhưng, dù có khách quan, công bằng đến đâu, cũng không tránh khỏi va chạm với những kẻ không biết điều. Phân xử, thì phải phân rõ đúng, sai. Thế tất, người bị đánh giá là sai, sẽ phản ứng. Trực thấm thía vô cùng câu nói trong dân gian: nếu gặp hai người lạ đánh nhau, anh can thì sẽ được thêm một người bạn, còn nếu là hai người quen đánh nhau, anh can, anh sẽ mất một người bạn, có khi mất cả hai! Buồn thay những việc đọc đơn tố cáo, xử lý chuyện đấu đá nội bộ, kỷ luật cán bộ cấp dưới. Đó là những công việc chán ngắt, làm cho con người phải nhiễm bao độc tố, tổn thọ bao nhiêu năm sống. Nhưng, là người lãnh đạo, anh không thể lẩn tránh trách nhiệm, cứ phải xử lý hết vụ này đến vụ khác, nhiều khi cảm thấy thân thể bải hoải, rã rời. Qua trải nghiệm bản thân, Trực đúc kết rằng: Mệt nhất là mệt óc. Đau nhất là đau lòng. Khổ nhất là khổ tâm.

Tình hình này, đòi hỏi phải có sự đấu tranh mạnh hơn. Phải có ý chí tiến công, không được co thủ. Nếu cần phải quăng xuống mặt đầm bao nhiêu tảng đá cho nước đầm dậy sóng lên, mặt đầm tung toé ra, cho cá tôm nhao nhác theo, cho bật ra những khuôn mặt trắng đen, cũng phải làm. Trực gọi điện cho Đại Hoạ sĩ lếu tếu...

Phạm Việt Long

Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/gia-tu-tieu-thuyet-cua-pham-viet-long-chuong-hai-vu-an-xoay-tit-tho-lo-a5333.html