CHƯƠNG III NHỤY KIỀU TƯỚNG QUÂN
II
Kỳ 31.
Ngay chiều hôm đó, tại Đá Bàn, nơi là Tổng hành dinh của quân khởi nghĩa, Triệu Trinh Nương đã gặp Triệu Quốc Đạt, Chủ tướng của cuộc khởi nghĩa. Đó là một căn nhà mái lợp lá cọ, vách ghép bằng những tấm phên đan bằng nứa, giữa nhà kê một bộ bàn ghế gỗ đơn sơ. Trên bàn, một chiếc ấm đất màu nâu đang bốc khói thơm mùi lá trà xanh, cạnh ấm là những chiếc bát sành cũng màu nâu bóng dùng để uống nước trà trong ấm. Cạnh bàn, một người đàn ông khoảng 35 tuổi, da ngăm ngăm đen, mắt sáng, mặt vuông chữ điền, phong thái đàng hoàng đĩnh đạc. Người đó chính là Triệu Quốc Đạt, hào trưởng vùng Quân Yên, nay là Chủ tướng của cuộc khởi nghĩa Núi Nưa. Triệu Quốc Đạt đang vừa uống nước chè xanh, vừa suy nghĩ hướng phát triển của cuộc chiến chống giặc Ngô. Một lính cận vệ vào báo:
-Dạ bẩm chủ tướng, có Nhụy Kiều tướng quân muốn gặp.
-Cho muội ấy vào.
-Dạ.
Triệu Trinh Nương cùng hai vệ nữ đi vào. Cả ba cúi đầu chắp tay hành lễ:
-Dạ bẩm Chủ tướng.
Triệu Quốc Đạt gạt tay:
-Người nhà cả, miễn lễ.
Triệu Trinh Nương vẫn chắp tay nói:
-Dạ thưa huynh, muội vừa đi thanh tra vòng quanh căn cứ để xem xét cụ thể quân lương. Nghĩa quân đã lên 1 vạn và đã được huấn luyện kỹ thuật tác chiến cơ bản. Lương thực năm nay được mùa, đã tự túc được lương thực, giảm phần đóng góp của dân. Chúng ta có thể khởi binh tác chiến được rồi.
Triệu Quốc Đạt nói;
-Huynh cũng vừa nhận được tin của thám mã báo, bách tính quận Nhật Nam cũng đã nổi dậy hướng ứng cuộc khởi nghĩa của ta. Quan lại các cấp nhà Ngô đã chạy về Giao Chỉ và Quảng Châu.
Triệu Trinh Nương nói:
-Xét tình hình hiện nay và lực của ta và địch ở Cửu Chân và Nhật Nam, xét khí thế đang dâng cao và rầm rộ của bách tính, ngay ngày mai chúng ta có thể làm lễ tế cờ, tế thần linh thiên địa và xuất quân tấn công thành Tư Phố, trấn trị và là cơ quan đầu não của quân Ngô ở quận Cửu Chân. Nếu còn chần chừ sẽ bỏ lỡ thời cơ.
Triệu Quốc Đạt nói:
-Đúng như muội nói. Chiều có đầy đủ bốn anh em họ Lý và các tướng lĩnh sẽ bàn cụ thế. Bây giờ ta đi ăn cơm thôi. Quá trưa sang chiều rồi.
Hôm sau, một buổi sáng năm 247, tiếng cồng, trống vang lên khắp non ngàn Núi Nưa. 1 vạn quân và các tướng lĩnh gươm, giáo, trường thương, cung tên đứng nghiêm trang làm lễ tế cờ, một rừng cờ vàng tung bay theo gió trên đầu nghĩa quân. Một lá cờ lớn cũng màu vàng đề chữ “Soái” màu đỏ được kéo lên bay phần phật theo gió. Mọi người hướng về chiếc bàn lớn đặt trên bệ đất cao, trên bàn đặt linh vị các vua Hùng, linh vị hai Trưng Nữ Vương, các bát hương nghi ngút khói, những bát rượu được rót ra, trên bàn còn đặt những khay trầu cau, những bát đèn dầu lạc cháy lung linh. Triệu Quốc Đạt trong bộ võ phục màu nâu, áo giáp đồng, đội mũ nhọn đồng, đốt hương cắm lên bàn thờ và quỳ xuống. Một cụ già mặc áo dài đen, đầu buộc khăn đen quỳ bên cạnh Triệu Quốc Đạt và đọc bài văn tế theo tiếng đệm của tiếng trống và tiếng cồng. Cứ sau một hơi dài ê a của cụ già dứt thì tiếng trống, cồng lại nổi lên và Triệu Quốc Đạt lại vái lạy tổ tiên thánh thần, mong các cụ tổ tiên anh hùng và các bậc thánh thần thiên địa phù hộ cho con cháu thắng lợi, giành độc lập cho giang sơn xã tắc, cứu lê dân qua khỏi cơn nước sôi lửa bỏng của họa ngoại xâm.
Sau lễ tế cờ, ngay hôm đó, Triệu Quốc Đạt và Triệu Trinh Nương dẫn 1 vạn quân rời khỏi căn cứ đi về miền Giàng đánh thành Tư Phố. Triệu Trinh Nương đi tiên phong, mặc áo giáp đồng, chít khăn vàng, đầu đội nón ngà, lưng thắt dải lụa vàng, ngực che yếm vàng, chân đi guốc ngà, tóc cài trâm vàng, cưỡi voi trắng một ngà, hai bên hông mang hai thanh gươm, lưng mang cung tên, oai phong lẫm liệt và vô cùng xinh đẹp kiều diễm. 1 vạn quân đi rầm rập, bụi cuốn mù trời, cờ vàng bay phấp phới, giáo gươm tua tủa lên không trung. Triệu Quốc Đạt đi trung quân, tướng Lý Quốc và Lý Gia đi tả hữu, tướng Lý Sơn và Lý Hà đi hậu quân.Trên đường hành quân, thanh niên nô nức tòng quân. Bách tính dọc đường đem nước chè, nước sôi, xôi, bánh chưng ra đón nghĩa quân. Tiết trời đang mùa đông, gió lạnh thốc thổi. Khắp Cửu Chân và Châu Giao đang chấn động bởi cuộc khởi nghĩa ở Núi Nưa.
III
Quận Cửu Chân có con sông lớn nhất chảy qua là sông Mã và phụ lưu của nó là sông Chu. Sông Mã bắt nguồn từ nước Ai Lao, chảy qua Cửu Chân rồi đổ ra biển Đông bằng cửa chính là cửa Lạch Hới (giữa Hoằng Hóa và Sầm Sơn), thứ hai là nhánh đi qua Hoằng Hóa tạo nên cửa Lạch Trường, giữa Hậu Lộc và Nga Sơn, một nhánh tạo nên sông Lèn đi qua Yên Định, Hoằng Hóa, qua Hà Trung và Nga Sơn, còn nhiều phụ lưu khác tạo nên nhiều cửa phụ khác. Sông Mã dài khoảng 1024 dặm, qua Ai Lao khoảng 204 dặm, qua Cửu Chân khoảng 820 dặm. Phụ lưu của sông Mã là sông Chu bắt nguồn từ Sầm Nưa (Ai Lao, qua quận Quế Phong (Nghệ An) của Nhật Nam rồi chảy qua miền núi Cửu Chân như Thường Xuân, Thọ Xuân và hợp lưu với sông Mã ở Ngã Ba Giàng (Ngã Ba Đầu). Từ ngã Ba Giàng xuôi sông Mã xuống gặp một vùng đất rộng lớn bên hữu ngạn sông Mã, tre trúc cây cối xanh tươi. Đó là làng Giàng, nơi đứng sừng sững tòa trấn thành-thành Tư Phố, đó là nơi trấn trị đầu não của chính quyền Đồng Ngô ở quận Cửu Chân, nơi ở và cai trị của Thái Thú quận Cửu Chân Tiết Kính Hàn và quan Tư mã (phụ trách về quân sự) Mao Phong.
Tình hình Giao Châu nói chung và Cửu Chân nói riêng thời kỳ Đông Ngô cai trị rất loạn lạc. Dân tình không chịu nổi ách áp bức, bóc lột, đàn áp tăng lên gấp nhiều lần của nhà Đông Ngô so với các triều đại nhà Hán, cho nên đã nổi dậy chống lại khắp nơi. Đúng là “quan bức dân phản”. Từ Thứ sử Giao Châu Lã Đại cho đến bọn Tiết Kính Hàn, Mao Phong ăn không ngon, ngủ không yên, tìm cách đối phó nhưng hiện không có đối sách gì, nhất là đối với cuộc khởi nghĩa của hào trưởng Triệu Quốc Đạt và người em gái nổi tiếng của ông là Triệu Trinh Nương.
Sớm hôm này là sớm mùa đông nên thành Tư Phố vẫn chìm trong giá rét, gió bấc thổi như cắt da, cắt thịt. Cây cối quanh thành trút lá vàng tơi tả. Sông Mã vẫn đưa nước về Đông, nước chồm lên phi như vó ngựa chạy nước đại. Các dãy núi Ngũ Hoa, núi Voi, núi Ngựa, núi Rùa vươn đá xám lên trời, lãng đãng âm u chìm trong màn sương như khói. Xa xa ở phía Tây núi Trịnh và núi Vòm trắng xóa sương mù huyền ảo như xứ sở của thánh thần.
Phủ đường thành Tư Phố rộng lớn sang trọng mái lợp bằng ngói lưu ly màu xanh, cột bằng gỗ lim nâu bóng. Trong phủ đường bày biện bàn ghế sang trọng bằng gỗ lim, sến màu nâu bóng, chạm khắc hoa văn hình hoa, hình chim, thú tinh xảo, sống động. Tiết Kính Hàn, Mao Phong đang ngồi bàn công việc với các tùy tướng. Tiết Kính Hàn nói:
-Các ngài đã biết tình hình ở quận Nhật Nam và Cửu Chân rất nguy ngập. Ở quận Nhật Nam, quan lại người Ngô, thậm chí cả người Việt cộng tác với chúng ta đã bỏ chạy ra quận Giao Chỉ, thậm chí một số đã bỏ chạy về Quảng Châu. Ở quận Cửu Chân, nền cai trị của chúng ta cũng đang tan vỡ, quan lại và binh lính khiếp sợ trước uy danh của cuộc nổi loạn của Triệu Quốc Đạt và em là Triệu Thị Trinh. Núi Nưa chỉ cách Tư Phố 60 dặm đường, chỉ nay mai sớm muộn Triệu Quốc Đạt cũng tấn công Tư Phố. Tư mã Mao Phong phụ trách về quân sự của quận có kế sách gì tiêu diệt bọn loạn tặc họ Triệu không?
Mao Phong đáp:
-Mạt tướng đang định chiều nay đem quân vào Núi Nưa tiêu diệt loạn tặc Triệu Quốc Đạt.
Tiết Kính Hàn hỏi:
-Quân số của giặc Triệu là bao nhiêu?
Mao Phong:
-Khoảng 1 vạn.
Tiết Kính Hàn:
-Tư mã định đem đi bao nhiêu quân?
-Dạ bẩm thái thú, khoảng 2 vạn.
Tiết Kính Hàn băn khoăn:
-Vậy là Tư Phố không còn quân phòng vệ? Vả lại, Núi Nưa là miền núi rừng hiểm trở, thuận lợi cho địch mà khó khăn cho quân ta. Tư mã định tấn công thế nào?
Mao Phong còn im lặng chưa biết trả lời câu hỏi khó đó như thế nào. Bỗng một tên lính canh vào báo:
-Dạ bẩm Thái thú, có thám mã ở Núi Nưa về báo tình hình khẩn cấp.
Tiết Kính Hàn chồm lên:
-Cho vào ngay!
-Dạ.
Lát sau tên thám mã chạy vào, vừa thở vừa nói:
-Dạ bẩm Thái thú, Triệu Quốc Đạt và Triệu Trinh Nương dẫn 1 vạn quân đã tiến gần tới thành Tư Phố của chúng ta.
Tiết Kính Hàn kinh hãi sửng sốt:
-Hả?
Mao Phong nói:
-Xin Thái thú đừng lo, hạ quan đang định vào hang bắt cọp thì nay cọp tự mang xác đến, đỡ khó nhọc cho quân ta.
Mao Phong hỏi tên thám mã:
-Giặc Triệu đã đến đâu rồi?
-Còn cách thành Tư Phố của ta khoảng 10 dặm.
Tiết Kính Hàn hỏi:
Tư mã định phá giặc như thế nào?
Mao Phong suy nghĩ rồi đáp:
-Nếu giặc công thành ngay thì ta đem 2 vạn quân chọi 1 vạn, ta ưu thế về binh lực, các tướng đều võ nghệ cao cường, binh sĩ tinh nhuệ, chắc chắn là thắng bọn nông dân là giặc cỏ ô hợp.
(Còn nữa)
CVL
PGS TS Cao Văn Liên
Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/viet-nam-dien-nghia-tap-i-tieu-thuyet-lich-su-ky-31-a6484.html