1. Phải qua bến đò chợ dưới bến tiệm trồng răng của Ông Năm Bướm sát bên là tiệm Thuốc Bắc Tăng hòa Đường của ông Thầy Trắng, Ba của thằng Tăng Hào Minh bạn tôi. Đò một tiếng có một chuyến, đò chạy khoảng 20 phút là tới Phù Ly, ngang bên sông là Hội đồng xã của xã Mỹ Hòa (Bây giờ là khu dân cư cao cấp Hoàng Quân). Đò cặp bến nhà Nội rất dễ biết vì dưới bến có trồng một cây Me sát bên cây Điều (Ba khoe là Ba trồng hai cây này kỷ niệm ngày Mẹ tôi sanh ra tôi) cách mấy cây chừng chục mét về phía dưới có một con mương ranh nhỏ, trên có cây cầu ván cạnh mé mương có cái Miễu ông Tà, cây cầu ván chỉ để người đi chứ không chạy xe được.
2. Lên bến xe lôi đi Trà Ôn tới cầu sắt Phù Ly chịu khó xuống xe lội bộ chừng hơn 10 phút. Có thể đi theo con lộ cặp mé sông bọc hết vàm Phù Ly còn đi tắt ngang chổ chùa của Ông Lục Phù Ly thì gần hơn.
3. Lỡ đò thì đi đò chèo qua bên kia sông xóm Lò tương (nơi diễn viên Lý Huỳnh xưa ở đó) rồi lội bộ chừng hơn 30 phút là tới vàm rạch Phù Ly .
Nhà Bác Hai Dò ( anh thứ hai của Ba tôi) nhà sát con mương ranh phía bên nhà Bác Sáu Giỏi, Bác Hai thì đầu để cái "xi nhông" râu ria xồm xoàm tóc tai Bạc trắng, tiếng nói thì sang sảng, lúc nào trên bàn khách cũng có bình trà nóng để trong cái vỏ đựng Bình tích bằng nguyên vỏ trái dừa cắt làm đôi. Bác nói để trong cái bình này trà sẽ nóng lâu hơn.
Bác hai con đông lắm:
Chị Hai Phận, Chị Ba Thổ, Chị Tư Thảnh, Chị Sáu Nơi (mới mất năm rồi ở Bảo Lộc, thọ 85 t), Chị Bảy Chót, Chị Tám Cái, Chị Chín Vốn, Anh Mười Khuynh, Chị Út (Lộ) và anh Út Nô ( Bùi văn Huấn) .
Nhà Bác Sáu kế bên nhà Bác Hai, Bác Sáu cao hơn Bác Hai tóc cũng để "xi nhông" và râu ria cũng Bạc trắng, tiếng nói rổn rảng cũng không thua Bác Hai, nhìn ông giống hệt như nghệ sỹ Mạnh Dung đóng vai ông Ba bắt rắn trong phim Đất Phương Nam. Bác Sáu thì con không nhiều như Bác Hai khi tôi nhớ chỉ có ba người : Anh Hai Ngà, chị Tư Kiềm, Chị Năm Cúc.
Kế bên là nhà Bà Nội, Bà Nội thứ Hai, bà sống chung nhà với cô thứ Tám, cô Tám có tật ở bàn tay nên cô không có chồng. Cô hiền khô, quanh quẩn bên bà nội làm tối ngày không nghỉ, gặp tôi cô hay dẫn ra khu vườn phía sau nhà của nội hái trái cây cho tôi, lúc nào cũng kêu tôi mang đủ thứ về cho mẹ.
Bà Nội thì có vẻ không đồng ý với Ba tôi về chuyện ông nhảy vô hốt ổ nuôi con người ta, bà hay xoa đầu tôi hỏi:
- Lúc này con học lớp mấy?
- Học có giỏi không?
Bà Nội hay ngoái trầu ăn xem xẻm nên tôi nhìn khi bà phun cái nước trầu đỏ lòm vào cái ô trầu lúc nào cũng kế một bên thấy mà ớn.
Bà nhìn tôi rồi khen:
- Nhìn tướng tá cũng trắng trẻo đẹp trai giống thằng cha mày hồi nhỏ, nhưng nhờ có thằng cha Ba tàu giàu có nên nội coi bộ con sáng sủa hơn thằng cha bây. Nè... giống cái gì thì giống nhớ khi lớn lên tìm vợ xứng đào xứng kép đừng như thằng cha mầy nhào vô "hốt ổ" nghen.
Tôi không hiểu "hốt ổ" là gì hỏi Ba thì ổng cười ha hả:
- Là gì thì lớn lên con sẽ biết...
(Lớn lên tôi rành cái vụ hốt ổ còn hơn Ba tôi nữa )
Mỗi lần Ba dẫn tôi về chơi với Nội. Ba và hai người Bác chắc không hạp nhau có lẽ từ khi chuyện tình với mẹ tôi không được Nội và hai Bác chấp thuận? Ba về là đi nhậu suốt, khi đầu trên khi xóm dưới, có khi tối mịch hết đò hai cha con phải lội bộ về chợ mà quảy theo nào dừa, nào bưởi, nào mục măng. Mà bạn Ba đâu mà quá chừng, đi tới chỗ nào cũng bị mời nhậu mà Ba tôi thì ổng khỏe lắm ổng uống hoài mà chẳng khi nào gặp ổng say.
Nhà Nội lúc đó chưa có điện nên tới tối mà Ba chưa dẫn tôi về là tôi sợ ma gần chết phía sau vườn nhà toàn là cây cao và to... nhất là mấy chục bụi tre gió thổi xạc xào càng nghe càng ớn mà nhà Nội không có đốt đèn dầu mà thắp sáng bằng nhựa của trái Mù u nên ánh sáng vàng vọt leo lét... vì vậy mà tôi hứa trong lòng là sẽ không bao giờ ngủ đêm lại đây. Mẹ tôi hôm nào có dịp ra nhà nội Mẹ hay mua dầu lửa cho Nội nhưng Nội rầy mua chi cho tốn tiền, sau vườn cao cây mù u to như cây cổ thụ sát ranh nhà ông Xã Trực trái chín rụng đầy, Cô Tám lượm hàng thúng mang vô giả nát lấy nhựa mù u đốt đèn khỏi tốn tiền.
Phía cuối sau vườn nội có một con đường mòn trổ tắt qua chùa Ông Lục nơi giáp ranh hai bên toàn là mả chôn người chết, con đường này chỉ vài trăm mét nhưng thời đó ít ai dám đi vào ban đêm vì sợ ma nhát! Ba tôi thì có sợ ai? ban đêm thì chỉ mình Ba tôi đi ra cầu sắt Phù Ly nhậu xong lội về hàng đêm.
Ba kể:
- Ban đêm chẳng ai dám đi con đường này ngoài ba. Lúc chưa sanh con ra, một đêm khuya trời tối đen như mực Ba đi nhậu về vừa ngang chòm mả đất, bỗng nghe tiếng cười lảnh lót... nhìn ngang Ba thấy mập mờ một bóng người trắng toát mái tóc đen dài đang ngồi trên cái mả. Ba chửi nó :
- Con quỷ cái, mày nhát ai không nhát lại nhát thằng Chín Mậu này là mày tới số rồi nhe con. Lần này thì tao tha nhe ngày mai mày mà còn nhát tao thì đừng trách.
Vậy mà đêm sau khuya đi về lại gặp con quỷ cái đó nữa. Lần này nó không nhát mà nó ngồi bồng con giương đôi mắt xanh lè nhe nanh nhìn ba. Ba bước tới sát con quỷ nói lớn:
- A... vậy là tao biết chỗ của mày rồi, mày vẫn nhát tao thì mai mày sẽ biết , thì ra con quỷ này nó ngồi trên mả của mẹ đàn bà nào có bầu chết mấy năm trước mà không có thân nhân, Ông Lục thương tình đồng ý cho bà con chôn ở đây.
Ngày mai Ba lấy cây mác vót ra đốn một cây tầm vông già, Ba chặt năm đoạn , mỗi đoạn dài tầm 1m2 rồi Ba đi nhậu, Ba canh lúc vừa đứng bóng mặt trời Ba mang ra mả con quỷ Ba đóng 4 góc 4 cây, còn một cây Ba đóng giữa cái mả của nó...Thế là đêm sau Ba về không thấy bóng con quỷ đâu mà chỉ nghe tiếng gió rít trên hàng cây giống như tiếng con quỷ nó khóc? Đúng ba ngày đêm Ba mới ra nhổ mấy cây tầm vông lên đốt cho nó mấy cây nhang Ba vái:
- Mày có làm quỷ làm ma gì thây kệ tía mày, nhưng mà còn nhát người ta thì lần sau tao đóng luôn cho mày hết đầu thai luôn.
Chuyện Ba kể không biết có thiệt không chứ anh Út Nô con Bác Hai nói nhỏ với tôi:
- Chú Chín nói thiệt đó, lần đó Bà nội biết chuyện Bà nội chửi chú quá chừng, Bà nội nói chú Chín ác coi chừng sau này đẻ con không có lỗ đít. Mà anh hỏi thiệt mày có lỗ đít không?
Tui mắc cỡ bỏ chạy mất.
Anh Hai Ngà con Bác Sáu thì anh trầm tính hơn anh Út Nô, mỗi lần gặp là anh hay kể cho tôi nghe chuyện "Con quỷ một giò" ở phía sau vườn Nội nhập vô anh Mười con Bác Hai, phải rước thầy về trị mấy năm trời, chuyện về con Rắn " khổng lồ" ở sau vườn Ông Lục Tà Cưng nó lâu lâu lại xuất hiện nhiều người gặp..
Anh kể chuyện khi đã ngà ngà hơi men:
- Chú mày biết không? Con Rắn ở khu vườn Ông Lục nó lớn lắm, có người đi mần ruộng trưa về bước xuống Mương rửa cái mặt, con Rắn nó đang trầm dưới nước bị đạp nên nó giật mình giẫy mạnh làm cha đó văng lên bờ chạy la làng. Có lần Ông Năm Hòa dưới xóm làm nghề gác Cu tới sáng không về gia đình tìm gặp thỉ gặp ổng nằm bất tỉnh phía sau vườn Bà nội. Tri hô lên mang ra cấp cứu ở Nhà thương Quận. Khi tỉnh lại ổng kể:
- Tui đang ngồi hút thuốc thì thấy có cái gì lướt nhẹ trên vai mà nặng ịch hà. Thì ra con Rắn từ phía sau nó trườn lên vai tui, và nó quay cái đầu lại, hai con mắt bé tí xanh lè miệng nó kê sát cái mặt cái chót lưỡi le ra liếm cái mặt tui.Thế là tui sợ quá lật ngang bất tỉnh luôn.
Lần đó tuy ổng không chết nhưng chừng vài tháng sau ổng bị ám ảnh ăn ngủ không được nên cũng chết.
Tôi tròn đôi mắt nghe anh kể mà không biết anh có nói dóc hay nói thiệt, thấy tôi có vẻ không tin nên anh nói tiếp:
- Chú mày phải tin anh chớ, chuyện con rắn ở sau chùa Ông Lục cả xứ này ai cũng biết mà. Anh Mười có lần đi đám giỗ nhậu về trời đã tối chợt nhớ cây tre tính đốn lúc sáng mà đi nhậu nên chưa đốn kịp, thấy trời sáng trăng nên lấy cây búa ra bụi tre thấy một cây tre mồ côi láng o vừa tay nằm ngã ra bên ngoài trọng bụng mừng thầm lại nghĩ sao hồi sáng mình không gặp cây này? Vừa vung búa lên thì ra đó là phần đuôi của ông Rắn, ổng đang phăng lên ngọn bụi tre tìm bắt chim, ổng co đuôi đập cho ông Mười một phát vô mặt bỏ búa chạy la làng.
Nhưng từ ngày giải phóng đến nay thì nó đi biệt tăm. Người ta đồn là nó chết hay đi kiếm chổ khác tu rồi, vì bây giờ vườn đâu còn bỏ hoang như ngày xưa con Rắn bự như vậy chổ đâu mà sống.
Anh Hai Ngà còn kể nhiều nữa mà tôi chưa kịp nhớ ra ...
Bà nội ngoài Cô Tám bà còn hai người con gái nữa, cô thứ Bảy thì có chồng đâu ở vùng Chương Thiện, cô Út thì bằng tuổi mẹ tôi cô có chồng cũng gần nhà Nội. Ông Dượng thì rất vui tính và cuộc nhậu nào có Dượng út là vui lắm và mỗi lần tôi Dượng hay hỏi:
- Sao Út ! chừng nào Út Hiền (Út Hiền con dì dượng út bằng tuổi tôi) cưới vợ Dượng cưới vợ cho con luôn nghen. (Cô Út con cũng rất đông chỉ có Út Hiền nó bằng tuổi tôi còn em nó nhiều lắm : Út Hậu Út Hết, Út Nữa, Út Thôi...)
Tưởng Dượng nói chơi ai dè sau này Dượng làm thiệt... khi Cha mẹ tôi chết, Dượng làm mối cho tôi cô con gái út của người bạn thân của Dượng một ông chủ vườn chôm chôm dưới cù lao Lục sỹ thành Trà Ôn. Nghe lời kể của Dượng thôi mà đàng gái đồng ý nhận tôi làm rể mà phải bắt rể, xong đám nhà gái sẽ cho hai vợ chồng ra riêng và của hồi môn là...15 công chôm chôm đang có trái. Trời ơi, tôi nghe nói phải về vườn, ở rể nhà giàu thì giàu nhưng ở Lục sỹ Thành là một vùng đất Cù lao tôi có xuống chơi một lần... buồn hơn quê Bà Nội tôi nữa. Lúc Dượng Út và mấy ông anh đang lay hoay lo mang lễ vật, khay trầu rượu xuống chiếc tắc ráng tôi nhanh chân dọt lẹ... lần đó chắc Dượng giận tôi lắm và tôi thì đi luôn... và không gặp Dượng luôn tới bây giờ.
Biết đâu ngày xưa nghe lời Dượng cưới vợ giàu ở vùng cù lao chắc gì bây giờ tôi rảnh rang ngồi viết chuyện đời xưa, và biết đâu cũng có thể trở thành một ông chủ xứ trái cây hạnh phúc với một đống con cái cháu đống con đàn?
Mỗi năm tôi gặp Nội không nhiều, chỉ một lần là ngày mùng 3 tết tôi và Mẹ ra chúc tết Bà Nội, một lần là giỗ ông Nội và thỉnh thoảng cũng có những lần đột xuất Ba được về phép nên xin mẹ cho theo Ba về Nội .
Nội kể:
- Từ Miền Trung ba gia đình họ Bùi là ba anh em chèo ghe vô tới cái xứ này khẩn hoang, khai đất... một trong ba gia đình là gia đình của Nội... vì vậy mà đầu trên xóm dưới cái họ Bùi sinh sôi nảy nở ngày càng nhiều, con cũng mang họ Bùi nên khi nào rảnh thì về thăm nội nghen, nội già lắm rồi biết sống được bao lâu nữa đâu..
Lời của Nội tâm sự với tôi bây giờ tôi chỉ còn nhớ loáng thoáng vì lúc đó tôi còn quá nhỏ, chiếc Ghe Ngo phía sau vườn cũng tan rã theo thời gian không còn dấu tích.
Đầu xuân 1968, Ba tôi chết vì chiến tranh tại một đồn nhỏ ở lộ 16, khi Mẹ tôi dẫn tôi về chịu tang. Bà Nội khóc nhiều vì Nội thương Ba, Nội sợ tôi vì sống với ông Ba tàu giàu có sẽ từ bỏ cái họ Bùi, khi đó cũng có người dẫn mấy người con xin chịu tang và nói là con của Ba, ai cũng bất ngờ vì sao mà ba tôi giấu kỷ như vậy mà không ai biết ? Bà lắc đầu không chịu nhận vì không biết mấy đứa nhỏ này ở đâu mà ra. Còn may là Nội vẫn cho tôi và mẹ để tang ba dù mẹ đang ở với người chồng trước. Ngày lãnh tiền tử của Ba (gần 5000 đồng) Nội chia làm ba phần, một phần chi phí lo chôn cất ba, một phần là để làm mộ, một phần Nội đưa cho tôi 1500 đồng mua chiếc xe đạp đi học.
Vài năm sau thì Nội mất vì bệnh, bà được đưa ra nằm chung với Ông Nội chung với Bác Hai, Bác Sáu, Ba tôi, Cô Tám, anh Hai Ngà.... phía sau khu vườn của Nội. Năm đó Nội tôi hưởng Thọ 93 tuổi.
Hôm nay lòng bồi hồi khi viết bài này và thầm nghĩ :
- Nội ơi, con tự hào khoe với Nội con vẫn còn mang họ Bùi, thằng cháu duy nhất của dòng họ Bùi còn sống nhưng số phận đưa con đi thật xa khỏi khu vườn của Nội từ lúc thiếu thời .
Theo Chuyện làng quê
Bùi Trung
Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/noi-toi-a8507.html