Để thực hiện nhiệm vụ trên, nhóm kỹ sư của đơn vị đã phải bàn bạc và cân nhắc mất cả tuần, rồi họ đưa ra phương án:
- Về loại vải may quần áo cho tù binh Mỹ ở trại Hỏa Lò, đề nghị chọn loại ka-ki của Liên Xô. Màu vải phải khác với đồng phục của Quân đội và Công an hồi ấy, quần sẫm hơn áo. Về mẫu áo cũng phải tính toán kỹ, cuối cùng anh em đã chọn phương án may áo bludông, có khóa kéo.
- Đề nghị không may ba lô như cấp trên gợi ý lúc đầu, mà thay bằng túi xách du lịch không lớn quá, cũng không nhỏ quá.
- Về giày và dép: lúc đầu, anh em đề nghị mua sẵn dép nhựa cỡ lớn, vì lo không đo được cỡ chân của tù binh. Nhưng sau thấy đi dép không trang trọng, nên lại phải đổi phương án đi giày da đen.
Riêng về may đo quần áo, trực tiếp đồng chí Phó Giám đốc X20 ngày đó đã phải vào trại Hỏa Lò, bí mật đo quần áo cho “khách hàng” bằng cách ngồi một chỗ kín đáo, rồi ước lượng bằng cách so sánh chiều cao của mỗi tù binh trên bậc cửa ra vào để lấy kích cỡ quần áo cho họ...
Những cố gắng của các cán bộ chiến sĩ X20 đã được đền đáp xứng đáng: Hôm các tù binh Mỹ thay trang phục cấp phát mới để dự lễ bàn giao về nước, tất cả những người chứng kiến, trong đó có nhiều nhà báo quốc tế đều công nhận là họ được ăn mặc trang trọng và lịch sự tới mức... không ai nghĩ đó là tù binh, mà giống như những người đến Việt Nam du lịch trở về nước.
Còn một chuyện lạ lùng này, không thể không viết ra: Đó là khi biết tin sắp được trao trả về nước, một số tù binh Mỹ đã viết đơn xin được tình nguyện... ở lại Việt Nam! Ban chỉ huy trại không biết xử trí ra sao, đành phải báo cáo xin ý kiến cấp trên... Dĩ nhiên, không ai dám chấp thuận điều đó, ông Duyệt đành phải gọi những người đã viết đơn xin ở lại Việt Nam lên phân tích, thuyết phục để họ trở về nước đoàn tụ cùng gia đình.
Trước hôm tiến hành lễ trao trả tù binh, chỉ huy trại đã tổ chức một bữa cơm Việt Nam, đồng thời cho mua một số nón bài thơ và điếu cày... (những thứ mà tù binh Mỹ rất thích) để tặng họ mang về nước làm kỷ niệm.
Có một chuyện rất thú vị, mà cho đến những ngày đầu tháng 4 năm 2010 Đại tá Trần Trọng Duyệt mới tiết lộ với chúng tôi. Ấy là việc trước ngày ta tổ chức tiến hành trao trả các tù binh cho phía Mỹ. Công việc đã được chuẩn bị rất kỹ càng, tưởng chừng như chu đáo đến từng chi tiết nhỏ, nhưng cấp trên vẫn lưu ý: Thử đặt giả thiết, nếu trong quá trình trao trả, tù binh Mỹ có hành động phản đối, cởi hết quân trang quần áo (như anh em tù binh của ta đã làm ở miền Nam khi được trao trả ngày đó) vứt lại, hoặc những hành động tương tự mà chúng ta không lường hết và không kiểm soát được, trước sự chứng kiến của báo giới quốc tế thì sẽ ra sao?
Sau nhiều đêm suy nghĩ, Trại trưởng Trần Trọng Duyệt đã nghĩ ra một “độc chiêu” rất có tác dụng: Trước khi đưa các tù binh sang sân bay Gia Lâm bàn giao cho phía Mỹ, ông cho tập hợp họ lại để nói chuyện. Sau khi nhắc lại ngắn gọn tinh thần của Hiệp định Paris về việc trao trả tù binh chiến tranh, ông Duyệt đã nói những chuyện rất tình cảm và hỏi: “Hôm nay, ai trong các anh muốn được về với gia đình, vợ con, cha mẹ và người thân?”
Dĩ nhiên, chẳng có tù binh nào không đồng ý. Ông Duyệt lại bảo: “Có về Mỹ được hay không, là tuỳ thuộc hoàn toàn vào thái độ và hành động của các anh. Tôi xin lưu ý các anh cần phải trật tự, giữ nguyên đội hình thẳng tiến lên xe và ra máy bay. Chỉ cần một người trong số các anh có hành động khác thường, là ngay lập tức, chúng tôi sẽ cho đình chỉ cuộc trao trả và đưa tất cả trở lại phòng giam”…
Vậy là chính các tù binh Mỹ đã nhắc nhở nhau tự giác chấp hành kỷ luật và các quy định khác. Điều đó đã góp phần tích cực, làm cho những đợt trao trả tù binh cho phía Mỹ ở sân bay Gia Lâm hồi đó diễn ra hết sức thuận lợi và thành công tốt đẹp.
Đại tá Trần Trọng Duyệt, cựu Trại trưởng Trại tù binh Hỏa Lò còn nhắc đến một kỷ niệm với một tù binh Mỹ có tên là Alfonso Riate. Ngày đó, anh em quản giáo thường gọi tắt tên người này là “Te”. Anh này bị bắt tại chiến trường Quảng Trị. Nghe nói, “Te” từng làm cố vấn cho một tỉnh trưởng của Chính quyền Sài Gòn (cũ). Biết ông Trại trưởng tù binh mang họ Trần, nên anh ta tự nhận mình có họ tên là... “Trần Văn Te”. Được tin mình sắp được trao trả về Mỹ, “Trần Văn Te” đã viết cho ông Duyệt một lá thư khá dài, trong đó có đoạn:
...Lần đầu tiên tôi đến đất nước Việt Nam của ông là ngày 28 tháng 10 năm 1966. Tôi hoàn toàn không hiểu gì về xứ sở này, chỉ biết rằng ở Việt Nam đang có chiến tranh và tôi đến đây với tư cách là một người lính theo lệnh cấp trên.
Tôi bị bắt ngày 25 tháng 4 năm 1967. Và cho đến hôm nay tôi có may mắn được hiểu biết về đất nước và nhân dân Việt Nam, về cuộc chiến tranh xâm lược mà Chính phủ Mỹ đang tiến hành... Tôi đã nói với chính bản thân mình rằng: Cuộc sống của tôi ở Việt Nam hiện nay mặc dù chỉ là của một tù binh, nhưng nó thật có nghĩa.
Từ tận nơi sâu kín của lòng mình, tôi cảm thấy buồn vì sắp phải từ biệt ông và những người đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong 6 năm trời ở đây. Tôi sẽ không còn những người hiểu biết và đáng yêu bên cạnh mình nữa.
Tôi hiểu rằng, nỗi lòng tôi có một mong muốn sau khi trở về nước, nếu có điều kiện nhất định tôi sẽ trở lại thăm Việt Nam. Tôi sẽ không bao giờ quên ông - người trại trưởng của tôi. Bởi ông mang bóng dáng của nhân dân Việt Nam, người trực tiếp điều hành việc thực hiện chính sách nhân đạo của Chính phủ Việt Nam đối với tù binh. Trong tương lai, tôi có ý định làm cho nhân dân Mỹ hiểu về Việt Nam hơn. Hãy giữ gìn sức khoẻ ông nhé. Với tất cả sự kính trọng và lòng biết ơn nhất. Ký tên: Trần Văn Te”.
Những “công dân bất đắc dĩ” của Hỏa Lò ngày ấy... bây giờ đang sống và làm việc ra sao? Ai còn và ai mất? Vì bài viết có hạn, chúng tôi không thể điểm mặt tất cả mấy trăm tù binh, nhưng chắc chắn không một ai trong số họ có thể dễ dàng quên và quay mặt lại với quá khứ.
John McCain, viên Phi công bị ta bắn rơi và vớt lên từ hồ Trúc Bạch (Hà Nội), sau khi trở thành Thượng nghị sĩ Mỹ, với tư cách là một vị khách quý của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã quay trở lại thăm Hỏa Lò, tìm lại chính căn phòng của mình bị giam giữ năm xưa... Đặc biệt là vào năm 2008, khi ông với tư cách là ứng cử viên Tổng thống Mỹ, cùng tranh cử với Barack Obama, thì di tích tù binh Phi công Mỹ tại Hoả Lò đã được các hãng thông tấn Mỹ và nhiều nước khác quan tâm đặc biệt.
Cựu Trại trưởng Trần Trọng Duyệt đã nghỉ hưu từ lâu, tưởng không còn ai biết đến, bỗng nỗi tiếng cả thế giới. Hàng chục hãng thông tấn nước ngoài với hàng trăm phóng viên từ Mỹ, Cộng hoà Liên bang Đức, Cộng hoà Pháp, Liên bang Nga, Vương quốc Anh, Ba Lan, Úc, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc… đã tìm về Hải Phòng để phỏng vấn và ghi hình Đại tá Trần Trọng Duyệt - Người đã “gần gũi” với ứng cử viên Tổng thống Mỹ một thời.
Ngài Peterson sau khi đã trở thành vị Đại sứ đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại Việt Nam, lấy vợ người Việt, cũng đã nhiều lần cùng vợ con tìm đến buồng giam số 2, khu I của Hỏa Lò - nơi ông đã có gần 7 năm trời gắn bó với bao kỷ niệm buồn vui.
Cựu Thống đốc bang Indiana của Mỹ, ngài Joseph Kernan - từng là Phi công do thám của Hải quân Mỹ, bị bắn rơi ở Thanh Hóa năm 1972, bị giam ở Hỏa Lò và Fa fim Ngã Tư Sở gần một năm trời trước khi được trao trả về Mỹ, cũng sang Việt Nam sau Tết Nguyên Đán Canh Dần để thăm lại chiến trường xưa và “dối già” vào năm 2010…
Các cán bộ, nhân viên quản lý Khu di tích lịch sử Hỏa Lò cho biết: Hầu như ngày nào cũng có những du khách người phương Tây, trong đó có nhiều người đến từ Mỹ ghé vào hai phòng trưng bày “Khách sạn Hilton Hà Nội”. Họ có thể là những cựu binh, nhưng nhiều người còn rất trẻ, có lẽ là con cháu, hoặc thân nhân những tù binh đã từng bị giam giữ tại đây.
(Còn nữa)
Đ.V.H
_________
Với đề tài độc đáo, tư liệu phong phú và cách viết hấp dẫn, “Phi công Mỹ ở Việt Nam” là một trong những cuốn sách được tìm đọc nhiều nhất của Nhà văn Đặng Vương Hưng. Nếu bạn muốn sở hữu, hoặc làm quà tặng cho người thân, chỉ cần để lại tin nhắn, hoặc ĐT- Zalo: 0913 210 520, bản sách có lưu bút và chữ ký mực tươi của Nhà văn sẽ được chuyển phát theo đường bưu điện đến tận địa chỉ nhà riêng của người nhận. Giá lẻ: 200.000 đ/cuốn (kể cả cước phí).
Theo Trái tim người lính
Đặng Vương Hưng