Kỳ 1.
CHƯƠNG I
BẮC TRIỀU-NAM TRIỀU
I
Nước Đại Việt từ khi giành được độc lập thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc, các dòng họ quý tộc phong kiến Việt Nam cũng đua nhau tranh hùng làm chủ thiên hạ, thiết lập nên những vương triều quân chủ chuyên chế. Nhưng các triều đại của các dòng họ cũng tuân theo quy luật đạo trời, hưng thịnh, suy vong, tan hợp, thăng trầm như hết triều nhà Ngô thì sang triều nhà Đinh. Khi triều Đinh suy vong thì nhà Tiền Lê được thiết lập. Tiền Lê suy vong thì các đại thần đưa Lý Thái Tổ bước lên ngai vàng lập ra nhà Lý. Khi nhà Lý hết thì Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh lập ra nhà Trần. Cuối nhà Trần, quyền thần Hồ Quý Ly lộng hành cướp ngôi và bước lên ngai vàng sáng lập nhà Hồ, đổi quốc hiệu Đại Việt thành Đại Ngu. Năm 1407 nhà Hồ thất bại trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược và Đại Ngu bị quân Minh thống trị suốt 20 năm trời, gây ra nhiều tội ác mà chặt hết trúc Nam Sơn cũng không ghi hết. Năm 1418 đức Lê Thái Tổ đã phất cờ khởi nghĩa giải phóng đất nước, gian lao trong 10 năm trời mới đánh đuổi được quân Minh tàn bạo, giành độc lập cho dân tộc. Sau kháng chiến thắng lợi, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi, đế hiệu là Lê Thái Tổ lập ra nhà Hậu Lê.
Nhà Hậu Lê lấy lại Quốc hiệu là Đại Việt, kinh đô Thăng Long, còn được gọi là Đông Kinh. Lam Sơn, Thọ Xuân - Thanh Hóa, quê hương phát tích của nhà Hậu Lê được gọi là Lam Kinh. Thời kỳ đầu của nhà Hậu Lê được gọi là Lê Sơ (1428-1527) với các vị vua Lê Thái Tổ, tại vị 1428-1433, Lê Thái Tông tại vị 1433-1442, Lê Nhân Tông tại vị 1442-1459, Lê Nhân Tông bị anh là Lê Nghi Dân giết tháng 10-1459. Lê Nghi Dân lên ngôi xưng là Thiên Hưng Đế. Thiên Hưng Đế bị các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Nguyễn Đức Trung giết. Tháng 5 năm 1460, Lê Tư Thành, con của Lê Thái Tông và cung phi Ngô Thị Ngọc Giao lên ngôi, đế hiệu là Lê Thánh Tông, tại vị 1460-1497. Lê Thánh Tông là vị vua tài giỏi anh minh nhất trong các vị vua thời Lê Sơ, đã đưa nước Đại Việt nói chung và thời Lê Sơ lên đỉnh cao, hưng thịnh, hùng cường nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Đại Việt thời kỳ này phát triển toàn diện về kinh tế, văn hóa, quân sự, chính trị với những cải cách đúng đắn, triệt để của Lê Thánh Tông về pháp luật, hành chính, quân sự. Lê Thánh Tông đã hoàn thiện nhà nước Quân chủ chuyên chế tập quyền. Lê Thánh Tông cũng đã kiên quyết bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, dân tộc. Ông răn dạy quan lại và tướng sĩ rằng kẻ nào dám đem một tấc đất xương máu của ông cha làm mồi cho giặc thì sẽ bị tru di tam tộc. 30 tháng 1 năm 1497 Lê Thánh Tông qua đời, thọ 55 tuổi, ở ngôi 37 năm. Con trưởng của Lê Thánh Tông là Lê Tranh lên ngôi, đế hiệu là Lê Hiến Tông (1497-1504), cai trị được 7 năm và mất ngày 24 tháng 5 năm 1504. Thái tử Lê Thuần kế vị là Lê Túc Tông. Hai vị vua này là minh quân, có thể nối được chí của Lê Thánh Tông. Tuy vậy, chỉ mấy tháng sau Lê Túc Tông qua đời ngày 30-12-1504, ở ngôi được 6 tháng. Anh trai của Túc Tông là Lê Tuấn lên kế vị, gọi là Lê Uy Mục (1504-1510). Sự tàn bạo và ăn chơi sa đọa dâm dật của vị vua này đã mở đầu cho thời kỳ suy sụp của triều Lê Sơ. Những người xưa không đồng ý đưa Lê Uy Mục lên ngôi bị trả thù và bị giết một cách thảm khốc. Lê Uy Mục còn giết cả bà nội là Thái hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng. Tháng 6 năm 1505, Lê Uy Mục cách chức và giết chết Lễ bộ thượng thư Đàm Văn Lễ, Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật, sau đó giết chết Nhữ Vi, kẻ đã giết hai đại thần trên để bịt đầu mối. Đêm nào Lê Uy Mục cũng uống rượu dâm dật với cung nhân, sau đó sai giết chết họ. Quyền hành trong triều rơi vào tay bọn hoạn quan và dòng họ ngoại của vua. Phía Đông thì làng Hoa Lăng, quê của Nguyễn Kính Phi, phía Tây là làng Nhân Mục, quê của Trần Hoàng hậu, phía Bắc thì làng Phù Chẩn, quê của Chiêu Nhân thái hậu. Bọn này cậy thế ra sức cướp bóc của cải vàng bạc, bức hại bách tính và quan viên chống lại. Các thân vương dòng họ Lê bị dò xét và bị giết bất cứ lúc nào. Kinh Vương Lê Kiện là chú của Lê Uy Mục chạy trốn biệt tích. Giản Tu công Lê Oanh, con của Kiến Vương bị giam vào ngục may trốn thoát. Ai cũng nơm nớp thấy rằng bản thân nguy cấp đến nơi. Tháng 11 năm 1509, Giản Tu công Lê Oanh từ Lam Kinh đem quân về Đông Kinh, chiếm kinh thành, buộc Lê Uy Mục tự sát ngày 1-12-1510.
Sau khi bắt được Lê Uy Mục, Lê Oanh lên ngôi vào năm 1509, niên hiệu Hồng Thuận. Bấy giờ bách tính đói khổ nổi dậy chống lại triều đình. Năm 1511 có người ở làng Quang Bị, Bất Bạt, Sơn Tây là Trần Tuân nổi dậy gây chấn động và chiếm cứ Sơn Tây. Lê Tương Dực sai Mỹ Huệ Hầu Trịnh Duy Sản đánh dẹp, diệt được Trần Tuân. Trịnh Duy Sản nhờ công lao đó được phong Nguyên Quận Công.
Nhưng rồi Lê Tương Dực lại sa vào vết xe đổ của Lê Uy Mục, lao vào ăn chơi sa đọa dâm dật. Để ăn chơi, Lê Tương Dực sai Vũ Như Tô xây dựng điện 100 nóc, xây Cửu trùng đài hao tốn tiền của, chết không biết bao nhiêu sinh mạng. Lê Tương Dực bỏ bê việc nước, suốt ngày du ngoạn Hồ Tây. Bách tính khổ cực lại nổi lên theo Trần Cảo phản loạn. Thanh thế Trần Cao bao trùm cả một vùng Hải Dương, Đông Triều, Thủy Đường, Thủy Nguyên. Trần Cảo xưng là Đế Thích, quân số hàng vạn. Lê Tương Dực thân chinh cầm quân nhưng không dẹp được. Trần Cảo vẫn ngang nhiên đóng tổng hành dinh ở Vạn Kiếp. Trịnh Duy Sản can ngăn sự sa đọa của Lê Tương Dực, Dực không nghe còn bắt Sản ra đánh bằng roi. Trịnh Duy Sản căm hận, cùng Thái sư Lê Quảng Độ lật đổ và giết chết Lê Tương Dực ngày 7 tháng 4 năm 1516. Trịnh Duy Sản đưa Lê Y lên ngôi, đó là Lê Chiêu Tông.
Trong khi triều đình Đông Kinh rối ren, thay ngôi đổi chủ thì ở miền đất phía Đông, một triều đình của quân khởi nghĩa do Trần Cảo đứng đầu ngày một lớn mạnh, phát triển. Khắp miền Hải Dương, An Bang (Quảng Ninh) tràn ngập quân được gọi là quân “Tam Đóa”, họ cạo trọc đầu nhưng vẫn để ba chỏm tóc với những lá cờ vàng chữ đỏ “Thiên Ứng” rợp trời rợp đất. Quý tộc, hào trưởng các vùng này nằm im thin thít, quan lại bỏ chạy, Thế lực nhà Lê Sơ ở các vùng này rạp xuống như cỏ trong cơn bão táp. Tại hành doanh của “ Thiên Ứng” Trần Cảo ở Vạn Kiếp doanh trại san sát, cờ quạt rợp trời, quân đi rầm rập suốt ngày đêm. Dòng sông Lục Đầu Giang, sông Kinh Thầy vẫn ngày đêm tuôn nước ra biển như bờm ngựa phi trong gió. Trong tổng hành dinh, Trần Cảo mặc áo đen, giáp đen, mũ đâu mâu đen đang ngồi họp bàn với các tướng lĩnh. Trần Cảo ngồi ghế chủ, đối diện là các tướng Phan Ất, Đình Ngạn, Đình Nghệ, Công Uẩn, Đinh Bảo, Đoàn Bố. Trần Cảo nói:
-Xin mời các tướng quân cạn chén.
Các tướng đồng thanh đáp:
-Đa tạ Thiên Ứng chúa công.
Trần Cảo và các tướng nâng bát uống một hơi dài rồi đặt bát xuống. Trần Cảo hỏi:
-Phan Ất tướng quân, tình hình Hải Dương và An Bang thế nào?
Phan Ất đáp:
-Dạ, bẩm chúa công, quân ta đã hoàn toàn làm chủ Thủy Đường, An Bang, Hải Dương. Bọn quan quân nhà Lê đã tháo chạy về Đông Kinh, quân ta đã lên đến vài vạn người.
Đang khi đó có thám mã từ Đông Kinh về báo:
-Dạ bẩm chúa công, ở Đông Kinh có biến.
Trần Cảo vội hỏi:
-Có biến gì, nói mau?
-Dạ, bẩm chúa công, đại thần Trịnh Duy Sản can ngăn Lê Tương Dực không nên sa đọa, Lê Tương Dực không nghe còn lôi Trịnh Duy Sản ra đánh roi. Trịnh Duy Sản oán hận đã cùng Thái sư Lê Quảng Độ giết chết Lê Tương Dực, đưa Lê Y lên ngai vàng, tức là Lê Chiêu Tông, năm nay mới 16 tuổi.
Trần Cảo nói:
- Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông oanh liệt hiển hách một thời, sao bây giờ con cháu đổ đốn cực độ như vậy. Thằng Lê Uy Mục được dân gian gọi là vua quỷ, đến Lê Tương Dực được gọi là vua lợn, chết cũng đáng đời.
Đang khi đó lại có thám mã từ Đông Kinh về báo:
-Dạ, bẩm chúa công, Đại thần Nguyễn Hoằng Dụ là phe cánh, chỗ dựa của Lê Tương Dực. Nay Lê Tương Dực chết, Hoằng Dụ đã kéo quân về Tây Đô, Đông Kinh chỉ còn lại quân của Trịnh Duy Sản thôi ạ.
Tướng Đinh Lan nói:
-Bẩm chúa công, nếu Đông Kinh chỉ còn lại quân của Trịnh Duy Sản thì không đáng kể. Mong chúa công nhân cơ hội nay dốc toàn lực chiếm Đông Kinh để hoàn thành nghiệp lớn.
Các tướng cũng đồng thanh nói:
-Phải lắm, mong chúa công tấn công Đông Kinh, đừng bỏ lỡ cơ hội.
Trần Cảo nói:
-Nói phải lắm. Các tướng sau đây nghe lệnh.
-Dạ mạt tướng chờ lệnh chúa công.
-Tướng quân Phan Ất dẫn 1 vạn quân đánh cửa Tây Đông Kinh.
-Dạ, mạt tướng tuân lệnh.
-Tướng quân Đinh Ngạn dẫn 1 vạn quân đánh cửa Nam Đông Kinh.
-Mạt tướng tuân lệnh.
-Tướng quân Đinh Nghệ dẫn 1 vạn quân đánh cửa Bắc Đông Kinh
-Dạ, mạt tướng tuân lệnh.
-Ta sẽ dẫn 1 vạn quân tiếp ứng cho các tướng ở các cửa thành.
(Còn nữa)
CVL
PGS TS Cao Văn Liên
Link nội dung: https://vanhoavaphattrien.vn/viet-nam-dien-nghia-tap-iv-tieu-thuyet-lich-su-ky-1-a9930.html