Bài thơ “Chiều biên giới” của Lò Ngân Sủn rất tự nhiên, không những đẹp về hình ảnh mà còn đẹp cả giai điệu. Đặc biệt việc lựa chọn thời gian buổi chiều để thể hiện tâm trạng là rất khéo. Buổi chiều tâm trạng con người thường lắng đọng hơn; dễ bộc lộ cảm xúc hơn; đi sâu vào lòng người hơn. Cho nên đọc xong bài thơ người ta có cảm giác rất có hậu. Dư vị vẫn còn lắng đọng, nghe như còn ngân nga, tha thiết trong lòng.
Vậy là tròn 10 năm nhà thơ Lò Ngân Sủn rời cõi tạm về trời với tổ tiên (ông dân tộc Giáy ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai sinh năm 1945 mất ngày 15 tháng 12 năm 2013. Người Giáy quan niệm thế giới gồm ba tầng: tầng trời là tốt đẹp, vinh hiển, nơi ở vĩnh hằng của tổ tiên; con người ở tầng giữa; tầng địa ngục nhốt những người xấu xa, tội lỗi). Nhớ đến ông, tôi lại nghĩ về bài thơ nổi tiếng “Chiều biên giới”. Bài thơ được Lò Ngân Sủn sáng tác năm 1980, tức là một năm sau chiến tranh biên giới năm 1979, khi đó đất nước vẫn “chưa bao giờ bình yên”. Phải nói rằng đây là bài thơ rất hay: âm điệu nhẹ nhàng, ngọt ngào, sâu lắng; hình ảnh tươi sáng, sống động, giàu cảm xúc. Bài thơ đã thể hiện được một tiếng lòng tha thiết với “đất trời quê hương”. Để rồi tiếng lòng ấy được cộng hưởng với những giai điệu mượt mà, ngọt ngào, bay bổng của nhạc sỹ Trần Chung trong một bản tình ca cùng tên đã làm lay động hàng vạn trái tim thính giả và trở thành một tuyệt phẩm đi cùng năm tháng; một sáng tác hay nhất viết về đề tài biên giới.
Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào xanh hơn
Như tiếng chim hót gọi
Như chồi non cỏ biếc
Như rừng cây của lá
Như tình yêu đôi ta.
Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào cao hơn
Như đầu sông đầu suối
Như đầu mây đầu gió
Như quê ta ngọn núi
Như đất trời biên cương.
Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào đẹp hơn
Khi mùa đào hoa nở
Khi mùa sở ra cây
Lúa lượn bậc thang mây
Mùa tỏa ngát hương bay.
Chiều biên giới em ơi
Rừng chăng dây điện sáng
Ta nghe tiếng máy gọi
Như nghe tiếng cuộc đời
Lòng ta thầm mê say
Trên nông trường lộng gió
Rộng như trời mênh mông.
Chiều biên giới em ơi
Đôi ta cùng chiến hào
Gần nhau thêm bền chí
Tình yêu là vũ khí
Giữ đất trời quê hương.
Chiều biên giới em ơi
Nghe con sông chảy xiết
Nghe con suối thác đổ
Hồn ta như ngọn gió
Thổi giữa trời quê hương.
(Theo Ngữ văn 7, tập 1, bộ sách Kết nối tri thức
với cuộc sống, NXB Giáo Dục Việt Nam 2022)
Theo mạch cảm xúc của bài thơ ta có thể nhận ra hai nội dung khá rõ. Mạch cảm xúc ở ba khổ thơ đầu là hình ảnh một dải biên cương bao la, tươi đẹp, tràn trề nhựa sống. Mạch cảm xúc thứ hai ở ba khổ thơ cuối là sự thay da đổi thịt của miền biên ải và ước nguyện cùng nhau quyết tâm giữ gìn miền biên viễn máu thịt của quê hương. Và xuyên suốt hai mạch cảm xúc, kết nối các khổ thơ với nhau là câu thơ “chiều biên giới em ơi”, được lặp đi lặp lại sáu lần và đứng ở đầu mỗi khổ thơ tựa như một điệp khúc làm cho âm điệu bài thơ trở nên ngọt ngào, thiết tha đồng thời cũng thể hiện được niềm vui say sưa, ngây ngất, tự hào của nhà thơ trước vẻ đẹp của quê hương xứ sở. Khám phá hai mạch cảm xúc ấy người ta sẽ thấy được và thêm yêu, thêm quý những vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng nơi biên viễn thiêng liêng xa xôi của Tổ quốc; càng trân trọng hơn những tấm lòng, những con người đã và đang ngày đêm xây dựng và giữ gìn nơi đất mẹ địa đầu xa xôi.
Trong mạch cảm xúc đầu tiên nhà thơ Lò Ngân Sủn đã tái hiện trong mắt người đọc một bức tranh tràn trề nhựa sống của một dải sông núi vừa bao la vừa kỳ vĩ nơi biên cương vô cùng tươi đẹp. Bức tranh gấm vóc nơi địa đầu đất nước trong buổi chiều hôm ấy được nhà thơ đón nhận và thể hiện bằng tất cả tâm hồn tươi trẻ của một tình yêu tha thiết. Nó có âm thanh trong trẻo, ngọt ngào của tiếng chim ca; có sắc màu xanh mát của chồi non, cỏ lá cây rừng; có màu xanh hy vọng tươi trẻ của lứa đôi uyên ương; có chiều cao của đầu sông, đầu suối, đầu mây, đầu gió, của ngọn núi; có vẻ đẹp quyến rũ, hút hồn của rừng đào ra hoa đang hoe sắc rực rỡ, của đồi sở đang trổ cành xanh lá xum xuê, của những thửa ruộng bậc thang mềm mại trong sắc vàng óng ả giữa mùa lúa chín đang tỏa hương thoang thoảng, uốn lượn như những con sóng bất tận từ triền đồi này vắt sang sườn non khác trải ra giữa mênh mông để nối đất bằng với trời xanh nhìn rất mãn nhãn. Bức tranh sông núi biên cương hiện lên đường bệ và tráng lệ đưa người đọc đắm chìm vào những cung bậc cảm xúc vừa tự hào, mê say vừa ngỡ ngàng, thích thú bởi cảnh vật tươi đẹp, sống động của một vùng đất trời miền biên viễn cực Bắc. Bức tranh sống động như thế đã làm cho người ta thấy vùng biên cương nơi địa đầu tổ quốc hiện lên thật gần gũi, đáng yêu chứ không phải là cái cảm giác sợ hãi bởi sự heo hút, khổ cực của một nơi mỗi khi nghĩ đến lại thấy hiện lên cái cảnh tượng của “rừng thiêng nước độc” mà chiến tranh vừa đi qua với biết bao sự tàn phá, hủy diệt. Ở mạch cảm xúc đầu tiên này ta thấy Lò Ngân Sủn như đang huy động hết các giác quan, đặc biệt là thị giác, thính giác để cảm nhận, tận hưởng những vẻ đẹp của non nước mây trời quê hương một cách rất tự nhiên như những gì vốn có chứ không hề màu mè, tô vẽ. Tài hoa của nhà thơ được thể hiện trong việc sử dụng hiệu quả các biện pháp tu từ nghệ thuật so sánh, điệp ngữ, ẩn dụ để gây ấn tượng, gợi cảm xúc và những liên tưởng thú vị trong lòng người đọc. Khổ thơ thứ nhất là một màu xanh đầy ấn tượng. Màu xanh của chồi non, của cây lá thì đã rõ nhưng màu xanh của tiếng chim hót gọi và tình yêu đôi ta thì quả là sáng tạo. Cách nói ví von của nhà thơ như vậy đã làm cho hình ảnh thơ chuyển đổi từ cảm nhận bằng mắt thường sang cảm nhận bằng những cảm xúc của nội tâm bởi những hình ảnh rất siêu thực. Màu xanh của tiếng chim không chỉ cho thấy những giọt âm thanh trong veo mà còn gợi lên sức sống tươi trẻ; màu xanh của tình yêu đôi ta không chỉ diễn tả sự luyến ái của lứa đôi mà còn gợi lên một sức sống mạnh mẽ, trường tồn trên miền non thiêng. Những hình ảnh thơ như thế cứ vừa thực vừa mơ. Nó sống động, cụ thể nhưng cũng vô cùng lãng mạn, nên thơ. Khổ thơ thứ hai là không gian biên cương với chiều cao lồng lộng của nơi đỉnh núi đầu sông. Vẫn là nghệ thuật so sánh, điệp ngữ như ở khổ thơ đầu nhưng nó cụ thể hơn để diễn tả và nhấn mạnh những cảm nhận trực giác của nhà thơ trước các hiện tượng tự nhiên. Hẳn là ai đã một lần đặt chân lên vùng non xanh nước biếc nơi biên ải cực Bắc sẽ thấu cảm và yêu thích cái kỳ vĩ trên cao của một vùng non sông đất nước. Ở nơi ấy có “núi cao rồi lại núi cao trập trùng”, có “núi ấp ôm mây mây ấp núi”, có “con sông Hồng chảy vào đất Việt” … Cái hay của những phép tu từ này là không chỉ miêu tả một cách thuần túy để gợi tả, gây ấn tượng cho người đọc về cảnh vật tự nhiên của ngọn núi, dòng sông, con suối, đám mây, ngọn gió ở trên cao mà còn ẩn chứa cả một niềm tự hào, yêu thích về cái vùng biên cương trên ngút ngàn núi non cao vút của quê hương bản quán Lò Ngân Sủn. Khổ thơ thứ ba là ấn tượng về vẻ đẹp của hương, hoa và cảnh sắc của đất trời, cây lá nơi chốn biên thùy. Trong khổ thơ này nhà thơ không còn phép tu từ so sánh nữa, chỉ sử dụng một biện pháp tu từ điệp ngữ để nhấn mạnh vẻ đẹp của đất trời biên giới được thay màu áo mới theo hương sắc tiết trời bốn mùa. Mùa xuân hoa đào đỏ rực trải ra mênh mang đất trời cùng màu xanh chồi non, lộc biếc của rừng sở ra cây. Mùa thu bản làng no ấm hiện lên với màu lúa chín vàng nhấp nhô như sóng lượn giữa mênh mông trên khắp các sườn non. Mùa nào thức ấy ngào ngạt hương hoa tỏa ra thơm ngát núi sông khiến bao người phải ngẩn ngơ, say lòng, mê mẩn. Đất trời cảnh vật tươi đẹp như thế bảo sao cưỡng lòng không yêu không mến cho được. Đặc biệt, xuyên suốt mạch cảm xúc đầu tiên nhà thơ người Giáy còn rất khéo léo sử dụng một câu hỏi tu từ bằng cách lặp lại ba lần ở phần đầu các khổ thơ để nhấn mạnh và khẳng định cái vẻ đẹp kỳ vĩ, đa sắc của non nước quê mình: “Chiều biên giới em ơi/ Có nơi nào xanh hơn”, “Chiều biên giới em ơi/ Có nơi nào cao hơn”, “Chiều biên giới em ơi/ Có nơi nào đẹp hơn”. Sử dụng nghệ thuật điệp ngữ kết hợp với biện pháp câu hỏi tu từ như thế phải chăng Lò Ngân Sủn đang muốn tuyệt đối hóa vẻ đẹp của quê hương. Cái sự tuyệt đối hóa ấy nếu không xuất phát từ tình yêu bản làng, tình yêu đất nước thì làm sao có thể có được những câu thơ viết về chiều biên giới hay đến thế, đẹp đến như vậy. Tình yêu bản làng quê hương, nói rộng ra là lòng yêu Tổ quốc chẳng phải là bắt nguồn từ những cái gần gũi nhất với mỗi con người đó sao? Dù không trực tiếp tuyên bố như nhà văn người Nga I-li-a Ê-ren-bua: “Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh... Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc” nhưng ý thơ của Lò Ngân Sủn phải chăng cũng đã thể hiện rất rõ tư tưởng ấy.
Khép lại bài thơ là mạch cảm xúc thứ hai với một tâm trạng đầy hứng khởi trước sự thay da đổi thịt của “đất trời quê hương” cùng với một ước nguyện chân thành được cùng nhau giữ gìn, bảo vệ sông núi biên giới cương của quê hương yêu dấu. Nếu như ở mạch cảm xúc ban đầu cảm hứng chủ yếu là ca ngợi quê hương thì ở mạch cảm xúc này người ta sẽ thấy ngoài cảm hứng chủ đạo vốn có còn có cảm hứng về tình yêu lứa đôi. Theo mạch cảm hứng chủ đạo thì sự quan sát thế giới tự nhiên của nhà thơ được chuyển sang thế giới của sự sống với những đổi thay từng ngày trong niềm vui khôn xiết của nhân vật trữ tình. Còn mạch cảm xúc của “tình yêu đôi ta” cũng rất đặc biệt. Ở đó người ta thấy tình yêu lứa đôi gắn liền với tình yêu đất nước. Bởi thế bản tình ca “Chiều biên giới” không chỉ đơn giản là khúc hát yêu thương mà còn có vẻ đẹp hùng tráng phảng phất sắc màu của sử thi. Trong khổ thơ thứ tư Lò Ngân Sủn sử dùng bút pháp tả thực kết hợp với nghệ thuật nhân hóa (tiếng máy gọi), so sánh (như nghe tiếng cuộc đời, rộng như trời mênh mông) để thể hiện sự thay đổi của cuộc sống ở một vùng biên sau những tháng ngày bị chiến tranh tàn phá. Không còn cảnh đổ nát, hoang tàn nữa. Giờ đây ánh điện đã tỏa sáng khắp núi rừng, tiếng máy nổ vang rộn giữa nông trường lộng gió. Nhà thơ không liệt kê nhiều sự vật để miêu tả, chỉ chọn một hình ảnh ánh điện và một âm thanh tiếng máy để thể hiện. Chỉ cần thế là đủ. Ánh điện và tiếng máy đã cho người đọc thấy được một cuộc thay da đổi thịt theo hướng cơ khí hóa, điện khí hóa đang làm cho diện mạo cuộc sống của đồng bào vùng biên có những bước chuyển mình không nhỏ; khác hẳn với cuộc sống còn đầy tăm tối, lạc hậu hay sự đổ nát bởi những tàn phá nặng nề của súng đạn. Trực tiếp được chứng kiến những đổi thay của bản làng, của vùng cao cực Bắc quê hương như thế nhà thơ không khỏi sung sướng, say mê trong một niềm vui bất tận. Khổ thơ thứ năm là vẻ đẹp sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Nó là một minh chứng về sức mạnh của dân tộc. Một chủ đề khá quen thuộc trong thơ ca giai đoạn trước đó: tình yêu lứa đôi hòa trong tình yêu đất nước. Chúng ta phải đặt bài thơ vào thời điểm ra đời thì mới hiểu rõ hơn ý nghĩa của câu thơ “Tình yêu là vũ khí/ Giữ đất trời quê hương”. Như chúng ta đã biết, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc bắt đầu từ ngày 17 tháng 2 năm 1979 tưởng như đã kết thúc vào ngày 16 tháng 3 năm 1979 nhưng thực tế phải chục năm sau mới chấm dứt. Thời điểm năm 1980 dọc biên giới phía Bắc của đất nước chưa hề bình yên. Kẻ thù vẫn rình rập nã pháo và gây chiến tranh ở Hà Giang, nhất là giai đoạn 1984 đến 1989. Chúng ta vẫn phải đổ bao xương máu để bảo vệ từng thước đất của cha ông. Bởi thế trong niềm vui quê hương được thay da đổi thịt với cuộc sống ấm no hạnh phúc thì chúng ta vẫn không thể mất cảnh giác với kẻ thù. Càng yêu quê hương bao nhiêu nhà thơ càng thấy trách nghiệm của mình với đất nước bấy nhiêu. Cho nên ý thơ của Lò Ngân Sủn là một câu khẳng định thà quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Tình yêu đôi lứa đã hóa thành vũ khí để bảo vệ đất trời quê hương. Lời thơ thật hào sảng, đẹp đẽ nối tiếp được mạch nguồn của dân tộc mà trước đó đã không ít nhà thơ thể hiện được rất sâu sắc “Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông/ Đến lúc tột cùng là dòng huyết chảy” (Xuân Diệu) hay “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên Đất Nước muôn đời...” (Nguyễn Khoa Điềm). Khổ thơ cuối cùng Lò Ngân Sủn trở lại và thả hồn vào đất trời sông núi để lắng nghe những âm thanh diệu kỳ của quê hương xứ sở. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật tu từ điệp ngữ (nghe con sông, nghe con suối) so sánh (hồn ta như ngọn gió) để thể hiện cái cao cả, hùng vĩ của cái nơi đầu nguồn “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt” cùng với cái mát lành, phóng khoáng nên thơ của quê hương Lào Cai, nơi phiên dậu đất nước. Ta nghe giữa rừng chiều, trong tiếng con sông, con suối; trong gió ngàn reo giữa núi đồi bao la âm vang của một tiếng lòng tha thiết, rạo rực, sâu nặng ân tình. Khổ thơ khép lại nhưng âm vang của bản tình ca vẫn như lan theo dòng nước đi khắp mọi miền, tỏa theo ngọn gió bay đi muôn phương.
Bài thơ “Chiều biên giới” của Lò Ngân Sủn rất tự nhiên, không những đẹp về hình ảnh mà còn đẹp cả giai điệu. Đặc biệt việc lựa chọn thời gian buổi chiều để thể hiện tâm trạng là rất khéo. Buổi chiều tâm trạng con người thường lắng đọng hơn; dễ bộc lộ cảm xúc hơn; đi sâu vào lòng người hơn. Cho nên đọc xong bài thơ người ta có cảm giác rất có hậu. Dư vị vẫn còn lắng đọng, nghe như còn ngân nga, tha thiết trong lòng. Và cái dư vị ấy đã góp phần thức dậy ở mỗi người đọc một tình yêu tha thiết đối với quê nhà, đặc biệt là vùng biên giới thiêng liêng của đất nước. Cái sức hấp dẫn và lôi cuốn ở bài thơ là vậy. Nhà thơ người Giáy đã rung lên những tiếng ca ngọt ngào nhất để ngân vang trong lòng người những giai điệu thiết tha, tự hào, yêu mến về một chốn biên thùy xa xôi của đất nước. Cứ như thế bài thơ đã trở thành “một phần trong dòng chảy lịch sử của đất nước” và trong lòng người yêu thơ sẽ mãi còn một “Chiều biên giới”.