MỖI NGÀY 3 BẢN NHẠC DỄ NGHE ĐẲNG CẤP THẾ GIỚI - NGÀY THỨ TƯ
Thời gian giãn cách dài, hãy nghe nhạc để giải tỏa sự căng thẳng, tiếp thêm năng lượng cho bản thân. Mỗi ngày chúng tôi chọn giới thiệu 3 bản nhạc quốc tế thịnh hành, bao gồm Video biểu diễn và bản giới thiệu tóm tắt từng bản nhạc. Hãy nghe: L’amour est blue (Tình xanh), Tombe la neige (Tuyết rơi), Katyusha, các bạn sẽ thấy tinh thần sảng khoái, yêu đời hơn.
1. L’amour est blue - Love is blue (Tình yêu mầu xanh)
L'amour est bleu (Tên tiếng Anh: Love is blue, tạm dịch: Tình yêu màu xanh) là một bài hát trữ tình lãng mạn được sáng tác bởi André Popp, và lời bài hát được viết bởi Pierre Cour vào năm 1967, Sau này Brian Blackburn đã viết lời bài hát bằng tiếng Anh. Bài hát lần đầu tiên được thực hiện bằng tiếng Pháp do ca sĩ người Luxembourg Vicky Leandros trình bày trong Eurovision Song Contest 1967, bài hát này đã trở nên nổi tiếng và được nhạc trưởng người Pháp là Paul Mauriat trình diễn và nhanh chóng được công chúng yêu thích, nhất là những giai điệu không lời của bài hát này.
Lời bài hát mô tả một cách tinh tế và trữ tình về những niềm vui và nỗi đau của tình yêu hòa quyện trong những lời ca mang đầy màu sắc (màu xanh và màu xám) cùng với các yếu tố (nước và gió). Lời bài hát tiếng Anh (Blue, màu xanh, thế giới của tôi là màu xanh...) tập trung chỉ về màu sắc (xanh, xám, đỏ, xanh lá cây, và màu đen), vận dụng chúng một cách tinh tế để mô tả tâm trạng của một tình yêu đã bị đánh mất. Phiên bản tiếng Anh bởi Vicky Leandros cũng được trình diễn rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Vương quốc Anh.
2. Tombe la neige (Tuyết rơi)
"Tombe la neige" (1963) là một bài hát tiếng Pháp, được nhạc sĩ / ca sĩ người Bỉ gốc Ý Salvatore Adamo sáng tác và thể hiện lần đầu vào năm 1963. Mặc dù nhận được những lời khuyến cáo của nhà sản xuất là nên phát hành bản nhạc này vào mùa đông nhưng Adamo vẫn cho ra mắt vào mùa hè năm 1963. Nó nhận được thành công lớn trên bình diện quốc tế và trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất của ông. Với thành công lớn từ bản tiếng Pháp, Adamo cũng chuyển thể bài hát này sang một số phiên bản ngôn ngữ khác. Bản nhạc này được nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt với tên gọi Tuyết rơi và ca sĩ Ngọc Lan là người trình bày thành công nhất.
Salvatore Adamo là một ca sĩ và nhà soạn nhạc, người được biết đến với những bản ballad lãng mạn. Adamo sinh ngày 1 tháng 11 năm 1943 tại Comiso, Sicily, Ý và sống ở Bỉ từ năm 3 tuổi, đó là lý do tại sao anh có hai quốc tịch. Kể từ năm 2001, Adamo giữ danh hiệu cao quý Ridder của Bỉ, tương tự như tước hiệu tiếng Anh là "Hiệp sĩ".
Amado lần đầu tiên nổi tiếng khắp châu Âu và sau đó là ở Trung Đông, Mỹ Latinh, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Ông đã bán được hơn 80 triệu album và 20 triệu đĩa đơn, khiến ông trở thành một trong những nhạc sĩ thành công nhất về mặt thương mại trên thế giới. Amado chủ yếu biểu diễn bằng tiếng Pháp, nhưng cũng đã hát bằng tiếng Ý, Hà Lan, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ. "Tombe la neige", "La nuit" và "Inch'Allah" vẫn là những bài hát nổi tiếng nhất của ông. Amado hiện là nhạc sĩ người Bỉ có đĩa bán chạy nhất mọi thời đại.
3. Katyusha - Paul Mauriat (1965)
Katyusha (tiếng Nga: Катюша, thường được ghi trong tiếng Việt là Kachiusa) là bài hát nổi tiếng của Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc và là một trong những bài hát lừng danh nhất nước Nga.
Bài hát nói về 1 người con gái chờ đợi người yêu của mình, khi đó đang phục vụ trong quân đội. Bài hát được Matvei Isaakovich Blanter phổ nhạc 27/11/1938 và được Mikhail Vasilyevich Isakovsky viết lời. Katyusha được nữ ca sĩ nổi tiếng Lidiya Ruslanova biểu diễn đầu tiên.
Một vài nhà phê bình cho rằng bài hát Katyusha không phải là tác phẩm của Blanter, do giai điệu tương tự như vậy đã được Igor Fyodorovich Stravinsky sử dụng trong vở opera Mavra của ông vào năm 1922, và sau đó nó được ông sửa lại để đưa vào vở Chanson Russe vào năm 1937.
Bài hát Katyusha với ngôn từ êm dịu bắt nguồn từ tên phái nữ Ekaterina. Ở Nga, nhiều tên người còn có tên thân mật ngoài tên chính thức, ví dụ tên thân mật của Natalia là Natasha, tên thân mật cao hơn nữa là Natashenka. Trong trường hợp của Ekaterina, Katya là tên thân mật còn Katyusha là tên thân mật cao hơn.
Bài hát Nga này còn tạo cảm hứng để người Nga đặt tên cho các dàn phóng tên lửa của mình là Katyusha BM-8, BM-13 và BM-31, được sản xuất và trang bị cho Hồng quân Xô viết trong Chiến tranh thế giới thứ hai 1939-1945.
Paul Mauriat (4 tháng 3 năm 1925 – 3 tháng 11 năm 2006)- Nhạc trưởng người Pháp
Ông sinh tại Marseille, lớn lên ở thủ đô Paris, lúc bốn tuổi ông bắt đầu chơi nhạc và lúc mười tuổi đã ghi danh vào Nhạc viện Paris nhưng với thời gian vào năm mười bảy tuổi ông bắt đầu yêu thích nhạc jazz và nhạc phổ thông. Trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ 2, ông thành lập ban nhạc khiêu vũ và bắt đầu chỉ huy dàn nhạc của riêng ông lưu diễn khắp châu Âu. Trong thập kỷ 1950, ông trở thành giám đốc âm nhạc và đi lưu diễn với ít nhất hai ca sĩ nổi tiếng người Pháp là Charles Aznavour và Maurice Chevalier.
Người ta biết đến ông nhiều nhất sau khi bản phối khí L'Amour est bleu ("Love Is Blue") (do André Popp soạn) của ông năm 1968 đứng đầu bảng xếp hạng của Hoa Kỳ. Paul Mauriat cùng dàn nhạc của ông rất được yêu thích ở Nhật Bản và Hàn Quốc.
Mauriat sáng tác nhạc cho một số bộ phim Pháp (cũng được phát hành cùng hãng Bel-Air), bao gồm Un Taxi Pour Tobrouk (1961), Horace 62 (1962) và Faites Sauter La Banque (1964).
Ông viết ca khúc đầu tay cùng với André Pascal. Năm 1958, họ đạt giải thưởng le Coq d'or de la Chanson Française cùng với bản Rendez-vous au Lavandou. Dưới nghệ danh Del Roma, Mauriat đã có bản hit quốc tế đầu tiên là Chariot, được ông viết cùng với những người bạn Frank Pourcel (cùng sáng tác), Jacques Plante (người viết lời) và Raymond Lefèvre (chỉ huy dàn nhạc). Tại Mỹ, ca khúc được thu âm dưới cái tên "I will follow him" bởi Little Peggy March và đã đứng vị trí số 1 tại bảng xếp hạng Billboard hot 100 trong 3 tuần năm 1963. Năm 1992, ca khúc gây chú ý khi xuất hiện trong bộ phim Sister Act có Whoopi Goldberg tham gia diễn xuất. Gần đây, Eminem có dùng 1 trích đoạn của bài hát vào ca khúc của mình mang tên Guilty Conscience.
Giai đoạn 1967 đến 1972, ông viết nhiều ca khúc cùng với André Pascal cho Mireille Mathieu. Một số như Mon Crédo (bán được 1,335,000), Viens dans ma rue, La première étoile, Géant... và đóng góp vào 130 ca khúc cho Charles Aznavour.
Năm 1965, Mauriat thành lập dàn nhạc đại hòa tấu của mình (Le Grand Orchestra de Paul Mauriat) và phát hành hàng trăm bản thu cũng như các tuyển tập cùng hãng Philips trong 28 năm tiếp theo. Năm 1994, ông ký hợp đồng với công ty thu âm Nhật Bản Pony Canyon, ông đã thu âm lại những bản hit hay nhất cũng như viết các sáng tác mới. Ông ghi âm nhiều album tại cả Paris và London, ông cũng sử dụng sáng tác của một số nhạc sỹ cổ điển Anh trong các bản thu này.
Vào cuối năm 1967, ông thu lại ca khúc "L’amour est bleu" ("Love Is Blue") của André Popp/Pierre Cour. Sang năm 1968, bản này đã trở thành bản hit số 1 ở Hoa Kỳ với 5 tuần ở vị trí số 1 trên các bảng xếp hạng. Hai single khác của ông cũng xuất hiện trên các bảng xếp hạng Hoa Kỳ - "Love in Every Room/Même si tu revenais" (thu âm năm 1965; leo lên bảng xếp hạng năm 1968) và bản nhạc phim trong bộ phim "Chitty, Chitty, Bang, Bang". "Love is blue" là bản nhạc duy nhất giữ vị trí quán quân bảng xếp hạng âm nhạc Mỹ mà lại được thu âm ở Pháp và cũng là bản nhạc không lời hiếm hoi giành được vị trí này (sau bản hit "Telstar" của Tornados năm 1962. Thành công của bản nhạc cũng như của album chứa bản nhạc này (Blooming Hits) đã khiến Mauriat trở thành một ngôi sao quốc tế.
Năm 1969, ông bắt đầu chuyến lưu diễn đầu tiên của mình cùng dàn nhạc đại hòa tấu đến các quốc gia như Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brazil và các nước Mỹ Latin khác.
Năm năm 70 và 80, ông phát hành tất cả các album thể hiện lòng tôn kính cội nguồn âm nhạc của mình. "Paul Mauriat joue Chopin", "Classics in the Air" (volumes 1,2,3) gồm các bản nhạc cổ điển như "Grande valse brillante" của Chopin, "Toccata và Fugue in D Minor" của Bach, Canon của Pachelbel, đánh dấu bước chuyển mình của Mauriat.
Paul Mauriat được biết đến rộng rãi ở Nhật từ đầu thập niên 70. Ông là nghệ sĩ nước ngoài duy nhất có 2 buổi biểu diễn cháy vé trong cùng 1 ngày tại nhà hát nổi tiếng Nippon Budokan ở Tokyo.
Trong các thập kỷ tiếp theo, một số sáng tác của ông được dùng trong các chương trình truyền hình và phim ngắn ở Soviet chẳng hạn bộ phim hoạt hình Polygon (1977), "Thế giới động vật" (V Mire zhivotnykh) và "Kinopanorama".
Mauriat nghỉ biểu diễn năm 1998. Ông có buổi biểu diễn cuối cùng mang tên "Buổi hòa nhạc chia tay" (Sayonara concert) tại Osaka Nhật Bản, nhưng dàn nhạc của ông tiếp tục lưu diễn vòng quanh thế giới. Nhạc công piano cũ của ông là Giles Gambus tiếp tục chỉ huy dàn nhạc vào năm 2000 và có những chuyến lưu diễn thành công ở Nhật, Trung Quốc và Nga. Gambus đã làm việc cùng Mauriat trong hơn 25 năm. Vào năm 2005, nhạc sỹ cổ điển Pháp Jean-Jacques Justafré chỉ huy dàn nhạc trong chuyến lưu diễn tại Nhật Bản và Hàn Quốc.
Ông được trao giải Grand Prix (giải thưởng lớn) từ ngành công nghiệp ghi âm Pháp. Năm 1997, ông giành giải Commandeur des Arts et des Lettres của Bộ Văn hóa Pháp. Ông đã bán được hơn 40 triệu album trên toàn thế giới và tổ chức 28 tour lưu diễn tại Nhật Bản 1969-1998.
Paul Mauriat mất tại Perpignan, thọ 81 tuổi. Sau khi Mauriat qua đời, dàn nhạc đại hòa tấu giải thể.
(Tổng hợp từ nhiều nguồn trên Internet)