• 0904 894 444
  • thukybientap@gmail.com
  • Tìm kiếm
  • thukybientap@gmail.com
  • 0904 894 444
TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN
  • Thời cuộc
    • Xây dựng Đảng
  • Văn hóa - Xã hội
    • Văn hóa đương đại
    • Văn hóa cổ truyền
    • Di sản
    • Tác phẩm – tác giả
    • Xã hội
    • Người nổi tiếng
    • Làm đẹp
  • Phát triển
    • Dân trí
    • Đời sống và phát triển
    • Khoa học – Công nghệ - Môi trường
    • Vui cười
    • Ẩm thực
    • Nghiên cứu
      • Bài viết
      • Công trình
    • Nông nghiệp - Nông thôn
      • Nông nghiệp và môi trường
      • Nông nghiệp sáng tạo
      • Nông nghiệp công nghệ cao
  • Diễn đàn
    • Mạn đàm
    • Sự kiện
  • Video
  • Video
  • Ảnh
  • Infographic
  • Emagazine
TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN
  • Thời cuộc
    • Xây dựng Đảng
  • Văn hóa - Xã hội
    • Văn hóa đương đại
    • Văn hóa cổ truyền
    • Di sản
    • Tác phẩm – tác giả
    • Xã hội
    • Người nổi tiếng
    • Làm đẹp
  • Phát triển
    • Dân trí
    • Đời sống và phát triển
    • Khoa học – Công nghệ - Môi trường
    • Vui cười
    • Ẩm thực
    • Nghiên cứu
      • Bài viết
      • Công trình
    • Nông nghiệp - Nông thôn
      • Nông nghiệp và môi trường
      • Nông nghiệp sáng tạo
      • Nông nghiệp công nghệ cao
  • Diễn đàn
    • Mạn đàm
    • Sự kiện
  • Video
    • Video
    • Ảnh
    • Infographic
    • eMagazine
  • Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh
  • Đại tướng Võ Nguyên Giáp Đại tướng Võ Nguyên Giáp sống mãi trong lòng nhân dân!
  • GS. AHLĐ Vũ Khiêu, một tấm gương lao động không ngừng nghỉ
  • GS. Đào Duy Anh từ chí sĩ cách mạng yêu nước đến học giả lỗi lạc
Thứ 6, ngày 16 tháng 8, 2019, 8:36:21 Chiều
Quốc Khánh 2/9
img

Nghiên cứu

Cổng làng, một mảnh hồn quê gây thương nhớ

  • Phan Anh
  • 17:00 15/02/2023

Cổng làng, xưa kia có chức năng đảm bảo an ninh cho cộng đồng thì bây giờ chủ yếu nghiêng về khía cạnh bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa, lịch sử của một thời đã qua. Giờ đây nó được ví von là một mảnh hồn quê gây thương nhớ.

Cái mảnh hồn quê gây thương nhớ ấy một thời từng là “biên giới” của bên trong và bên ngoài như lời bài thơ của Phạm Lưu Vũ, từng được nhạc sỹ Trọng Đài phổ nhạc trong bộ phim “Gia phả của đất”: “bên trong là thanh bình/ bên ngoài là thiên hạ”, “bên trong là ký ức/ bên ngoài là tha phương”, “bên ngoài là ra đi/ bên trong là ở lại”… Và, bao đời nay, ở nông thôn Việt Nam, nhất là đồng bằng Bắc Bộ, hình ảnh cổng làng cùng với cây đa, giếng nước, mái đình đã làm thành bộ tứ để hình thành nên hồn cốt của mỗi làng quê. Có thể nói không ngoa, cái cổng làng của mỗi làng quê ấy; dù sang trọng, tôn nghiêm hay giản dị, mộc mạc thì từ trong thực tế cuộc sống vật chất hay tinh thần cũng đã gắn bó, tri kỷ với mỗi thành viên của cộng đồng làng kể từ tuổi ấu thơ cho đến khi phải trở về với cát bụi. Còn với những ai phải tha hương, cái “cổng làng neo ở giữa/ trong, ngoài thế gian” ấy không chỉ hiện lên như một biểu tượng đẹp đẽ đầy tự hào của người xa xứ mỗi khi nhớ về cái nơi chôn nhau cắt rốn mà còn là một bóng hình của cố hương gắn với biết bao nỗi niềm, kỷ niệm chẳng thể nào phôi phai. Cái mảnh hồn quê thương nhớ ấy cứ mãi náu nương, neo đậu trong tâm hồn những kẻ ly hương tựa như “nỗi nhớ chìm trong thớ đá/ ghim vào muôn kiếp cỏ cây”, đằm sâu trong ký ức của biết bao người.                 

cong-lang-mong-phu-son-tay-1676454622.JPGCổng làng Mông Phụ (Sơn Tây)                                          
 

Với người Việt, văn hóa làng là đặc điểm nổi bật. Mỗi làng Việt là một đơn vị tụ cư của những người dân chủ yếu trong cùng địa vực nhất định. Bởi thế cái làng ấy giống như một ngôi nhà chung của một cộng đồng dân cư cùng chung sống với nhau trên cùng một không gian địa lý. Và lẽ dĩ nhiên kiến trúc của ngôi nhà ấy phải có cổng. Chẳng thế, từ xa xưa, dân gian thường nhắc bảo nhau rằng: “nhà có nóc, làng có cổng”. Bao đời nay, thường thường làng nào chẳng có cổng. Làng có điều kiện thì làm nhiều cổng, thường là hai cái, gồm cổng tiền (trước làng) và cổng hậu (sau làng). Cổng trước làng thường hay trổ về hướng Nam, Đông Nam, Đông. Đó là những hướng đón những ngọn gió mát lành, hướng của mặt trời lên. Và lẽ dĩ nhiên, trong cái niềm tin tâm linh ấy của người xưa những hướng đó sẽ đem đến phúc lộc, bình an cho tất cả dân làng. Còn cổng hậu thường được trổ về phía Tây, hướng mặt trời lặn, tượng trưng cho sự khép lại của mọi vật. Bởi thế cổng hậu thường hay được sử dụng làm nơi đưa tiễn những người trong làng đã khuất ra ngoài nghĩa địa. Người xưa quan niệm những điều không may không được đưa ra phía trước làng. Cổng trước làng dùng để cho người trong làng ra ngoài làng đi làm ăn; dùng làm nơi tiễn trai làng ra trận để bảo vệ xứ sở quê hương hoặc dùng để đón những người con ưu tú của làng trở về, kiểu như “vinh quy bái tổ”… Thế đấy, cổng làng hình thành, phát triển cùng với quá trình dựng làng, một thời gắn liền với những niềm tin và khát vọng của cả cộng đồng trong một vai trò công năng chủ yếu là phục vụ việc phòng chống: thủy, hỏa, đạo, tặc. Cũng chính vì thế cổng làng của người Việt rất phong phú về kiểu cách, hình dáng, chất liệu. Tùy từng điều kiện về kinh tế, tự nhiên, thẩm mỹ của mỗi làng mà có những cái cổng làng khác nhau. Về hình dáng kiểu cách, cổng làng có thể làm một tầng với cái gian nhà chỉ có duy nhất một lối vào, ra. Nhưng cũng có cái cổng làng làm rất cầu kỳ theo kiểu hai tầng, tám mái như thể “thượng gia hạ môn” hoặc kiểu “vọng lâu” với nhiều cửa ra vào (có từ ba cửa trở lên) cùng các cột trụ trang trí tứ linh rất đẹp … Về chất liệu, cổng làng có cái làm bằng đá, có cái làm bằng gạch nung, có cái làm bằng gạch đá ong … Tất cả, theo năm tháng cùng với những nắng mưa, cùng với những thăng trầm của lịch sử, cổng làng có cái còn khá nguyên vẹn, thâm trầm cùng những rêu phong. Nhưng cũng có làng không còn giữ được cái cổng cổ xưa của cha ông tạo dựng. Và cũng có cổng làng song tồn cùng sự xâm thực của thế giới thảo mộc tạo thành những “kỳ quan” khiến người qua không khỏi mê mẩn. Nhưng dù có khác nhau thế nào đi nữa thì mỗi cái cổng làng còn lại đến ngày nay đều rất gần gũi, thân yêu, dễ mến và gây thương nhớ với tất cả mọi người.

cong-lang-uoc-le-thanh-oai-1676454704.JPGCổng làng Ước Lễ (Thanh Oai)
 

Tuổi thơ tôi và của tất cả những ai sinh ra, lớn lên từ làng quê, hẳn đều mang trong mình biết bao kỷ niệm với những sân đình, giếng nước, gốc đa, mái chùa. Và tất nhiên có cả hình ảnh cái cổng làng của cả đôi quê nội, ngoại. Sau này lớn lên được đi nhiều nơi, đến nhiều làng, tôi càng thích thú và mê mẩn với những cổng làng của những vùng quê khác, nhất là vùng đất cổ xứ Đoài. Với tôi mỗi cái cổng làng như một câu chuyện kể sống động làm hiện lên trong trí tưởng tượng những cảm xúc đầy lý thú. Có cổng làng giản dị, mộc mạc tựa như cổng làng Mông Phụ (Sơn Tây). Nó không bề thế, cao to, uy nghi, tôn nghiêm giống như kiến trúc đình, miếu với rồng chầu, nghê trực mà chỉ đơn giản với gian nhà xây bằng tường gạch đá ong, tọa dưới tán đa cổ thụ rợp bóng, xanh mát quanh năm như để làm chỗ ngồi hóng mát cho người già, con trẻ trong mỗi buổi chiều hôm. Tuy vậy cổng ấy cũng có tuổi đời quãng chừng ngót năm trăm năm; ngày ngày âm thầm thực hiện cái việc: “Cổng làng mở rộng. Ồn ào/ Nông phu lững thững đi vào nắng mai” hay “Cổng làng vài chị gái non/ Dừng chân uể oải chờ cơn gió nồm” (Bàng Bá Lân). Cổng làng và cây đa ấy đã từng như che chở, âu yếm cho biết bao sinh linh của làng nhưng đồng thời cũng là một chứng nhân của biết bao kiếp người với những buồn vui, vất vả. Có cái cổng làng bề thế, uy nghiêm, đẹp đẽ, cầu kỳ như thể cổng làng Ước Lễ (Thanh Oai). Cổng làng Ước Lễ có cấu trúc và trang trí theo kiểu cách của kinh thành Huế với cầu cong, tường cao, hào sâu và mái cổng làm rất cầu kỳ với hai tầng, mỗi tầng có bốn mái tựa như kiểu mái đình, mái chùa; nóc mái trên cùng có đắp lưỡng long chầu nguyệt, tám góc mái có các đầu đao cong vút tỏa ra bốn bề không gian rất duyên dáng cùng những hình ảnh của rồng, cá chép, dơi bay được đắp nổi trên bề mặt cổng như thể ký thác, gửi gắm bao khát vọng, ước mơ ngàn đời của dân làng về học hành, bình an, phồn thịnh. Và cũng có những cái cổng làng rất đẹp mang dấu ấn của sự giao lưu văn hóa của các tộc người Chăm, Việt cách đây khoảng bảy trăm năm nhưng đã “hết duyên”. Nay cứ âm thầm, lặng lẽ thi gan cùng tuế nguyệt, mặc cho cỏ cây xâm thực trên thân xác phôi pha như thể cổng làng Phương Viên (Hoài Đức) nằm bên bờ đê tả Đáy. Toàn cổng là một khối đặc, xây bằng gạch, theo kiểu hình tháp giật cấp nhìn rất bề thế, vững chắc, khỏe khoắn. Cổng có ba cửa tò vò, trên có nhiều mái hình ống, uốn cong nhìn rất uyển chuyển. Cổng làng ấy vẫn còn đó nhưng “qua đường không ai hay” (Vũ Đình Liên) lâu dần trở thành phế tích chơ vơ bên bờ đê. Duyên phận hẩm hưu của cái cổng làng ấy cũng giống như số phận ăm ắp nỗi buồn của những người thợ Chăm phải ly hương theo nhà Trần khi bị bắt làm tù binh đưa về đất Bắc. Phải chăng cái bóng dáng lẻ loi, lặng lẽ, âm thầm có phần như nhẫn nại của tòa cổng ấy cũng đang phong kín biết bao tâm sự của người thợ xưa đã từng ký thác, gửi gắm những nỗi niềm nhung nhớ cố hương vào từng tầng tháp cổ nơi đất khách quê người trong nghìn trùng xa cách, giữa mênh mông biển sầu. Có cổng làng cùng cây cổ thụ nâng đỡ, nương tựa bên nhau để cùng tồn tại và vô tình để lại cho đờ những kiệt tác tựa “kỳ quan” như thể cổng làng Yên Cốc (Chương Mỹ). Ngay cả những người cao tuổi trong làng ở đây cũng chẳng biết cây đa và cái cổng có từ bao giờ. Họ chỉ biết rằng khi sinh ra thì đã thấy cây đa ôm lấy cổng làng rồi. Rễ đa buông xuống ôm chặt lấy cổng làng, giữ cho cổng làng không bị gục đổ bởi mưa nắng của thời gian. Trái lại cổng làng như đang gồng mình nâng đỡ thân đa cho khỏi bị mưa giật bão rung, trường tồn qua năm tháng. Người ta bảo thần linh ở cây đa đã che chở cho dân làng yên thân vượt qua thời chiến tranh với bao bom rơi đạn lạc. Giờ đây cái cổng ấy không chỉ là linh hồn của dân làng mà còn là một “kỳ quan” trong mắt khách thập phương.  

cong-lang-yen-coc-chuong-my-1676454778.jpgCổng làng Yên Cốc (Chương Mỹ)
 

Mỗi cái cổng làng của người xưa còn lại đến ngày nay không chỉ là niềm tự hào hãnh diện, lưu dấu tài hoa của cha ông một thủa mà còn là hồn thiêng của mỗi làng quê. Nó đã gắn bó với biết bao kiếp người qua các thế hệ. Cái cổng làng ấy đã có một thời làm nơi đầu làng chờ cha, cuối làng đón mẹ của bao tuổi thơ. Và giờ đây, bên lũy tre xanh hay dưới gốc đa già, cái cổng làng trầm mặc, rêu phong, thân thương ấy hàng ngày vẫn đang dõi theo vòng quay: sinh - trưởng - tụ - về của biết bao con người như những ngày xưa. Trong mê mải của những nghĩ suy về cổng làng, ngắm nhìn hình hài của những chiếc cổng trường tồn qua năm tháng với bao khắc nghiệt của nắng mưa gió bão, của dâu bể trần ai sao ta thấy nó hiện lên sao mà vẫn gần gũi và thân thương quá đỗi. Cổng làng cứ thế nhẫn nại, bám trụ theo thời gian. Đôi khi cứ tưởng chừng nó rất vô tri, vô giác nhưng dường như nó đang âm thầm mang trên mình cái sứ mệnh đại sứ của thời gian; kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai bằng những âm vang của ngôn ngữ kiến trúc, ngôn ngữ tạo hình và bằng cả những nét rêu phong, nham nhở, lở lói trên thân thể có vẻ như đã già nua ... Có lẽ thế nên có cũng không ít cổng làng vẫn bình yên, vững vàng, trước bao biến cố thăng trầm cùng những bão táp phong ba trong suốt dặm dài của lịch sử dựng nước và giữ nước.

Cái cổng làng một thủa yêu thương của biết bao người ấy là cả một bầu trời kỷ niệm với không ít người xa xứ. Đã có biết bao người mưu sinh khắp bốn bể chân trời nhưng mỗi khi có dịp về làng, bước thấp bước cao, khấp kha khấp khểnh chỉ muốn nhanh chóng được trông thấy cái cổng làng. Và rồi đến khi đối diện với nó trong lòng không khỏi dưng dưng, trào dâng những xúc cảm, hoài niệm của một thời niên thiếu với biết bao trò ngịch ngợm ở quanh cái cổng làng ngày xưa. Còn nữa, với những người chưa có điều kiện trở lại với quê hương thì cổng làng trong họ là cả bầu trời thương nhớ; cả một miền ký ức trong những câu chuyện kể với những người thân mỗi khi lòng sắt se nhớ về quê cũ. Và có lẽ mỗi lần như vậy cố hương trong họ lại hiện về trong những nỗi nhớ tha hương cứ đau đáu, day dứt, khắc khoải, da diết đến lạ … Những câu chuyện như thế với người thân đã nghe rồi, nghe mãi như thể “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” nhưng với họ thì vẫn tinh khôi như mới nói lần đầu. Họ cứ say sưa kể, ngất ngây như không hề thấy cũ, không hề tẻ nhạt, buồn chán.

cong-lang-phuong-vien-hoai-duc-1676454861.jpgCổng làng Phương Viên (Hoài Đức)
 

Sức sống và tình yêu với cổng làng tưởng như vô hình thế ấy nhưng thực ra rất mãnh liệt và bền chặt. Nó tựa như sợi dây quấn chặt người quê với cái nơi sinh ra và lớn lên trong suốt hành trình đi trên mặt đất. Chẳng biết có phải vì vậy mà cổng làng từ lâu đã trở thành một hình tượng thẩm mỹ của rất nhiều loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, điện ảnh và đặc biệt là hội họa. Cổng làng trong những tác phẩm nghệ thuật ấy, nếu để ý kỹ, ta cũng sẽ thấy mỗi khi xuất hiện hiếm khi phải đứng một mình. Cổng làng nếu không song hành với bóng đa, cây cầu, người dắt trâu về thì cũng là lũy tre, cây gạo, dòng mương … Tất cả những hình ảnh thân quen của chốn dân dã ấy dễ đập vào mắt ta như chạm vào cái huyệt đạo thần kinh nhạy cảm nhất, tái hiện trong lòng người xem một cách khá sinh động cái không gian văn hóa của làng cùng nhịp sống chậm chạp hay hối hả của những miền quê trong một lát cắt diệu kỳ, làm vơi đi chút nỗi nhớ nhà đối với kẻ tha phương; làm sống lại những kỷ niệm của một thời đã xa với không phải chỉ riêng của một người. Chẳng biết có phải vậy mà có không ít người xa quê, không có điều kiện trở lại quê nhà đã phải gọi điện cho người thân nhờ chụp ảnh và gửi cho mình cái cổng làng của một thời thương nhớ. Hoặc có kẻ may mắn được trở lại quê hương thì không khỏi lưu lại dáng hình của mình bên chiếc cổng làng và cất giữ tấm ảnh như một báu vật của đời.


 

 

Cổng làng Cổng làng Phương Viên Cổng làng Yên Cốc Cổng làng Ước Lễ Cổng làng Mông Phụ
  • Chia sẻ Facebook
  • Chia sẻ Twitter
  • Chia sẻ Pinterest
In
Cùng chủ đề
Những bức thư cảm ơn - Ghi nhận tấm lòng của nghệ nhân Hoàng Xuân Mai - thủ nhang Đền Rừng Cần biết
Những bức thư cảm ơn - Ghi nhận tấm lòng của nghệ nhân Hoàng Xuân Mai - thủ nhang Đền Rừng

Trong những ngày cả nước hướng về Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7, Đền Rừng (Bồ Đề, Hà Nội)...

Hà Nội: Đền Rừng và chùa Đông Các Tự trao 548 suất cơm cho bệnh nhân giữa trưa hè “đổ lửa” Cần biết
Hà Nội: Đền Rừng và chùa Đông Các Tự trao 548 suất cơm cho bệnh nhân giữa trưa hè “đổ lửa”

Ngày 3/6/2025, trong tiết trời oi nồng như muốn nung chảy từng thớ gạch ngoài sân bệnh viện, hơn 548...

Vươn lên từ bờ vực "thất truyền": Hát Dô Liệp Nghĩa Văn hóa - Xã hội
Vươn lên từ bờ vực "thất truyền": Hát Dô Liệp Nghĩa

Hát Dô là loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc của vùng Lạp Hạ, ven sông Tích (nay là...

Mới cập nhật
Du lịch cộng đồng - Mô hình hiệu quả bảo tồn và lan tỏa văn hóa dân tộc thiểu số

Du lịch cộng đồng - Mô hình hiệu quả bảo tồn và lan tỏa văn hóa dân tộc thiểu số

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), việc bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số đang trở thành nhiệm vụ cấp bách. Áp lực từ đô thị hóa nhanh, biến đổi khí hậu và nhu cầu phát triển kinh tế đặt ra thách thức lớn đối với các cộng đồng miền núi.

5 giờ trước Văn hóa đương đại

Nữ chủ xe Tây Nguyên “chốt” không do dự VinFast VF 7 vì mê kiểu dáng thể thao và cảm giác lái tuyệt vời

Nữ chủ xe Tây Nguyên “chốt” không do dự VinFast VF 7 vì mê kiểu dáng thể thao và cảm giác lái tuyệt vời

Cảm giác lái thể thao, thiết kế chất đi kèm chi phí vận hành tiết kiệm là những ưu điểm giúp VinFast VF 7 không có đối thủ trong phân khúc. Đặc biệt, tháng 12/2025 là thời điểm tốt nhất để sở hữu mẫu C-SUV Việt.

5 giờ trước Cần biết

Tinh thần Ngày toàn quốc Kháng chiến 19/12/1946 và giá trị văn hóa trường tồn của dân tộc

Tinh thần Ngày toàn quốc Kháng chiến 19/12/1946 và giá trị văn hóa trường tồn của dân tộc

Trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, có những thời khắc lịch sử không chỉ làm thay đổi vận mệnh đất nước mà còn để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống tinh thần của các thế hệ mai sau. Một trong những mốc son tiêu biểu ấy là Ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 là thời điểm toàn dân tộc đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược, mở đầu cho cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang.

5 giờ trước Diễn đàn

Diễn đàn Chuyển đổi số ngành Công Thương 2025:  Định hình tầm nhìn chuyển đổi kép đến năm 2030

Diễn đàn Chuyển đổi số ngành Công Thương 2025: Định hình tầm nhìn chuyển đổi kép đến năm 2030

Ngày 04/12, tại Hà Nội, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công thương đã tổ chức Diễn đàn Chuyển đổi số ngành Công thương năm 2025 với chủ đề “Chuyển đổi kép: Số hóa chuỗi cung ứng – Xanh hóa tăng trưởng”. Diễn đàn diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang tăng tốc ứng dụng công nghệ và thúc đẩy tăng trưởng xanh, đặt ra yêu cầu ngành Công thương phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, hiện đại hóa chuỗi giá trị và nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

8 giờ trước Phát triển

Hội CCB Phường Ô Chợ Dừa tổng kết công tác Hội năm 2025, kỷ niệm 81 năm thành lập QĐND Việt Nam

Hội CCB Phường Ô Chợ Dừa tổng kết công tác Hội năm 2025, kỷ niệm 81 năm thành lập QĐND Việt Nam

Sáng 4/12/2025, Hội Cựu chiến binh (CCB) Phường Ô Chợ Dừa tổ chức Hội nghị tổng kết công tác Hội và phong trào thi đua “CCB gương mẫu” năm 2025; đồng thời kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2025) và 36 năm Ngày thành lập Hội CCB Việt Nam (06/12/1989 – 06/12/2025).

23 giờ trước Phát triển

Văn hóa Việt Nam hướng tới tầm vóc mới: Phát động sáng tác “Sống mãi với thời gian”

Văn hóa Việt Nam hướng tới tầm vóc mới: Phát động sáng tác “Sống mãi với thời gian”

Bộ VHTTDL công bố bình chọn “50 tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn tiêu biểu sau ngày đất nước thống nhất” và phát động sáng tác giai đoạn 2026 - 2030.

1 ngày trước Phát triển

Hà Tĩnh với hành trình tri ân Đại thi hào Nguyễn Du (Bài 1): Người con ưu tú của đất Hồng Lam

Hà Tĩnh với hành trình tri ân Đại thi hào Nguyễn Du (Bài 1): Người con ưu tú của đất Hồng Lam

Nguyễn Du – Người con ưu tú của đất Hồng Lam, Danh nhân văn hóa thế giới, sẽ mãi là niềm tự hào, biểu tượng rực rỡ của trí tuệ và tâm hồn Việt Nam.

1 ngày trước Văn hóa - Xã hội

Nghệ nhân Đỗ Thị Thanh Hồi – Thanh đồng trẻ tận tâm gìn giữ và lan tỏa văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu

Nghệ nhân Đỗ Thị Thanh Hồi – Thanh đồng trẻ tận tâm gìn giữ và lan tỏa văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu

Những năm gần đây, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại – ngày càng lan tỏa sâu rộng trong đời sống người Việt. Trên dòng chảy kế thừa ấy, không chỉ những nghệ nhân “cây cao bóng cả”, mà sự góp mặt của lớp nghệ nhân trẻ mang lại sức sống mới cho không gian thực hành tín ngưỡng.

1 ngày trước Văn hóa - Xã hội

Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam phổ biến các văn bản mới về khoa học và công nghệ

Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam phổ biến các văn bản mới về khoa học và công nghệ

Sáng 4/12/2025, tại hội trường tầng 4 Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Lô D20, ngõ 19 phố Duy Tân, phường Cầu Giấy, Hà Nội), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức chương trình phổ biến các văn bản mới về khoa học và công nghệ tới các hội thành viên, Liên hiệp Hội địa phương và các tổ chức KH&CN trực thuộc.

1 ngày trước Phát triển

Những lưu ý khi thuê địa điểm đặt văn phòng đại diện từ The Sentry

Những lưu ý khi thuê địa điểm đặt văn phòng đại diện từ The Sentry

Việc thuê địa điểm đặt văn phòng đại diện là một quyết định quan trọng, ảnh hưởng lớn đến hình ảnh và hoạt động kinh doanh. Trong bài viết này The Sentry sẽ điểm lại một số lưu ý khi bạn lựa chọn đặt văn phòng đại diện cho công ty.

1 ngày trước Cần biết

BÀI ĐỌC NHIỀU
Hóc Môn - Bà Điểm: Hành trình từ vùng đất giàu lịch sử đến khu đô thị - công nghiệp năng động của TP. Hồ Chí Minh
Hóc Môn - Bà Điểm: Hành trình từ vùng đất giàu lịch sử đến khu đô thị - công nghiệp năng động của TP. Hồ Chí Minh
Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Kim Loan và sự phát triển của đạo Mẫu
Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Kim Loan và sự phát triển của đạo Mẫu
Sự tích con trâu
Sự tích con trâu
Tất tần tật về quy trình lĩnh thưởng xổ số mới nhất
Tất tần tật về quy trình lĩnh thưởng xổ số mới nhất
Công bố Hội đồng Quản lý và lãnh đạo Viện Nghiên cứu Văn hóa và Phát triển
Công bố Hội đồng Quản lý và lãnh đạo Viện Nghiên cứu Văn hóa và Phát triển
TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN

© TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN

Cơ quan chủ quản: Viện Nghiên cứu Văn hoá và Phát triển

Giấy phép hoạt động báo chí điện tử số 247/GP- BTTTT do Bộ TT&TT cấp ngày 07/5/2021 

Chủ tịch Hội đồng Biên tập: TS. Đinh Đức Thiện

Phó Chủ tịch Hội đồng Biên tập: Trần Thị Thu Thảo

Phó Tổng Biên tập: PGS. TS Phạm Hùng Việt

Phó Tổng Biên tập: Lại Đức Hồng

Tổng Thư ký Tòa soạn: Nhà báo Nguyễn Danh Hòa

Địa chỉ: Số 53 Phố Yên Lạc, Phường Vĩnh Tuy, TP. Hà Nội 

Hotline: 0915 323 789 - 0904 894 444 | Email: thukybientap@gmail.com

THÔNG TIN TÒA SOẠN - LIÊN HỆ QUẢNG CÁO