Nhà thơ cựu chiến binh Nguyễn Hồng Minh sinh năm 1948 tại Thị Cầu, tỉnh Bắc Ninh. Ông từng tham gia chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc; là sĩ quan thuộc tiểu đoàn an ninh 188 bảo vệ Trung ương Cục miền Nam; tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và chiến trường K; hiện nay sống và viết ở Hà Nội. Ông đã xuất bản 6 tập thơ riêng: Quê Hương; Hương Đất; Trăng treo bên cánh võng; Cầu vồng ký ức; Nửa vầng trăng đợi; Bến sông trăng. Rất nhiều bài thơ trong các tập thơ trên đây đã được các nhạc sĩ danh tiếng phổ nhạc và được nhiều danh ca thể hiện, tập hợp trong an-bum Khúc tình ca người lính được công chúng mến mộ.
Thơ Nguyễn Hồng Minh khá đa dạng về đề tài, có cả thơ thời sự chống tiêu cực và chống dịch Covid-19; nhưng nổi bật, phong phú, sâu sắc và ám ảnh hơn cả vẫn là những xúc cảm về chiến tranh và người chiến sĩ. Trong “Lời tác giả” mở đầu 3 tập thơ xuất bản trong năm 2022 do NXB Hội Nhà văn ấn hành (Cầu vồng ký ức; Nửa vầng trăng đợi; Bến sông trăng), nhà thơ bộc bạch: “Bản thân tôi coi thơ như khoảng lặng cuộc đời, là niềm vui, là nỗi đau, là những trăn trở khi viết về đồng đội, những chị em thanh niên xung phong đã hi sinh hoặc thương tật trong chiến tranh ác liệt tại tuyến lửa Trường Sơn và thời gian chiến đấu ở Campuchia. Thơ tôi như là sự tri ân với đồng đội sau hòa bình còn gặp nhiều vất vả trong cuộc sống đời thường…”.
Dễ dàng nhận ra trong 6 tập thơ đã xuất bản của Nguyễn Hồng Minh, thì 3 tập có tên gắn với “Trăng” là: Trăng treo bên cánh võng; Nửa vầng trăng đợi; Bến sông trăng. Trăng là thi ảnh kinh điển của thơ ca kim cổ, là nguồn cảm hứng của thi sĩ xưa nay, nhưng trăng trong thơ Nguyễn Hồng Minh là trăng chiến trận, trăng của người chiến sĩ; dẫu có thi vị như “Trăng treo bên cánh võng” thì cũng gợi nên biết bao khó khăn, gian khổ, hi sinh… của người lính và những phẩm chất cao quý của họ. Đây là những thiếu thốn về vật chất:
Đường Trường Sơn bom đạn giội trên đầu
Mưa xô người khát cháy khô cọng cỏ
Áo sờn vai, máu trộn bùn nâu đỏ
Vết chân mài nhẵn đá, vịn bóng cây
Măng đắng, sắn hoang, giang chút, tàu bay…
Xì xụp húp canh tiếng cười ran suối vắng…
(Một thời đáng nhớ)
Trong bài thơ “Ăn cháo trên rừng Trường Sơn”, tác giả nhắc lại một kỷ niệm nhớ đời. Đó là một đêm tối trời, chiến sĩ đi kiếm nước nấu cháo. Họ gặp một đoạn suối cạn:
Suối cạn trơ dòng rắc lá khô
Cát ẩm đen rêu phủ lối mờ
Đá sỏi trắng phau nhô mặt đất
Lạch nhỏ đọng bùn nước mờ dơ
Nhà thơ Nguyễn Hồng Minh và ca sĩ Thu Minh, người thể hiện thành công những ca khúc phổ thơ của ông
Và họ hồ hởi đào lên lấy cái thứ “Nước rỉ tanh mùi sắt váng dơ” để nấu cháo. Rồi khi cháo chín, lính tráng xúm lại: “Xụp xoạp húp tròn quanh bát nóng/ Mồ hôi chảy giọt miệng toét cười”. Bữa cháo tưởng là ngon tuyệt trần ngờ đâu sáng hôm sau chiến sĩ nhìn vào đáy nồi cháo mới “hoảng hồn” bởi cái mùi và cái nước còn đọng lại “Thum thủm vàng khè… nhăn lè lưỡi”.
Còn đây là những ác liệt trên đường Trường Sơn “tiếp máu” cho chiến trướng miền Nam:
Phu La Nhích một ngàn ngày bám trụ
Mười nghìn ngày bom dội đạn xuyên
Khói đen trùm mờ Cua Tay áo…
Ngầm Ta Lê cột nước trắng bùng lên
(Những bông hoa huyền thoại)
Đặc biệt là những gian lao, vất vả, hi sinh của các chiến sĩ nữ ở chiến trường:
Trung đội con gái ba bảy người
Giao lưu cùng bạn đọc trẻ trong Ngày Sách và Văn hóa đọc VN năm 3023 tại TP Bắc Giang
Tuổi trăng tròn, quê mỗi đứa một nơi
Nhà trong hang, đá nền giường ngủ
Cơm gạo mốc, rau rừng thay bữa
Chấy bu đầu, thâm sì ghẻ ngứa
Đêm chuột cắn tay bật máu khi nằm
Sốt vàng da, tóc rụng thưa lưng…
(Những bông hoa rực đỏ).
Sự có mặt của các cô gái thông tin, giao liên, quân y, thanh niên xung phong… trên chiến trường có thể làm vợi đi sự ác liệt của bom đạn, nhưng các chị em lại phải chịu đựng những thiếu thốn đến “tủi hờn”. Đó là những hi sinh thầm lặng vô bờ bến không sách vở nào ghi chép hết:
Nơi trọng điểm màu xanh không còn nữa
San hố, đắp đường, xẻ núi, lấp sông…
Bàn tay gầy chai vết tháng năm
Cơn rét rừng nước da đen xạm
Tóc rụng đầu che dưới vành khăn…
(Cô gái mở đường)
Nhưng họ vẫn là những cô gái kiên gan cất cao tiếng hát yêu đời. Tiếng hát át đi sự mất mát, hi sinh trong bom đạn kẻ thù. Tiếng hát tăng niềm tin chiến thắng. Nhà thơ đã viết khá nhiều về điều đó: Câu hát quan họ; Lời ví dặm; Tiếng hát trong hang đá; Anh hát em nghe giữa thành phố mang tên Bác Hồ; Người đàn bà hát, Đêm Trường Sơn nghe em hát.... Nhất là tiếng hát của các cô gái đồng hương miền quê Quan họ:
Nghe tiếng em hát biết con gái quê mình
Chẳng lẫn vào đâu giọng nói Bắc Ninh
Đêm Trường Sơn ánh đèn dầu leo lét
Kinh Bắc quê mình, người đã khéo lại…xinh
(Đêm Trường Sơn nghe em hát)
Cùng đồng đội trở lại dinh Độc Lập 48 năm sau, ngày 30-4-2023 (Nguyễn Hồng Minh đứng hàng trước, thứ 5 từ phải sang trái)
Ở chiến trường, sự thiếu thốn không chỉ về vật chất mà còn là sự thiếu thốn về tinh thần: “Ở Trường Sơn bom đạn nổ chói lòa/ Thèm giọng nói đồng hương nơi xa vắng” (Đêm Trường Sơn nghe em hát). Và người lính thèm nhất là được nhận thư nhà của người thân yêu viết gửi. Thư từ là điều riêng tư thầm kín, nhưng vào chiến trường những riêng tư ấy trở thành tình cảm chung tất cả. Buồn vui cùng chung chia sẻ bởi người lính rất thiếu thốn tình cảm với hậu phương quê nhà: “Nhận thư người bạn gái phương xa/ Chia niềm vui, ai cũng mừng rơi lệ/ Nét chữ quê chuyển hơi tay ấm thế/ Đạn bom gầm không át nổi lời ca…”(Một thời đáng nhớ).
“Đạn bom gầm không át nổi lời ca…” bởi người lính luôn lạc quan yêu đời. Phẩm chất ấy góp phần dựng nên hình tượng “kính chào anh con người đẹp nhất” (thơ Tố hữu). Họ lạc quan đối mặt với cái chết: “Ran tiếng nói cười hàng quân lao phía trước/ Quầng khói đen Thành Cổ có chúng tôi” (Chúng tôi vào Thành Cổ). “Đồng đội cười nghiêng ngả đêm nay/ Mai vào trận biết ai còn ai mất/ Những người lính hồn nhiên chân chất/ Có khi lần này nghe em hát nữa thôi” (Đêm Trường Sơn nghe em hát). Điều gì khiến người lính chịu đựng và chấp nhận sự hi sinh với tâm trạng bình thản và lạc quan như vậy? Đó là lòng yêu nước, là tình thần chính nghĩa, là niềm tin ở phía quê nhà. Nơi đó có mẹ chờ con, vợ chờ chồng, người yêu chờ anh với “nỗi khát khao cháy bỏng cuối trời”. Với người chiens sĩ, trước hết để làm nên chiến thắng, phải kể đến động lực của hậu phương, của quê hương, nơi có gia đình, làng xóm…
Anh nói với em về quê hương anh
Nơi sông Thương hẹn sáu dòng Cửa Lục
Con nước về thuyền ken đông đúc
Gọi cá bày giăng lưới, buông câu.
(Quê hương)
Quê hương trong thơ Nguyễn Hồng Minh luôn có những hình dung cụ thể về một vùng Kinh Bắc văn hiến, với những ngày hội mùa, tiếng sáo diều bay bổng không trung, mùa lúa mới thơm hương cốm; canh hát quan họ lúng liếng liền chị, liền anh… trong đêm sáng trăng bên dòng sông Cầu như giải lụa mềm:
Thăm hội mùa em chẳng quên đâu
Câu quan họ ngọt lời êm ái
Cây trúc xinh đẹp như người con gái
Nhớ nghe em’’Người ở đừng về’’
(Quê hương)
Một trong những phẩm chất cao quý của người chiến sĩ “Bộ đội Cụ Hồ” là tình đồng đội chia nhau từng viên thuốc, nhường nhau sự sống:
Sẻ chia từng ngụm nước, cọng rau
Viên sốt rét cuối cùng nhường đồng đội
Áo gấp ba lô dành tặng bạn mới
Trước bom đạn thù, giành lấy hiểm nguy
(Nén nhang tháng bảy)
Trên chiến trường gian khổ, cái chết luôn rình rập đến bất thình lình, người lính không giữ gì cho riêng mình. Tài sản của riêng từ tấm lương khô, bi đông nước, viên thuốc sốt, điếu thuốc, ấm trà… đến phong thư quê nhà… các anh đều chia sẻ: “Quầng lửa xa ì ầm đạn nổ/ Sát vào nhau điếu thuốc chung hơi/ Gói trà thơm bếp Hoàng Cầm nổi lửa/ Chuyền tay nhau bát nước ấm hơi người” (Chúng tôi vào thành cổ). Và:
Chúng tôi sắp vào trận đánh mới
Thành Cổ hoang là cối xay người
Bao bạn bè tiễn đưa không về lại
Trưa ngày mai lại đến lượt chúng tôi
(Chúng tôi vào Thành Cổ)
Phải là người được trui rèn trong lửa đạn, đã bao lần đối mặt với cái chết, được sống giữa một tập thể luôn sống chết có nhau và vì nhau… mới viết nên những câu thơ như thế. Đó là thứ tình cảm nảy sinh giữa những người cùng chiến đấu vì một mục đích, một lý tưởng, một đạo lý nhân văn:
Đi phá bom cánh tay giơ giành trước
Pháo đạn găm lấy thân mình che lửa
Sống chết nhường nhau chẳng ai nghĩ đến mình
Sau trận đánh bát đũa thiếu người
Chúng tôi bầy như bạn còn ngồi đấy
Ngôi mộ mới đất hăng mùi cỏ cháy
Hoa rừng hoang tím dại chiều tà
(Một thời đáng nhớ)
Có thể nói, cùng với sự cảm nhận tinh tế, tác giả đã quan sát và biết chọn ra những tình tiết thật tiêu biểu và ấn tượng để người đọc thấm thía được tình nghĩa đồng đội trên chiến trường. Còn gì nhói lòng hơn hình ảnh những người lính bày bát đũa cho đồng đội mình bình thường như khi họ còn sống trước trận đánh. Xây dựng được hình tượng người lính trong thơ khiến người đọc ám ảnh, qua đó hiểu thêm về một thời họ đã sống để thương yêu, trân trọng và tri ân họ, đó cũng là một thành công của tác giả.
Đi qua cuộc mấy cuộc kháng chiến cứu nước, hàng triệu đồng chí, đồng bào đã ngã xuống. Đó là cái giá của Độc lập, Tự do, Hòa bình, Thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà. Trong đêm giải phóng đầu tiên của mùa Xuân năm 1975. Mặc dù không còn tiếng súng, không còn tiếng đạn bom, nhà thơ vẫn đau đáu nghĩ về đồng đội đã không có mặt trong ngày chiến thắng:
Chúng tôi không ngủ vì nôn nao nỗi nhớ
Những cung đường đi qua, xé chớp bom tọa độ
Đất nhàu lên mờ cả mặt trăng
Xao xác lá rừng in dấu chân em
Trận đánh đầu tiên, hai đứa cùng chia lửa
Ai sống ở Trường Sơn càng hiểu mình rất rõ…
(Đêm không ngủ)
Có thể nói thơ Nguyễn Hồng Minh là thơ của một người lính đã từng qua chiến trận đau đáu nỗi niềm về cuộc đời lính trận. Đầy ắp trong 6 tập thơ đã xuất bản của ông là những bài thơ viết về cuộc đời người lính và liên quan đến chiến trường những năm tháng chiến tranh. Những kỷ niệm của thời lính gian nan một đi không trở lại hổi thúc, sống dậy, ám ảnh… khiến ông phải làm thơ như một cách tri ân cuộc đời. Thơ ông là viết cho cuộc đời, cho mọi người, cho chúng ta.
Hà Nội, 26-7-2023 - MNT
Tác giả Nguyễn Hồng Minh (cầm micro) cùng người thân và đồng nghiệp trong chương trình “Tiếng lòng tri ân” giới thiệu 3 tập thơ mới xuất bản của ông, tại trụ sở Hội Nhà văn VN (9 Nguyễn Đình Chiểu-HN) ngày 11-11-2022