Nhật ký “Lính chiến” của CCB Phạm Hữu Thậm (Kỳ 23): Một đêm mưa đẫm máu và chuyện mai táng liệt sĩ

Đặng Vương Hưng (Biên soạn và giới thiệu)

11/01/2023 08:45

Theo dõi trên

Đơn vị tôi tập kết ở Quán Canh biên chế lại và kiện toàn cán bộ: Đại đội trưởng Mậu chuyển về Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 làm Trợ lý pháo; Chính trị viên Quang lên Trung đoàn làm Chính trị viên Hậu cần.

Trung đoàn điều đồng chí Cường ở Trung đoàn 31 cánh trung về làm Đại đội trưởng C14. Anh Hùng, Trợ lý thanh niên Trung đoàn 38 về làm Chính trị viên C14. Anh Quần làm Đại đội phó 1; anh Hoành làm Đại đội phó 2; anh Tục Chính trị viên phó; Trung đội trưởng (của C14) về làm Đại đội trưởng bộ binh C2-K8; Trung đội trưởng Vọng về làm Đại đội phó C3-K9.

d1ae1-1673401319.jpg
d2ae2-1673401390.jpg
Ảnh do tác giả sưu tầm chỉ mang tính minh hoạ.

 

Quân Mỹ có 2 Tiểu đoàn số 1 và số 2 của Trung đoàn 1, Lữ đoàn 2 thuộc Sư bộ binh American 23, đóng ở Đông Bắc sông Thu Bồn cách đồn Ái Nghĩa 2000m; Tiểu đoàn Trâu điên số 2 chốt giữ đường 14 với 2 Tiểu đoàn quân Pắc Chung Hy đóng ở phía Tây Bắc đường 14, cách đông Ái Nghĩa 3000m (quân dã ngoại). Quân đồn trú trong Quận có 1 Tiểu đoàn bảo an với 6 Đại đội biệt lập, 10 Trung đội phòng vệ dân sự; một Đại đội pháo 105 có 4 khẩu; một Đại đội xe tăng 9 chiếc với 2 khẩu cối 106,7 ly; 4 súng cối 81, 61; 4 súng ĐKZ 90 và 57. Ngoài ra quân địch còn bọn nợ máu là tề điệp ác ôn rất trung thành cùng phối hợp.

Chính trị viên Hùng nói với tôi:

- Trận chiến lần này Trung đoàn đánh theo chiến thuật xung lực và hỏa lực kết hợp súng máy 12 ly 7 đưa sát hàng rào… Anh có dám bắn không?

- Tháng trước, Trung đoàn đã đánh An Hòa, Đức Dục thu được toàn thắng. Ái nghĩa là quận huyện địch tăng cường quân Mỹ và Nam Triều Tiên. Nhưng chúng tôi đã có kinh nghiệm đánh chúng rồi. Tôi xin quyết tâm chiến đấu và nhất định thắng!

Hùng vỗ vai tôi:

- Mình đồng ý, cố gắng phát huy thành tích và kinh nghiệm đợt đi địa phương.

Ngày 15/7/1971, lúc 16 giờ, đội hình hành quân của Trung đoàn do K9 đi trước rồi đến Trung đoàn bộ và các Đai đội trực thuộc; đi đoạn hậu là K7. Chúng tôi đi qua gò Phú Phong, tiến theo đường Gò Dài vượt đồi Biệt Kích, núi Chóp Nón sang Thôn 3, Thôn 4 của Lộc Tân.

Đêm sáng trăng, anh nuôi Minh bưng về xoong nước, ăn cơm xong tôi múc bát nước uống, nhưng vừa nuốt khỏi cổ họng là nôn thốc ra ngay. Sáng hôm sau tôi đi tìm hố bom để rửa mặt, khủng khiếp quá! Tôi thấy 2 xác lính ngụy chết thối rữa phập phều mép bờ. Tôi hỏi anh Minh:

- Hồi đêm múc nước ở đâu thế?

Minh bảo:

- Ở hố bom ngoài kia, ra xem thử…

Tôi ra đầm sen tắm giặt phơi quần áo, chiều chuẩn bị cơm nắm, nước bình tông, 18 giờ chúng tôi tiếp tục hành quân. K8 tối nay cũng xuất phát từ Thôn Tây Gia qua Giảng Hòa vượt sông Quảng Đợi cùng với Trung đội 1 của C14 súng 12 ly 7; Trung đội 2 súng ĐKZ, Trung đội 2 cối 82 và C13, C12 đi về phía đông quận Ái Nghĩa (thuộc hướng thứ yếu) làm công sự trận địa.

Chúng tôi qua xã Đại Minh sang Đại Cường, đến Thôn 10 vượt sông Vu Gia đoạn cuối sang Thôn 4, Thôn 5 - Ái Nghĩa tiến sát thị trấn Đại Lộc.

Trời mưa rào to. Đến một hàng rào dây thép gai, Trung đội đặc công của Đại đội 18, mọi người đều cởi trần sơn bùn từ đầu đến chân, dây lưng, lựu đạn, súng AK ngồi dựa bờ ghềnh, rét run cầm cập.

23 giờ đêm 16/7/1971, chúng tôi đến một ruộng ớt phía tây nam Thị trấn Đại Lộc. Đại đội trưởng Cường bảo tôi:

- Mục tiêu bắn là khu nhà sĩ quan, khu trại lính, khu kho và nhà chỉ huy.

Điện sáng nhìn rõ mọi nơi, khi giá súng 12 ly 7 xong lại có lệnh khiêng súng lên phía trước 100m. Đây là bãi tha ma có nhiều gò mả, chúng tôi lợi dụng gò mả làm vật che đỡ. Súng máy đại lên do Hải làm Tiểu đội trưởng, Tuấn làm xạ thủ, đặt chếch bên phải, cách súng 12 ly 7 100m. Súng trung liên của Beng đặt bên trái súng 12 ly 7 cách 50m, cùng khẩu súng cối 82 và súng ĐKZ của C12 và C13.

Bộ binh K7 có 2 Đại đội bố trí 2 bên cùng Đại đội 4 hỏa lực, có 2 súng cối 82, 4 súng máy đại liên, 4 súng B41, 4 trung liên RPĐ; còn 1 Đại đội bộ binh làm dự bị.

23 giờ đêm cùng ngày, trời vẫn mưa. Lệnh nổ súng, 3 quả pháo sáng xanh, đỏ, vàng phụt lên làm hiệu lệnh. Súng ĐKZ của 3 hướng phát hỏa trước, các loại hỏa lực của ta ba bề bốn bên bắn vào. Đạn nổ, đạn bay như mưa sa bão táp, sấm rền, trống trận.

Trong thị trấn người kêu kẻ khóc, quân binh nhốn nháo, lửa cháy rực trời. Sau 15 phút, tôi bắn hết 3 thùng đạn 12 ly 7. Quân ngụy củng cố lực lượng, dùng hỏa lực ĐK90, ĐK57, cối 81, cối 61, súng 12 ly 7, súng đại liên, đạn M72, đạn M79 từ ba phía bắn ra. Pháo ở các trận địa Núi Lở, Núi Quế, Hòa Cầm bắn trần chung quanh. 6 chiếc trực thăng UH1 bay lên bắn xối xả quanh Quận Ái Nghĩa. Chiếc C130 bắn đạn 20 ly và bắn đèn sáng; chiếc L19 lượn lờ trên cao kêu gọi quân giải phóng đầu hàng.

Tuấn, xạ thủ súng máy đại liên bị thương vỡ vai không chiến đấu được. Đạn địch nổ đằng trước, đằng sau, mé phải, mé trái. Súng máy từ trong đồn bắn ra, đạn đan chéo nhau, những dòng lửa đỏ bay ngang mặt, chúng tôi không ngóc đầu lên được.

Thấy không có lợi cho ta, bởi hầm hố không có, quân ta phơi mình hứng đạn địch, một vài đồng chí ở các khẩu đội ĐKZ, 12 ly 7, cối đã hy sinh hoặc bị thương; Trung đội phó Hoàn cho khẩu đại liên rút. Đại đội trưởng Cường bảo Trung đội trưởng Hóa đưa thương binh ra trước rồi lệnh rút lui.

Hóa bảo tôi:

- Mày thao tác nhanh thì vác 3 cái chân, thằng Hùng xạ thủ số 2 vác thân súng đi trước.

Tôi đang gập chân súng thì một dòng lửa đạn súng máy bay trên đầu. Tôi nằm ép xuống gò mả, nhìn phía trước thấy Beng nằm ngửa tênh hênh, súng trung liên chỏng chơ trên gò mả, 3 xạ thủ nằm dán người xuống đất.

Súng đại liên địch thay băng, tôi chớp thời cơ ghé vai vào 3 chân súng đội hẳn lên chạy đến một xóm trại ở giữa đồng thì gặp Lương Tiểu đội phó chạy ra. Lương bảo tôi: “Tưởng anh chết rồi lo quá”. Rồi ghé vai vác giúp về chỗ Trung đội.

Lúc này đã 1 giờ đêm rạng 17/7/1971, tôi vào nhà dân đứng trú mưa thấy 2 du kích từ ngoài đi vào, đèn pin soi thộc vào giường nằm. Trên giường có một thiếu phụ một con nít. Du kích quát:

- Chồng mi đi mô?

- Dạ, chồng tôi dô ấp từ hồi hôm ạ.

Một du kích thò tay vào giật dây chuyền ở cổ thiếu phụ và tuốt nhẫn, du kích kia lục tủ kiếm đồ.

Thấy vậy, tôi quát:

- Tụi mi như quân Ngụy, hành động với dân như thế này gọi là quân cướp, đâu có phải đi làm Cách mạng.

Hai du kích lủi mất. Tôi đến nhà thứ 2 thì bọn Hóa ngồi cả đấy. Tôi cởi gùi lấy dây băng đạn 12 ly 7 bắn hết để khi chạy cho nhẹ. Tôi ra vườn ở ngoài ngõ thấy A phó Lương, A trưởng Hải và Hùng xạ thủ số 2 đang đào trận địa súng máy 12 ly 7. Tôi bảo Hùng vào nhà nghỉ để tôi đào tiếp.

Trời mưa sấm chớp lẫn tiếng pháo cối nổ. Nghe tiếng Hóa gọi, tôi tưởng gọi vào trú mưa liền bỏ xẻng đi vào. Trong nhà tối om, mái nhà bay đi một mảng lớn. Tôi giẫm chân vào Hùng - Chính trị viên, nằm bên bàn giữa nhà, mọi người chui hết xuống hầm vì cối pháo địch bắn dữ quá. Tôi đến cửa hầm thì lại đá vào anh nuôi Minh, nằm chắn trên miệng hầm. Tôi xuống cửa hầm ngồi. Hải và Lương không còn chỗ trú ẩn nằm chúi dưới gầm bàn thờ.

Phía trên cửa hầm, máu của Minh chảy xối vào vai bên phải tôi nóng hổi. Phía bên trong, Đại đội trưởng Cường đầu vỡ toác cấm khẩu, ngồi dựa hầm ặt cổ vào vai bên trái tôi. Máu tuôn như thọc huyết heo làm cho cả quần áo tôi nhuộm máu đồng đội, từ màu xanh chuyển thành màu đỏ. Trong hầm, xạ thủ số một phụ là Kiền bị lòi một đống ruột, y tá Luật đang băng bó cứu chữa.

Để sẵn sàng chiến đấu, tôi vọt lên chui vào gầm bàn thờ với Hải, sờ túi định lấy thuốc rê hút. Nhưng ôi thôi! Máu đồng đội đã trộn với thuốc dê ướt nhè. Tôi vứt túi thuốc bảo Hải vấn cho một điều, hít hơi thuốc cho êm ả đỡ tanh rồi chùi tay vào bờ vách. Sờ túi cơm vắt ở thắt lưng, nhưng máu đã trộn với cơm đùm. Tôi ném cơm ra ngoài, chùi tay vào màn gió bảo Lương bẻ cho một miếng cơm. Cơm còn ngậm trong miệng mà đã ngủ rồi.

Bỗng giật mình nghe tiếng Hóa bảo tôi chạy sang chỗ khẩu đại liên báo anh Hoàn rút. Tôi ra đầu nhà thì dòng lửa đạn súng máy của địch từ trong đồn bắn ra, bay ngang tầm mặt chắn lối. Tôi bò sát mặt đất qua được chỗ Hoàn. Lúc ấy Hải cũng chạy theo, nhưng thấy dòng lửa đạn khiếp quá phải quay lại. Lúc này là 5 giờ sáng 17/7/1971.

Khẩu đội Đại liên chạy tắt cánh đồng về phía tây nam để vào làng. Tôi chạy ra phía khẩu đội 12 ly 7 thì mọi người đã chạy ra giữa cánh đồng tạm bỏ tử sĩ còn thương binh thì dìu dắt nhau đi được, người khỏe thì mang súng.

Trong xóm không còn ai, cái gùi của tôi và dây băng đạn bỏ quên ở hiên nhà, tôi quay lại định lấy thì xe tăng và quân ngụy đã vào được xóm. Súng bắn như mưa, trời lại sáng rõ, quân ngụy nhìn thấy tôi giữa cánh đồng; đạn M79 bắn theo. Tôi cứ chạy vào Thôn 3 sang Thôn 4.

Trung đoàn bộ đóng ở đó, có phẫu quân y cho thương binh vào điều trị. Số còn lại lúc này là Trung đội phó Hoàn, Tiểu đội trưởng Hải, Tiểu đội phó Lương, anh Trí, anh Thân, Bính và tôi là xạ thủ súng máy. Tất cả chỉ còn 7 người, hi sinh và bị thương 13.

Quân số còn ít mang vác không hết, anh Hoàn bảo đem chôn súng 12 ly 7 rồi đem súng máy đại liên, trung liên, B41 ra đầu làng phía đông đào trận địa, địch vào thì đánh. Cử người trực chiến, canh gác, thay nhau ngủ lấy lại sức.

Tôi ra con kênh ngoài làng định tắm giặt, thấy trực thăng, tàu già quần lượn lại phải quay vào.

Anh Hoàn bắt 2 con gà, một trống một mái bảo tôi nấu nước làm thịt, vặt cà xáo rồi quấn mấy dây thuốc lá khô cho vào gùi. Phía trước là cánh đồng, cách 100m là một xóm chừng 5-6 nóc nhà, có vườn cây ăn trái. Ngoài bờ sông Thu Bồn về phía Đông – Nam đang có một Đại đội quân Mỹ.

Anh Hoàn cử tôi, Hải, Lương đem súng trung liên, B41, AK, sang đầu xóm bên kia chiến địa thế đánh địch. Anh Trí ở trong nhà; anh Hoàn và Thân, Bính ở trận địa Đại liên bắn chi viện.

Chúng tôi tìm được hầm của dân ở vườn giáp ruộng, bố trí giãn cách 50m một người, thay nhau gác và ngủ.

13 giờ chiều 17/7/1971, Hải thông báo: Quân Mỹ vào đấy!

Tôi ngó đầu lên quan sát, thấy cối cá nhân, đạn M79, M72, súng máy 2 khẩu địch đang bắn vào xóm. Chúng tôi nằm im trong hầm đợi quân Mỹ đến cách 70 và 30m. Khẩu trung liên RPĐ của Lương rung lên, đón giữa đội hình hàng dọc; quân Mỹ ngã nhào xuống ruộng nước ngập bùn. Hải bắn AK, một số tên nằm vạ bên bờ ruộng.

Tôi ném liền 2 quả lựu đạn rồi vác súng B41 bắn vào mục tiêu chỉ huy ở Gò Đống làm chết một số và phá hủy khẩu cối 61 của địch.

Súng máy đại liên do xạ thủ Thân bắn chéo cánh sẻ, tạt vào Sườn và phía sau quân Mỹ. Ở một gò đống gần bờ sông có 2 khẩu cối 81 và 2 súng máy đại liên của Mỹ bắn vào làng, cách chỗ tôi 150m.

Tôi tì súng vào thành công sự ngắm chính xác, bắn một quả đạn B41 bay trên đầu quân Mỹ đang tấn công rơi giữa gò Đống. Chúng bỏ chạy toán loạn, quân Mỹ ở dọc đường đang tiến lên sợ quá co giò chạy quay lại; còn một quả đạn M90 của Mỹ, tôi vác lên vai ngắm bắn vào ổ đề kháng.

Lúc này đạn dược cũng gần hết, Hải ra lệnh, chạy thôi!

Chúng tôi về tuyến sau cụm ở trận địa Đại liên, bổ sung đạn dược. Quân Mỹ mải thu dọn chiến trường cũng không dám tiến công nữa. 15 giờ chiều 17/7/1971, truyền đạt của Trung đoàn mang lệnh đến, yêu cầu Đại đội 14 cử người vào khu chiến làm công tác tử sĩ.

Anh Hoàn cử tôi, anh Trí, Hải, Lương, Thân. Chúng tôi mang theo súng AK và Trung liên, 2 quả đạn M72; đến Thôn 3 trời vẫn mưa ngồi ở rìa Làng. Tôi bảo Hải, còn sớm, ban ngày vượt cánh đồng đến xóm trại cách đồn chỉ 300m dễ bị địch phát hiện và hy sinh.

Chúng tôi vấn thuốc hút, từ đầu làng phía Đông – Bắc, quân vệ binh của Trung đoàn và một số cán bộ cơ quan trên các ban ùn cả đến. Vệ binh, đặc công, trinh sát mũi súng AK, B40 hướng về phía trước, người đi khom giật lùi về phía sau. Có người nói, xe tăng và bộ binh quân Pắc Chung Hy đã vào đầu làng phía Bắc. Đạn bắn như mưa, 2 Tiểu đoàn quân Pắc Chung Hy, 1 Tiểu đoàn quân ngụy, 1 Đại đội xe tăng chín chiếc M113, chia làm 3 mũi đánh vào Thôn 3, Thôn 2.

Nghe vậy, tôi kêu mấy người chạy, nhảy xuống cánh đồng thuốc, ớt. Tiếng quân Nam Triều la, quân ngụy hét, đạn bay vèo vèo trên đầu tiếng kêu chiu chíu. Chúng tôi có người phải bỏ cả gùi, bỏ xẻng dây lưng để kịp chạy. Tôi bị tụt dép dưới bùn, cố chết chúi xuống mò rồi chạy nhanh vào Thôn 4. Mọi người mệt thở ra mồm, ra tai, nằm ngửa ở bờ tre thở hắt ra.

Ăn tối xong, lúc 19 giờ cùng ngày, liên lạc của trên lại đưa lệnh đến yêu cầu đi làm công tác tử sĩ. Thân cáo ốm không đi, Bính cũng sợ không đi trừ khi bố sống lại. Còn 5 người chúng tôi mang xẻng cuốc, vũ khí trang bị từ Thôn 4 sang Thôn 3, đêm tối đường vắng lặng. Anh Hoàn vác súng Ak đi trước, giãn cách mỗi người 5 - 6m. Gần tới xóm, anh Hoàn với Lương bò vào kiểm tra; không động tĩnh gì Lương ra hiệu chúng tôi tiếp cận. Anh Hoàn xách súng đi dạo và nghe ngóng.

Hải và Lương đào hố chôn vào ngay công sự súng 12 ly 7. Tôi và anh Trí vào nhà, cái gùi của tôi bị bọn địch vứt ra sân cùng với thùng băng đạn bị bánh xích xe tăng nghiền tan nát, dây băng đạn súng 12ly7 bị kéo dài ra ngõ. Thấy một xác chết nằm ngay dưới sân trước nhà, tôi với anh Trí định khiêng. Anh Hoàn đến ngăn lại, bảo “khoan đã” rồi thò tay lùa dưới xác chết kiểm tra lấy quả lựu đạn US Mỹ. Anh nắm chặt mỏ vịt ra gốc chuối, tước dây chuối buộc chặt vứt vào xó. Xác đấy là Minh anh nuôi, địch kéo từ miệng hầm trong nhà vứt ra.

Sau tìm đến Chính trị viên Hùng, anh Hoàn lại vào kiểm tra không có gì. tôi và anh Trí khiêng 2 liệt sĩ ra hố, rồi quay vào hầm tìm Đại đội trưởng Cường.

Tôi bảo anh Trí:

- Đại đội trưởng Cường lúc hy sinh ngồi ở ngay cửa hầm bước lên đó.

- Tối quá, chả nhìn thấy gì – Trí thì thầm.

Tôi thò tay vào khua, sờ thấy một thi thể không có đầu, bóp vào chỗ cổ thì thấy nát nát, dính dính. Anh trí đưa bật lửa vào miệng hầm thử nháy lên, một bàn tay thòi ra, đây rồi.

Hai chúng tôi khiêng xác anh Cường ra sân. Không có đầu là do quân địch ném lựu đạn làm sập miệng hầm và bay mất đầu. Lúc chúng tôi khiêng kéo đi, hơi cổ họng phì ra kêu òng ọc, đã có mùi thối.

Đưa 3 thi thể liệt sĩ xuống hố, tôi lại quay vào tìm Kiền xạ thủ số 1 súng 12 ly 7 nằm trong hầm. Tôi bảo anh Trí vào xem sao, anh sợ không vào. Tôi lấy bật lửa chui vào soi cũng không thấy. Tôi bảo mọi người:

- Chắc Kiền chưa chết, quân địch bắt sống rồi.

Lương bảo:

- Vậy chúng ta an táng thôi, làm nhanh còn về.

Mới lấp được vài xẻng đất, anh Hoàn đi lại khẽ nói:

- Các cậu ra xem, ở sau vườn ấy.

Tôi và anh Trí ra đến hố, nháy bật nửa soi thì thấy một xác người mất nửa đầu, có thể liệt sĩ đã bị bọn địch chém, nên chỉ còn như cái gáo múc nước.

Thu xếp cho 4 người nằm chung một hố xong đâu đấy, chúng tôi cắt ôm lá chuối đậy lại, vĩnh biệt đồng đội chúng tôi đi!

Nhưng khi vừa ra đến đầu vượn, tiếng súng Ak của anh Hoàn đã nổ dồn dập. Chúng tôi nhảy đại ra bờ ruộng. Quân ngụy đã vào xóm chạm súng ùn cả lại.

Anh Hoàn vừa bắn, vừa lùi lại chỗ chúng tôi. Hải bắn một quả đạn M72. Lương đặt súng RPD lên bờ ruộng bắn liên tiếp. Anh Hoàn hô chạy.

Quân ngụy vào xóm bắn theo, đạn bay toang toác trên đầu, hai quả đạn M79 của địch bay vượt chúng tôi nổ trước mặt. Kệ, cứ chạy thoát đã.

Chúng tôi về đến khu tập kết lúc 24 giờ đêm rạng ngày 18/7/1971.

Anh Hoàn tìm đến Trung đoàn bộ báo cáo công tác tử sĩ.

Chính ủy Cần hỏi:

- Có đồ niệm cho anh em không?

- Chúng tôi đi vội vàng, nên không có đồ niệm ạ.

Chính ủy Trung đoan lắc đầu, nói:

- Đồng chí sang đội Quân y, phẫu của Trung đoàn lấy vải niệm đi làm lại. Đồng chí mình hy sinh, chôn sấp dập ngửa, mai táng trần tổn thương lắm.

- Báo cáo Thủ trưởng, chúng tôi làm vừa xong thì quân ngụy tập kích vào xóm; chúng tôi đã chiến đấu, giờ qua đó thì khác gì ôm rơm đi chữa cháy, sẽ bị chết hết.

- Vậy yêu cầu các đồng chí đi bám nắm địch. Đợi khi chúng rút thì phải vào làm lại, chôn cất các liệt sĩ cho chu đáo!

Trung đoàn trưởng Cảo gọi Tham mưu trưởng Tấn đến và lệnh:

- Điều 1 Trung đội vệ binh vũ khí đầy đủ đi bảo vệ, 1 Tiểu đội trinh sát đi bám nắm địch. Tiến hành khẩn trương không trời sáng.

Đang ngủ say vì mệt, anh Hoàn lay tôi dậy bảo:

- Đi làm công tác tử sĩ lại!

Tôi nghĩ phen này khéo chết không có chỗ chôn vì mắt đang xưng đỏ do hôm nọ bị anh Hoàn vô tình ném hòn bùn vào.

Anh Trí kêu chân đau không đi nữa, Thân và Bính cũng không đi. Tôi mà không đi nữa thì hết người làm.

1 giờ đêm rạng ngày 18/7/1971, Trung đội vệ binh của C3, K9 trang bị đầy đủ, cùng 6 đồng trí trinh sát của Trung đoàn đến để cùng đi…

May quá, bọn địch đã rút. Vì có đông người, nên chúng tôi làm lại thủ tục chôn cất các liệt sĩ cũng nhanh, đến 3 giờ 30 phút sáng thì xong.

Trên đường về, chúng tôi vào nghỉ nhờ ở một nhà dân. Đang ăn lạc luộc thì Trung đội 1 và Trung đội 3 do Đại đội phó Quần và Đại đội phó Hoành chỉ huy từ hướng Đông và Bắc rút về đây.

Có một cáng thương, anh Xong bị mảng pháo phạt mất miếng mông. Anh Hoàn nói với Đại phó Hoành:

- Trung đội 2 thương vong mất 16 người, súng 12 ly 7 không có người mang, nên giao súng cho Trung đội 1 và 3.

Chúng tôi phải mang thêm súng máy đại liên, trung liên, B41, AK, M79. Đại đội về đến bờ sông, anh Xong mất máu nhiều nên đã hy sinh.

Chúng tôi phải dừng lại và mai táng tại chỗ.

Qua sông thì mờ sáng, chúng tôi về đến Phú Mỹ lúc 10 giờ trưa ngày 18/7/1971. Phía sau, đội hình của Trung đoàn còn dài chưa lên hết Thôn 10 của Đại Cường.

4 chiếc trực thăng UH1 bay đến bắn chặn các nẻo đường; 4 chiếc AH1 đổ quân xuống cánh đồng giữa Thôn 10 và Thôn 9 chặn đường rút của ta. Các đơn vị mới đến Thôn 10. Tiểu đoàn 8 bị cắt đuôi liền cùng Đại đội cối 82 cắt đường về Ô Gia Nam.

Đến Thôn 3 Lộc Tân lúc 14 giờ 30 phút ngày 18/7/1971, tôi nhảy xuống đầm sen tắm gội, ngụp lặn, giặt quần áo cho hết máu. Đành cởi truồng, ngồi trong bụi chờ quần áo khô rồi về ăn cơm chiều.

Ngày 19/7/1971, 10 giờ trưa tôi về đến cửa danh Khe Dèn ở xóm Lộc Đại, Thôn 5, Lộc Sơn. Các Trung đội triển khai làm hầm; đi lấy gạo, đạn chuẩn bị cho trận đánh tiếp.

(Còn nữa)

Trái tim người lính

____