
1- Đoạn đê bao chống lũ do dân công toàn huyện Từ Liêm đến đắp xong trong năm 1965. Dải đê xưa từ cầu Trung Hoà vòng phía đông bắc, cả phía bắc làng Giàn, qua rìa làng Mễ Trì Thượng ôm vòng quanh đài phát thanh Mễ Trì... đến tận QL6 Hà Đông xưa. Một đoạn đê cong cong hình chữ L này nằm phía tây Làng Giàn, 54 năm sau đã được đặt tên mới: Phố Tú Mỡ, có độ dài 900m. Đoạn từ ngã ba giao cắt phố Mạc Thái Tông tại ô đất C12, đến ngã ba giao cắt đường Phạm Hùng cạnh siêu thị BigC Thăng long. Được đặt biển ngày 26/1/2019, thuộc phường Trung Hoà, quận Cầu giấy thành phố Hà Nội ta.
2- Thuở bé cho tới 1995 bàn chân tôi đã lặn lội khu vực này để bắt cua, be bờ tát cá, tát nước, cào cỏ thu hoạch các vụ chiêm mùa, đâm nhớ rất rõ, thấy sự thay đổi chóng mặt từ khi Làng vào Phường năm 1997. Ban đầu hai bên là các cánh đồng (Phía nam trong bờ đê: Tràng Eo, Tràng, Chuôm, Ngo, mùa mưa bão hay úng ngập, gặt lúa mò chuyển lên thuyền, bè nứa rõ cực). Phía bắc bờ đê là Thái Hồi, Bờ Nền, Táo, Nhội, dễ thoát nước. Cổng Mả đầm xưa là gần đúng điểm giữa khúc cong đê bao, xuôi về phía Mễ Trì độ 300m là quán Đầu Eo (có tên gọi khác là quán Bù nền) ngày xưa.

Từ nhà số 1 đến số 7 Tú Mỡ: bên trong đê ngày xưa là sân kho HTX, để tập kết lúa về suốt, ô tô thu mua lợn nghĩa vụ, chở nứa về chẻ tăm hương. Bên ngoài là cánh đồng Thái hồi chuyên gieo mạ tập trung, tiện tháo nước xuống dải hố đê chạy dài nuôi vịt đàn của mấy hộ dân. Khu này nhiều mồ mả của các gia đình chôn ngay phần ruộng tư hữu thời xưa. Ngã từ Nguyễn Chánh - Tú Mỡ xưa có trận địa pháo 57mm yểm trợ cho 2 trận địa pháo cao xạ 100mm địa điểm xưa nay ở đầu cầu cống Mọc và cầu 361. Hãy hình dung Làng Giàn xưa kia là ốc đảo, với dải đê dài hàng km uốn quanh giữa các cánh đồng liên xã (Trung Hoà, Nhân Chính, Trung Văn, Mễ Trì, Yên Hoà).
3- Giờ dọc phố Tú Mỡ có sân vận động và sân bóng cho nhân dân “tiêu mỡ”. Nhìn đoạn mương kè đá (nước đen ngòm, không biết sẽ chảy thoát về đâu?) hay là “Dòng nước ngược” hài ở chỗ cả ba nơi được đặt biển cùng ngày, báo mạng đăng 2 ảnh thôi, ảnh phố Tú Mỡ do người làng Giàn chụp ngày đặt biển. Ban đầu phía tây toàn ruộng lúa khu Thái hồi gieo mạ tập trung và cánh đồng khu Bồ Nền, bây giờ ối nhà cao tầng của phố Đinh Núp, trường Lương Thế Vinh.

4- Còn nhà riêng Cụ Tú Mỡ sát Công an huyện Từ Liêm xưa, cách Cầu Giấy vài trăm mét trên đường Láng. Ngày xưa đi học qua nhà Cụ Tú Mỡ, ngắm hoài nhà đẹp, vườn đẹp. Cũng là một kỷ niệm đẹp của thời học sinh. Bây giờ khi mở đường vành đai 2 Bưởi- Cầu Giấy- Ngã Tư Sở- Ngã Tư Vọng thập kỷ 1990 làm vẹt cả khu vườn đầu nhà. Khu nhà còn lại nay lọt thỏm bên trái Viện kỹ thuật GTVT, chỉ người gốc làng Láng, Cót, Giàn, Cầu Giấy xưa mới nhận ra. Tôi vẽ tranh theo trí nhớ (Cháu gái nội của Thi sỹ làm dâu nhà chú Lan Tại, nhà cùng ngõ 148 Trần Duy Hưng chúng tôi đang ở đấy).
5- Theo Wikipedia :
Tú Mỡ, tên thật: Hồ Trọng Hiếu, là một nhà thơ trào phúng Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu văn học, thì với gần nửa thế kỷ cầm bút bền bỉ, ông đã có những đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của thơ ca, đặc biệt về mặt thơ trào phúng, thời nào ông cũng là bậc thầy. Sinh: 14 tháng 3, 1900, Hà Nội - Mất: 3 tháng 7, 1976, Hà Nội. Tác phẩm chính của nhà thơ gồm:
+ Thơ Dòng nước ngược: tập 1 (Đời Nay xuất bản, Hà Nội, 1934), tập 2 (Đời Nay xuất bản, Hà Nội, 1941); Nụ cười kháng chiến (1952); Anh hùng vô tận (1952); Nụ cười chính nghĩa (1958); Bút chiến đấu (1960); Đòn bút (1962); Ông và cháu (tập thơ thiếu nhi, 1970); Thơ Tú Mỡ (tập thơ tuyển, 1971).
+ Diễn ca, chèo, tuồng: Rồng nan xuống nước (tuồng, 1942); Địch vận diễn ca (diễn ca, 1949), Trung du cười chiến thắng (thơ, chèo, hát xẩm, 1953); Tấm Cám (chèo, 1955); Nhà sư giết giặc (chèo, 1955); Dân tộc vùng lên (diễn ca, 1959), vv…
+ Nghiên cứu: Bước đầu viết chèo (1952). Năm 2008, Tú Mỡ toàn tập (gồm 3 tập).
Theo Chuyện quê