Theo tư liệu từ Ban kiến đàn Đại giới đàn Pháp Loa – 2017, Thiền sư Pháp Loa, Tổ thứ hai Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, tên thật là Đồng Kiên Cương, sinh ngày mùng 7 tháng 5 năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284), quê làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ngài thiên tư đĩnh ngộ khác người, ấu thời miệng không nói lời ác, ăn không thích thịt cá.
Năm 21 tuổi, Ngài gặp Điều Ngự Giác Hoàng liền xin xuất gia. Sau đó Điều Ngự gửi Ngài thọ học với Hòa thượng Tánh Giác ở chùa Quỳnh Quán. Một hôm, nhân đọc kinh Lăng Nghiêm đến đoạn “Thất xứ trưng tâm” trong lòng chấn động, Ngài liền quay về yết kiến Điều Ngự. Thế là từ đó được hầu hạ bên cạnh Điều Ngự, ra vào đều thưa hỏi, lâu ngày càng thêm tỉnh. Ngài trình kệ, Điều Ngự dạy phải tự tham. Ngài vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, bỗng thấy bông đèn tàn rụng, chợt đại ngộ, bèn đem chỗ ngộ trình lên Điều Ngự và được ấn chứng. Từ đây, Ngài lập nguyện tu hạnh đầu đà.
Đến niên hiệu Hưng Long thứ 13 (1305), Điều Ngự đưa Ngài lên liêu Kỳ Lân cho thọ giới Tỳ kheo và giới Bồ tát. Thấy chỗ tham học của Ngài đã thành đạt, Điều Ngự ban hiệu Pháp Loa.
Năm Hưng Long thứ 15, Ngài 24 tuổi. Bấy giờ Điều Ngự trụ ở am Thiên Bảo Quan vì Ngài giảng Đại Huệ Ngữ Lục. Đến tháng 5, Điều Ngự lên ở am trên đảnh Ngọa Vân Phong. Ngày Rằm làm lễ Bố tát, sám hối tụng giới xong, Điều Ngự bảo mọi người xuống, lấy y bát và viết tâm kệ trao cho Ngài dạy khéo gìn giữ.
Ngày mùng 1 tháng Giêng năm Hưng Long thứ 16 (1308), Ngài vâng lệnh Điều Ngự làm lễ nối pháp trụ trì tại nhà Cam Lồ chùa Siêu Loại. Khai lễ có vua Anh Tông và đình thần đến dự. Điều Ngự lên đàn thuyết pháp rồi nhường chỗ cho Ngài giảng đạo. Lễ xong, Điều Ngự đặt Ngài kế thế trụ trì chùa Siêu Loại và làm chủ sơn môn Yên Tử, là đời thứ hai của phái Trúc Lâm.
Tháng 11 năm 1308 Điều Ngự tịch, Ngài phụng mạng cung nghinh xá lợi về kinh đô. Trở về núi, Ngài soạn lại những bài tụng của Điều Ngự lúc ở Thạch Thất làm thành quyển Thạch Thất Mị Ngữ.
Năm Hưng Long thứ 19 (1311), Ngài phụng chiếu tiếp tục khắc bản Đại tạng kinh, giao Thiền sư Bảo Sát làm chủ việc này. Tháng 9 năm Hưng Long thứ 21 (1313), Ngài phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang định chức cho tăng đồ. Chúng tăng từ đây mới có sổ bộ. Về sau cứ ba năm một lần độ tăng như thế.
Tháng 2, năm Đại Khánh thứ 4 (1317) đời Trần Minh Tông, Ngài bệnh nặng. Bấy giờ Ngài đem y của Điều Ngự và viết tâm kệ trao lại cho Thiền sư Huyền Quang. Đồng thời pháp khí và gậy trao cho Cảnh Ngung, phật tử trao cho Cảnh Huy, gậy tre trao cho Huệ Quán, pháp thơ và pháp cụ trao cho Huệ Nhiên, linh vàng trao cho Hải Ấn, sử vàng trao cho Huệ Chúc. Sau ít hôm, bệnh được lành.
Năm đầu Khai Hựu (1329), đời Trần Hiến Tông, Ngài mở thêm cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn làm thành danh lam thắng cảnh.
Ngày mùng 5 tháng 2, năm Khai Hựu thứ 2 (1330), Ngài phát bệnh trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm tại An Lạc tàng viện. Đến ngày 11 bệnh trở nặng. Ngày mùng 1 tháng 3, Thượng hoàng Trần Minh Tông đích thân đến thăm bệnh và gọi Thái y đến trị cho Ngài.
Đêm mùng 3, bệnh Ngài càng nặng hơn, Thiền sư Huyền Quang thưa:
- Xưa nay đến chỗ ấy, buông đi là tốt hay nắm lại là tốt?
- Thảy đều không can hệ.
Ngài Huyền Quang thưa:
- Khi thảy đều không can hệ thì thế nào?
- Tùy xứ tát-bà-ha.
Đệ tử đồng đến thỉnh: "Người xưa lúc sắp tịch đều có để kệ dạy đệ tử, sao riêng thầy không có?". Ngài quở trách họ. Giây lâu bèn ngồi dậy viết một bài kệ:
Âm:
Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn,
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian.
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,
Na biên phong nguyệt cánh man khoan.
Dịch:
Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn,
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng.
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi,
Bên kia trăng gió rộng thênh thang.
Viết xong, Ngài ném bút an nhiên thị tịch, trụ thế 47 tuổi. Đệ tử theo lời phó chúc của Ngài, đưa nhục thể nhập tháp tại Thanh Mai Sơn. Đến ngày 11 tháng 3, Thái thượng hoàng ngự bút ban hiệu Ngài là Tịnh Trí Tôn Giả, tháp tên Viên Thông và đề một bài thi vãn:
Thùy thủ trần hoàn dĩ liễu duyên,
Giác Hoàng kim lũ đắc nhân truyền.
Thanh Sơn mạn thảo quan tàng lý,
Bích thọ thâm sương xác thuế thiền.
Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt,
Hiểu mê trượng thất hữu vô yên.
Tương đầu châm giới ta phi tích,
Trác tựu ai chương thế lệ huyền.
(Đã hết duyên trần thõng tay đi,
Giác Hoàng kim tuyến được truyền y.
Thanh Sơn cỏ mọc che phần mộ,
Cây biếc trong sương để xác ve.
Đêm phủ giảng đường trăng kim cổ,
Ngày ngày trượng thất khói mờ che.
Thân mến biết bao, ôi luyến tiếc,
Nhớ công giáo hóa lệ đầy mi).
Tác phẩm của Ngài còn lưu truyền:
- Đoạn Sách Lục.
- Tham Thiền Chỉ Yếu.
- Kim Cương Đạo Tràng Đà la ni Kinh.
- Tán Pháp Hoa Kinh Khoa Số.
- Bát Nhã Tâm Kinh Khoa và một bài kệ thị tịch.
Tổ sư Pháp Loa xuất thế với một phát tích kỳ đặc, kết duyên với Phật giáo Việt Nam, kế thừa và phát triển dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, mở ra trang sử Phật sáng chói với một Giáo hội trang nghiêm, tăng già hòa hợp và một nền văn hóa Phật giáo vươn lên đến đỉnh cao nhất thời bấy giờ.
Phật giáo đời Trần bắt đầu mở ra một thời kỳ phát triển rộng khắp kể từ khi Giáo hội Trúc Lâm Yên Tử có được cánh tay hỗ trợ đắc lực của Ngài. Có thể nói, ngoài việc nối nắm tông phong, lãnh đạo Giáo hội Trúc Lâm Yên Tử do Điều Ngự ủy thác, Ngài còn hoàn thành xuất sắc các công tác phật sự quan trọng như: Tổ chức Giáo hội, in ấn Đại tạng kinh Việt Nam, cấp độ điệp cho tăng sĩ, tiếp độ hàng ngàn tăng chúng, thuyết pháp độ sinh… Ngài quả thật là một tấm gương sáng cho tăng sĩ Việt Nam, tiếp bước Điều Ngự, suốt một cuộc đời hành đạo và hóa đạo không biết mệt mỏi.
Con người của tổ sư là con người của tha nhân, đến đi tùy duyên, tự do tự tại, viên dung vô Ngài. Ngày nay, thiền tông Việt Nam có cơ duyên phát triển cũng nhờ vào uy đức của lịch đại Tổ sư thuở trước. Nếu Đệ nhị tổ phát huy Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần như một tinh ba của Phật giáo nước nhà thì thiền tăng Việt Nam ngày nay cần phải nỗ lực học tập, hành trì và truyền nối dòng thiền tổ tông ngày càng tốt đẹp bền vững. Đây là sứ mệnh của tăng sĩ Việt Nam, chúng ta cần trân quý giữ gìn và phát huy.
Theo Nguyễn Minh Tường, Sau khi xuất gia, tu hành, Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông dốc toàn tâm lực để xây dựng cơ sở vững chãi cho một nền Phật giáo thống nhất và nhập thế tại Việt Nam. Chính vì thế, Pháp Loa được giới quý tộc ủng hộ mạnh mẽ, nên đã thi hành dễ dàng nhiệm vụ lãnh đạo giáo hội của mình. Vua Trần Anh Tông (1293 - 1314) cung kính vâng theo di chúc của vua cha Trần Nhân Tông, đối với Pháp Loa luôn tự xưng là đệ tử, hết lòng ủng hộ việc hành đạo của Pháp Loa.
Trong thời kỳ Pháp Loa đứng đầu giáo hội, Phật giáo đã phát triển mạnh mẽ. Đây là thời kỳ mà số người xuất gia rất đông. Theo Văn bia tháp Viên Thông, cũng như Tam Tổ thực lục, vào tháng 9 năm Quý Sửu (1313), Pháp Loa đã đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang (còn gọi là chùa Đức La, hiện ở xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang), quy định chức vụ sư tăng trong cả nước và bổ nhiệm hơn 100 ngôi chùa [5, tr.803]. Từ đó, tất cả các tăng nhân đều có sổ và thuộc quyền quản trị của Pháp Loa. Như vậy, Pháp Loa đã tiến một bước trong việc tổ chức giáo hội thống nhất. Có thể nói rằng, chùa Vĩnh Nghiêm đã trở thành trụ sở Trung ương Giáo hội Trúc Lâm, chứa đủ hồ sơ của tăng ni cả nước. Bấy giờ Pháp Loa độ cho hơn một nghìn người làm sư. Pháp Loa cũng quy định, từ nay cứ 3 năm độ Tăng một lần, mỗi lần độ không dưới một nghìn người [5, tr.803]. Tính đến năm 1329, Pháp Loa đã độ được hơn 1.500 vị tăng ni.
Dưới thời Pháp Loa lãnh đạo Giáo hội Trúc Lâm, nhiều chùa tháp đã được xây dựng. Bản thân Pháp Loa, tính đến năm 1329, đã xây dựng hai khu chùa lớn là Báo Ân và Quỳnh Lâm, năm ngọn tháp và 200 tăng đường. Riêng ở chùa Báo Ân (Siêu Loại), năm 1314, Pháp Loa đã cho xây 33 cơ sở, gồm Phật điện, gác chứa Kinh và tăng đường. Pháp Loa còn xây dựng các am như: Hồ Thiên, Chân Lạc, An Mã, Vĩnh Khê, Hạc Lai và mở rộng các khu chùa Thanh Mai và Côn Sơn. Các đồ đệ của Pháp Loa cũng cho xây dựng chùa tháp ở nhiều nơi. Chẳng hạn, một đồ đệ của Pháp Loa là Thiền sư Trí Nhu đã xây dựng tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy (tức núi Non Nước, Ninh Bình - Theo Linh Tế tháp ký của Trương Hán Siêu, soạn năm 1343) và tháp Hiển Diệu ở núi Tiên Long (Hoa Lư, Ninh Bình - Theo tấm bia ở vách núi Tháp, xã Ninh Hòa, huyện Hoa Lư, Ninh Bình: văn bia do Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác soạn năm 1367). Pháp Loa cũng đã đúc tới 1.300 tượng Phật lớn nhỏ bằng đồng.
Nhờ sự giúp đỡ của giới quý tộc, thế lực kinh tế của các cơ sở Giáo hội Trúc Lâm cũng rất lớn. Các chùa có khá nhiều ruộng đất. Năm 1308, vua Trần Anh Tông đã lấy 100 mẫu ruộng của riêng gia tộc nhà Trần để cúng vào chùa Báo Ân [5, tr.801]. Năm 1312, nhà vua lại xuất vàng bạc của kho riêng, tính ra tiền là 50.000 quan giao cho Pháp Loa để bố thí cho những người nghèo [5, tr.802]. Cùng năm ấy, vua Trần Anh Tông lại khiến những người thân cúng 500 mẫu ruộng tại Niệm Như Trang để Pháp Loa làm của thường trụ Tam bảo (ba vật quý báu của đạo Phật là Phật - Pháp - Tăng; cũng để chỉ chung nhà chùa). Năm 1313, vua Trần Anh Tông, theo lời di chiếu của Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông lấy những bảo vật thờ tự Tam bảo tại cung Thánh Từ (thân mẫu vua Trần Anh Tông) mà cúng dường vào chùa Báo Ân, lại cúng dường vật liệu xây dựng và cung cấp thợ phu để làm thêm chùa tháp [5, tr.803]. Cũng trong năm ấy, Bảo Từ Hoàng Thái hậu cúng vào chùa Siêu Loại 300 mẫu gia điền. Năm 1315, vua Trần Anh Tông lấy 30 mẫu ruộng của người cung nhân quá cố là Phạm Thị ban cho Pháp Loa làm của thường trụ.
Tháng 12 năm Đinh Tỵ (1317), Pháp Loa sáng lập viện Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh), Tư đồ Văn Huệ vương Trần Quang Triều là thí chủ, cúng 4.000 quan tiền. Nguyễn Trường ở Vân Động đến yết kiến Pháp Loa, cúng 75 mẫu ruộng để làm của thường trụ Tam bảo cho viện Quỳnh Lâm [5, tr.804].
Năm 1318, Hoa Lưu cư sĩ Võ công cúng 20 mẫu ruộng tại trang trại Hoa Lưu để làm của thường trụ cho viện Quỳnh Lâm. Năm 1319, dân các lộ bị mất mùa, vua Trần Anh Tông xuất của kho riêng 100 lượng vàng và 500 lượng bạc giao cho Pháp Loa bố thí cho những người nghèo đói [5, tr.804]. Năm 1324, Di Loan cư sĩ, con trai của Công chúa Nhật Trinh, cúng 30 mẫu ruộng ở phủ Thanh Hoa, Bảo từ Hoàng Thái hậu cúng thêm 22 mẫu đất tại phủ An Hoa. Tư đồ Văn Huệ vương Trần Quang Triều lại cúng 300 mẫu ruộng tại Gia Lâm và hai trang trại Đông Gia, An Lưu, tất cả hơn 1.000 mẫu và gia nô hơn 1.000 người để làm của thường trụ cho viện Quỳnh Lâm [5, tr.806].
Trong thời gian Pháp Loa đứng đầu Giáo hội Trúc Lâm, số lượng tự viện trong cả nước tăng lên rất nhiều, phong trào học Phật đạo lan rộng, số người xuất gia và quy y cũng tăng lên rất mau chóng. Có thể nói, ngoài việc dựng chùa tô tượng, một hoạt động quan trọng của Pháp Loa là mở các hội giảng Kinh và in ấn các tài liệu Phật học.
Trong thời kỳ đứng đầu Giáo hội Trúc Lâm, Pháp Loa rất chú trọng việc giảng dạy kinh điển Phật giáo. Ngoài sự giảng dạy các Kinh phổ thông (như: Kim Cương, Lăng Nghiêm, Viên Giác và các bộ lục như Tuyết Đậu ngữ lục, Tuệ trung Thượng sĩ ngữ lục, Đại Tuệ ngữ lục), Pháp Loa còn giảng các Kinh Niết Bàn, Lăng Già, Pháp Hoa và nhất là Hoa Nghiêm.
Pháp Loa thiền sư cũng phân tích và chú thích một số kinh văn có khuynh hướng Mật giáo, gọi là Kim Cương Trường Đà La Ni khoa chú [5, tr.806]. Năm 1311, có một vị tăng sĩ Ấn Độ, tên là Du Chi Ba Lam tới, xưng là 300 tuổi theo Mật giáo có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước. Vị tăng này có một cô con gái tên là Đa La Thanh, được vua Trần Anh Tông tuyển vào làm cung phi. Vào đời vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) cũng có một vị tăng Mật giáo Ấn Độ tên là Bồ Đề Thất Lý sang, cũng có thể nổi trên mặt nước. Vua Trần Anh Tông có vẻ ưa chuộng Mật giáo. Một nghi lễ Mật giáo là lễ Quán đỉnh (Rưới nước phép - Lễ rưới nước lên đầu, một nghi thức tôn giáo long trọng của Mật Tông) được tiến hành khá phổ biến thời kỳ Pháp Loa đứng đầu Giáo hội. Vua được Pháp Loa làm lễ Quán đỉnh vào năm 1320 trước khi băng hà. Sau này, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Pháp Loa, nhiều người khác như Văn Huệ Vương, Uy Huệ Vương cũng đã xin nhận lễ Quán đỉnh, một nghi thức long trọng của Mật giáo.
Có thể nói đời Pháp Loa là đời một vị chân tu đầy hoạt động. Chúng ta ngày nay thật cảm phục “cặp mắt xanh” tinh tường của Đệ nhất tổ Thiền phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông đã phát hiện ra biệt tài của Pháp Loa khi còn rất trẻ và đã trao trọng trách kế tục dòng Phật pháp do Ngài khai sáng. Lịch sử Phật giáo Việt Nam mãi mãi ghi nhận Pháp Loa như là một Thiền sư vừa uyên thâm về giáo lý đạo Thiền, vừa có tài tổ chức các hoạt động của Phật giáo trong nước thời bấy giờ. Đúng như câu thơ của vua Trần Minh Tông viếng Pháp Loa, khi nhà vua đến thăm chùa Thanh Mai: “Thóa thủ trần hoàn dĩ liễu duyên/Giác Hoàng kim lũ đắc nhân truyền” (Nghĩa là: Phủi tay thế là xong duyên nghiệp cõi trần/Sợi tơ vàng, cũng như “Kim thằng”, tượng trưng cho Đạo Phật) của Đức Giác Hoàng (Phật, ở đây chỉ vua Trần Nhân Tông) đã tìm được người truyền lại [5, tr.807]. Có thể nói, Đức Pháp Loa Thiền sư vẫn còn sống mãi trong dòng Thiền Trúc Lâm Việt Nam.