Khác với nhiều câu tục ngữ khác, thường chỉ có hai vế, câu này có tới năm vế hiệp vần với nhau. Dù có dạng ngắn gọn, mỗi vế đều liệt kê hai sự việc (đau bụng/ lá gú; đau vú/ diếp rừng…) nhưng ta cũng dễ dàng suy ra ngữ nghĩa của từng vế. Có điều, nhiều từ ngữ sử dụng hơi lạ tai, khó hiểu. Cũng bởi đó là phương ngữ hoặc từ cũ ít sử dụng trong tiếng Việt.
Về ngữ nghĩa, ta có thể suy luận mỗi vế theo cấu trúc “nếu A thì B”. Theo hướng này, vế 1 “đau bụng lá gú” có nghĩa là “nếu đau bụng thì dùng lá gú (thì sẽ chữa khỏi)”. “Gú” là từ phương ngữ miền Trung, có nghĩa là “gấu”. “Cỏ gú” (tên khoa học là Cyperaccae), còn gọi là cỏ gấu, cỏ cú, hương phụ. Cỏ gú mọc hoang nơi bờ ao, xó vườn, ngoài ruộng. Cỏ gú có vị cay, hơi đắng, ngọt, vào hai kinh can và tam tiểu. Theo Đông y, có tác dụng lý khí, giải uất, điều kinh, chỉ thống (làm hết đau), chữa khí uất, ung thư, ngực bụng chướng đau.
Vế 2, “đau vú diếp rừng”. “Diếp rừng” còn được gọi bằng một cái tên rất hay là “bồ công anh”, cây thân thảo thuộc họ Cúc (Asteraceae), mọc hoang, hoa vàng, lá hình mũi mác. Bồ công anh còn có tên là bồ cóc, diếp hoang, diếp dại, diếp trời, mót mét, mũi mác, mũi cày… Lá cây này là một vị thuốc dân gian, dùng để chữa bệnh sưng vú, tắc tia sữa, mụn nhọt đang sưng mủ, hay bị mụn nhọt, đinh râu. Ngoài ra, còn dùng uống trong chữa bệnh đau dạ dày, ăn uống kém tiêu,…
Vế 3, “đau lưng hổ cốt”. “Hổ cốt” hay cao hổ cốt, cao xương hổ, cao hổ đó là một loại cao nấu từ bộ xương con hổ (đại trùng cốt). Cao hổ có công dụng bổ dương, trục phong hàn, trấn thống (giảm đau), làm mạnh gân cốt, trừ tê thấp, thường được dùng để chữa các chứng tê thấp, đau nhức gân xương, đi lại khó khăn, chân tay co quắp, thoái hóa xương khớp, suy nhược cơ thể…
Vế 4, “đau nhọt lá lang”. Cũng theo dân gian, rau lang (hay rau khoai lang) sau khi thu hái về đem rửa sạch, ngâm trong nước muối rồi vớt ra để ráo nước. Cho rau lang, đậu xanh và muối vào cối giã nát. Sau đó đem bọc trong túi vải mỏng sạch rồi đắp trực tiếp lên vùng da bị nổi mụn nhọt. Áp dụng cách này giúp cho giảm sưng đau, nhọt nhanh sạch mủ và lành hẳn.
Vế 5, vế cuối cùng, “đau sang máu chó”. “Đau sang” là cách nói phương ngữ, chỉ chứng ghẻ lở thường gặp. Còn “máu chó” (tên khoa học là Knema globularia) còn gọi là huyết đằng, si đỏ thuộc họ nhục đậu khấu. Cây nhỡ, cao tới 10m, có các nhánh non phủ một lớp lông mềm màu hung đỏ, cành già nhẵn, có khía. Lá dạng màng, thuôn ngọn giáo, có mép nguyên, mặt trên bóng nhẵn, có gân lông chim. Quả hình trứng, hình cầu hay gần như bầu dục, khi chín nhẵn, vỏ quả mỏng, áo hạt nguyên hay hơi xẻ ở đỉnh. Hạt máu chó có thể dùng để chữa các bệnh ghẻ lở, chàm, bang…