Đại thi hào Nguyễn Du – Danh nhân văn hóa thế giới: Đỉnh cao của chủ nghĩa nhân văn và bản sắc Việt Nam

Trong dòng chảy lịch sử hàng ngàn năm của văn hiến Việt Nam, Nguyễn Du hiện thân như một ngọn hải đăng chói lọi, một đỉnh cao vĩ đại nơi kết tinh những giá trị tinh túy nhất của truyền thống dân tộc và tinh hoa nhân loại.

Việc Đại hội đồng UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc) chính thức vinh danh ông là “Danh nhân văn hóa thế giới” vào năm 2013 (nhân kỷ niệm 250 năm năm sinh) không chỉ là sự ghi nhận đối với một tài năng văn chương kiệt xuất, mà còn là sự khẳng định một tư tưởng nhân văn mang tầm vóc thời đại, một tâm hồn lớn đã vượt qua mọi ranh giới về không gian, thời gian và ngôn ngữ để đi vào lòng nhân loại.

152401-khu-luu-niem-dai-thi-hao-nguyen-du-xa-tien-dien-tinh-ha-tinh-10322923-1766662000.jpg
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du, xã Tiên Điền, tỉnh Hà Tĩnh.

Tầm vóc nhà văn hóa vĩ đại: Sự hội tụ và kết tinh của các dòng chảy văn hiến

Nguyễn Du (1765 - 1820), tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam (giai đoạn “khủng hoảng cung đình” cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX). Để kiến tạo nên chân dung một “Đại thi hào”, một “Nhà văn hóa vĩ đại”, cuộc đời và sự nghiệp của ông là kết quả của sự hội tụ kỳ diệu giữa yếu tố thiên bẩm và sự hun đúc từ những nguồn mạch văn hóa đặc sắc nhất của dân tộc.

Nguyễn Du xuất thân từ dòng họ Nguyễn Tiên Điền (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) (một dòng họ “trâm anh thế phiệt” lừng danh với truyền thống khoa bảng và văn chương). Cha ông là Tể tướng Nguyễn Nghiễm, một nhà chính trị, sử học và nhà thơ uy tín; anh trai cùng cha khác mẹ là Tham tụng Nguyễn Khản, người cũng giữ trọng trách lớn trong triều đình Lê - Trịnh và nổi tiếng tài hoa. Chính môi trường giáo dục khuôn thước, nghiêm cẩn của một gia đình đại quý tộc đã trang bị cho Nguyễn Du một nền tảng học vấn uyên thâm. Ông không chỉ am tường Tứ thư, Ngũ kinh, tinh thông văn học Hán học cổ điển Trung Hoa mà còn thấu hiểu sâu sắc về lễ nhạc, quy chế cung đình cũng như những biến động vi tế của thời cuộc. Vốn tri thức bác học này là tiền đề quan trọng để sau này ông kiến giải những vấn đề nhân sinh dưới cái nhìn của một trí thức có tầm tư duy triết học.

Một trong những yếu tố cốt lõi tạo nên hồn thơ Nguyễn Du chính là sự tổng hòa của những vùng văn hóa tiêu biểu nhất Việt Nam thời bấy giờ. Trước hết là văn hóa xứ Nghệ, quê cha ông, mảnh đất “địa linh nhân kiệt” với thiên nhiên khắc nghiệt nhưng con người kiên cường, bộc trực, hiếu học và giàu truyền thống yêu nước; chính chất “thép” trong tư tưởng và sự thâm trầm, sâu sắc của Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng lớn từ vùng đất này. Bên cạnh đó, văn hóa Kinh Bắc từ quê mẹ (bà Trần Thị Tần, người con gái vùng Bắc Ninh vốn là cái nôi của dân ca Quan họ), đã mang đến dòng sữa ngọt ngào và những làn điệu dân ca trữ tình, mượt mà, từ đó nuôi dưỡng tâm hồn đa cảm, tinh tế của nhà thơ, đồng thời bồi đắp cho ông một vốn ngôn ngữ dân gian phong phú, uyển chuyển. Đặc biệt, không thể không kể đến văn hóa Thăng Long, nơi Nguyễn Du sinh ra và lớn lên; mảnh đất ngàn năm văn vật này là nơi hội tụ khí thiêng sông núi và sự thanh lịch, hào hoa của người Tràng An, với không gian văn hóa đô thị phong kiến cùng những tao nhân mặc khách và sinh hoạt cung đình đã hun đúc nên cốt cách sang trọng cùng tầm nhìn rộng mở của ông. Chính sự giao thoa giữa chất bác học của Thăng Long, chất trữ tình của Kinh Bắc và chất trầm hùng của xứ Nghệ đã tạo nên một Nguyễn Du độc nhất vô nhị: một bậc kỳ tài vừa uyên bác, trang trọng lại vừa bình dị, gần gũi; vừa sở hữu lý trí sắc sảo lại vừa mang một trái tim chan chứa tình người.

Nếu nguồn gốc xuất thân trang bị cho ông tri thức, thì chính cuộc đời đầy bi kịch và biến động đã tôi luyện nên bản lĩnh văn hóa của Nguyễn Du. Biến cố lịch sử khi nhà Lê sụp đổ, nhà Tây Sơn lên ngôi, rồi đến sự thiết lập của nhà Nguyễn đã đẩy Nguyễn Du vào “mười năm gió bụi” (thập tải phong trần). Từ một công tử lá ngọc cành vàng, ông phải sống cuộc đời lưu lạc, đói rét, bệnh tật, hòa mình vào cuộc sống của tầng lớp dưới đáy xã hội. Chính giai đoạn này, cùng với những chuyến đi sứ sang Trung Hoa sau này, đã giúp ông thực hiện một cuộc chuyển hóa vĩ đại, từ tri thức sách vở sang tri thức thực tiễn; từ cái nhìn của tầng lớp quý tộc sang sự thấu cảm của một con người đau nỗi đau chung của nhân loại. Ông đã nhìn thấy “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, để rồi từ đó, ngòi bút của ông không chỉ để vịnh trăng gió, mà trở thành tiếng khóc thương cho những kiếp người phù du.

Di sản văn chương: Đỉnh cao nghệ thuật và cuộc cách mạng ngôn ngữ dân tộc

Sự vĩ đại của Nguyễn Du trước hết được định lượng và định tính qua khối lượng di sản văn chương đồ sộ mà ông để lại; dù sáng tác bằng chữ Hán hay chữ Nôm, ở lĩnh vực nào ông cũng đạt đến trình độ bậc thầy, trở thành khuôn mẫu nghệ thuật cho muôn đời sau.

Trước hết, về Truyện Kiều - kiệt tác “Quốc hồn quốc túy” và là viên ngọc sáng của văn học nhân loại, tác phẩm Đoạn trường tân thanh này chính là đỉnh cao chói lọi nhất trong sự nghiệp của Nguyễn Du, cũng là tác phẩm vĩ đại nhất của văn học cổ điển Việt Nam. Tại đây, ông đã thực hiện một cuộc cách mạng ngôn ngữ tiếng Việt ngoạn mục; nếu trước đó văn học chữ Nôm đã có những thành tựu nhất định thì phải đến Truyện Kiều, tiếng Việt mới thực sự được nâng lên một vị thế mới thông qua việc chắt lọc từ ngữ bình dân, mộc mạc của ca dao, tục ngữ, kết hợp nhuần nhuyễn với hệ thống từ Hán - Việt trang trọng, bác học để tạo nên một thứ ngôn ngữ vừa chuẩn mực, sang trọng, vừa giàu sức biểu cảm. Với 3.254 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã chứng minh khả năng diệu kỳ của tiếng Việt trong việc diễn tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những triết lý trừu tượng và những bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, biến Truyện Kiều thành “sách giáo khoa” mẫu mực mà người Việt bao thế hệ vẫn soi mình vào đó. Đi cùng với ngôn ngữ là bút pháp nghệ thuật bậc thầy, nơi Nguyễn Du thể hiện khả năng tả cảnh ngụ tình tinh tế và đặt nền móng cho nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật điển hình với đời sống nội tâm riêng biệt như Thúy Kiều, Từ Hải hay Hoạn Thư. Dù mượn cốt truyện từ phương Bắc, nhưng bằng tài năng “cải tử hoàn sinh”, ông đã thổi vào đó linh hồn Việt, biến nó thành một tác phẩm thấm đượm tâm thức dân tộc.

Bên cạnh dòng thơ Nôm, di sản thơ chữ Hán của Nguyễn Du với ba tập thơ Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục lại là bức chân dung tự họa của một trí thức ưu thời mẫn thế, bổ sung hoàn chỉnh chân dung tinh thần của ông. Nếu Truyện Kiều là tiếng nói đồng cảm với tha nhân thì thơ chữ Hán là cuốn nhật ký tâm trạng, nơi ông bộc lộ trực diện những trăn trở, cô đơn và sự bế tắc trước thời cuộc. Đặc biệt trong Bắc hành tạp lục, Nguyễn Du thể hiện một tư duy hiện thực sắc sảo khi không ca ngợi những triều đại thịnh trị theo lối mòn mà nhìn thấu những bất công xã hội, phê phán thói xa hoa trên xương máu dân nghèo và khóc thương cho những nhân cách lớn bị vùi dập, khẳng định một tầm vóc tư tưởng vượt ra khỏi biên giới quốc gia.

Đồng thời, không thể không nhắc đến Văn tế thập loại chúng sinh - bản tuyên ngôn về quyền bình đẳng của linh hồn. Đây là một đỉnh cao khác về tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du khi ông dành sự quan tâm đến những linh hồn bơ vơ, không nơi nương tựa, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Qua tác phẩm, ông khẳng định rằng trước cái chết, mọi người đều bình đẳng trong nỗi đau và sự cô đơn; lòng trắc ẩn của Nguyễn Du ở đây đã mở rộng đến vô biên, thể hiện một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, mang màu sắc tôn giáo nhưng lại vô cùng đời thực, chạm đến những tầng sâu nhất của giá trị làm người.

Tư tưởng nhân đạo: Giá trị cốt lõi đưa Nguyễn Du ra thế giới

Lý do thuyết phục nhất để UNESCO và cộng đồng quốc tế tôn vinh Nguyễn Du chính là tư tưởng nhân đạo xuyên suốt và vượt tầm thời đại trong các tác phẩm của ông; tư tưởng này không chỉ dừng lại ở lòng thương người theo quan niệm Nho giáo hay Phật giáo, mà đã phát triển thành một hệ thống quan điểm nhân sinh vô cùng tiến bộ. Trước hết, đó là khát vọng về quyền sống và quyền tự do mãnh liệt; trong bối cảnh xã hội phong kiến hà khắc, nơi “tam tòng tứ đức” trói buộc người phụ nữ và đẳng cấp xã hội được phân chia nghiêm ngặt, Nguyễn Du đã dũng cảm cất lên tiếng nói đòi quyền sống cho con người cá nhân. Mối tình Kim - Kiều dưới ngòi bút của ông đã trở thành bài ca tuyệt đẹp về tình yêu tự do, dám vượt qua khuôn khổ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, hay như hình tượng Từ Hải chính là hiện thân cho khát vọng công lý, dám đạp đổ những bất công để “chọc trời khuấy nước”. Nguyễn Du luôn trân trọng những nhu cầu trần thế chính đáng của con người và không khỏi đau đớn khi thấy những giá trị ấy bị chà đạp.

Đồng thời, ông còn là một tiếng nói bảo vệ phẩm giá con người, đặc biệt là phụ nữ; có thể nói, chưa một tác giả trung đại nào dành nhiều nước mắt và sự trân trọng cho phái đẹp như ông. Không chỉ dừng lại ở việc ca ngợi vẻ đẹp ngoại hình “Làn thu thủy, nét xuân sơn”, Nguyễn Du còn thấu hiểu sâu sắc tài năng và phẩm giá bên trong của họ, để rồi từ đó đau xót cho thân phận “hồng nhan bạc mệnh” và lên án gay gắt thế lực đồng tiền cùng quyền lực tàn bạo đã đẩy họ vào bước đường cùng. Tiếng khóc của ông cho Thúy Kiều, cho người ca nữ đất Long Thành hay nàng Tiểu Thanh chính là tiếng khóc mang tính nhân loại, bởi sự chà đạp lên phẩm giá phụ nữ là nỗi đau chung của mọi thời đại. Tất cả đã kết tinh thành một chủ nghĩa nhân văn mang tính phổ quát; giá trị của Nguyễn Du không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia vì ông đã chạm đến những vấn đề hiện sinh của loài người như sự mong manh của kiếp người, sự xung đột giữa tài năng và định mệnh, hay giữa ước mơ và thực tại. Qua Bắc hành tạp lục, ông đặt ra những câu hỏi nhức nhối về sự hưng phế của các triều đại và số phận những con người bé nhỏ trong guồng quay lịch sử, nhìn thấy bản chất của xã hội áp bức ở bất cứ đâu. Chính “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” như cách nói của Mộng Liên Đường chủ nhân đã đưa tư tưởng của Nguyễn Du gặp gỡ với những giá trị nhân văn cao cả nhất của thế giới.

Sức lan tỏa và giá trị bền vững trong kỷ nguyên toàn cầu

Hơn hai thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày Đại thi hào tạ thế, nhưng di sản của ông không hề bị phủ bụi thời gian mà trái lại, ngày càng tỏa sáng rực rỡ trong bối cảnh hội nhập văn hóa toàn cầu. Trước hết, Nguyễn Du có một sức sống trường tồn trong lòng dân tộc; ở Việt Nam, hiếm có nhà thơ nào mà tác phẩm lại đi sâu vào đời sống tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân như ông. Truyện Kiều không chỉ nằm trong sách giáo khoa hay thư viện mà còn sống động trong lời ru của bà, trong các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo như ngâm Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều, đố Kiều, và thậm chí được chuyển thể thành nhiều loại hình nghệ thuật khác như kịch, phim, chèo, cải lương hay hội họa. Nguyễn Du đã thực sự trở thành một biểu tượng văn hóa, một “căn cước” tinh thần của người Việt, đúng như lời khẳng định của nhà văn hóa Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”. Câu nói ấy là minh chứng hùng hồn cho vai trò “người gìn giữ linh hồn dân tộc” của Nguyễn Du thông qua việc hoàn thiện và tôn vinh tiếng mẹ đẻ.

Song song với sức sống nội tại, Nguyễn Du còn tỏa sáng trên trường quốc tế như một nhịp cầu văn hóa vĩ đại. Trên bình diện thế giới, Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ khác nhau như Pháp, Anh, Nga, Trung, Nhật, Hàn, Tiệp Khắc, Ba Lan... với hàng trăm bản dịch, trở thành một trong những tác phẩm văn học Việt Nam được biết đến rộng rãi nhất toàn cầu. Các nhà nghiên cứu nước ngoài không ngần ngại tìm thấy ở Nguyễn Du sự tương đồng với những đại văn hào lỗi lạc như William Shakespeare, Johann Wolfgang von Goethe, Dante Alighieri hay Alexander Pushkin, bởi họ ngưỡng mộ ông không chỉ ở tài năng ngôn ngữ xuất chúng mà còn ở chiều sâu tư tưởng về thân phận con người. Chính vì vậy, việc UNESCO vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới năm 2013 là mốc son chói lọi, chính thức ghi tên ông vào bảng vàng những vĩ nhân của nhân loại, đồng thời khẳng định mạnh mẽ rằng văn hóa Việt Nam đã và đang có những đóng góp xứng đáng vào kho tàng văn minh chung của thế giới.

Đại thi hào Nguyễn Du không chỉ là niềm tự hào riêng của dòng họ Nguyễn Tiên Điền hay của mảnh đất Hà Tĩnh, mà ông là tài sản vô giá của quốc gia và nhân loại. Cuộc đời và tác phẩm của ông là bài ca bất tận về tình yêu con người, về sự trân trọng cái đẹp và khát vọng công lý. Kỷ niệm về ông không chỉ là nhìn lại quá khứ, mà là để tiếp thêm sức mạnh cho hành trình khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam trong tương lai. Đúng như dự cảm của chính ông, tiếng khóc cho Tố Như sẽ không bao giờ dứt, bởi chừng nào con người còn biết đau nỗi đau của đồng loại, chừng đó thơ Nguyễn Du vẫn còn văng vẳng bên tai.

Trong kỷ nguyên hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, việc bảo tồn, nghiên cứu và phát huy di sản của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở lòng tự hào dân tộc. Đó còn là trách nhiệm tiếp nối mạch nguồn nhân văn, giới thiệu bản sắc Việt Nam ra thế giới, và dùng những giá trị cao đẹp trong tư tưởng Nguyễn Du để bồi đắp tâm hồn cho thế hệ trẻ. Nguyễn Du đã, đang và sẽ mãi là một sứ giả văn hóa vĩnh cửu, là niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam trước nhân loại.

(*) Hệ Đào tạo Sau đại học, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng.