Đào Duy Từ - Kẻ sĩ Hoài Nhơn không khuất phục số mệnh

Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, có những con người mà tên tuổi của họ gắn liền với trí tuệ, khí phách và bản lĩnh vượt lên nghịch cảnh để tạo nên kỳ tích. Họ là những bậc đại trí, đại dũng, sống không cam phận, chết không quên nghĩa nước.

Giữa những thăng trầm của thế kỷ XVII, giai đoạn đất nước phân ly, lòng người ly tán đã xuất hiện một người như thế: Đào Duy Từ, một kẻ sĩ mang trong mình ngọn lửa của tinh thần bất khuất, người đã vượt lên mọi rào cản định kiến và hoàn cảnh để trở thành quân sư kiệt xuất của Đàng Trong, là người đặt nền móng cho một triều đại hưng thịnh và góp phần quan trọng vào sự ổn định của Quốc gia.

v-23563463467347-1748234262.jpg
Bức bình phong tại cồng đền thờ Đào Duy Từ. Ảnh: Xuân Hiền

Sinh năm 1572 tại làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, xứ Thanh (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa), Đào Duy Từ lớn lên trong một gia đình có cha là Đào Tá Hán, nghệ nhân hát xướng cung đình triều Lê. Khi ấy, xã hội phong kiến vẫn nặng nề với quan niệm “xướng ca vô loài”, nghề hát xướng bị xem thường, khiến cho những người thuộc dòng họ ấy không được dự khoa cử. Dẫu sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn chương, có trí tuệ hơn người, ông vẫn không thể bước chân vào chốn trường thi: cánh cửa duy nhất thời bấy giờ để tiến thân, để phụng sự xã hội.

Không cam chịu thân phận, người mẹ họ Vũ: bà Vũ Thị Kim Chi quyết định đổi họ cho ông thành Vũ Duy Từ để mong con có cơ hội bước vào khoa bảng. Đào Duy Từ đã nỗ lực học tập, đỗ Á Nguyên kỳ thi Hương tại địa phương. Tuy nhiên, khi vào thi Hội tại Thăng Long, lý lịch bị phát hiện. Kết quả, ông bị đuổi khỏi trường thi, mẹ ông vì xấu hổ, buồn tủi mà chết. Đó là biến cố đau thương khắc sâu trong tâm hồn người con hiếu thảo. Nhưng ông không gục ngã. Từ đó, ông quyết định rời quê vào Nam, mang theo chí lớn dựng xây và khát vọng phụng sự.

Trên hành trình Nam tiến ấy, Đào Duy Từ dừng chân tại vùng Hoài Nhơn (nay là thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định), nơi non nước hữu tình và lòng người trọng nghĩa. Ông biết được là Khám lý Trần Đức Hòa là một người mưu lược, tài ba và là “nghĩa đệ” của chúa Nguyễn Phúc Nguyên nên tìm cách tiếp cận một cách khéo léo. Ông đến thôn Tùng Châu để ở chăn trâu cho nhà phú hộ cách nhà Trần Đức Hòa một con sông nhỏ. Trong giai đoạn này có một giai thoại vô cùng lý thú về Đào Duy Từ.

Chuyện kể rằng, một hôm, khi nhà phú nông đang vui vẻ đàm luận kinh sử, Đào Duy Từ dắt trâu về chuồng. Biết đó là đám quan Nho, ông đặt chân lên bậc thềm và nhìn chằm chằm không chào hỏi gì. Ông bị gia chủ mắng là “kẻ chăn trâu không biết gì”. Đào Duy Từ cười vang rồi nói: “Trong làng Nho cũng có quân tử, cũng có tiểu nhân. Trong bọn chăn trâu cũng có kẻ chăn trâu anh hùng và kẻ chăn trâu tôi tớ”.

Khách nghe Đào Duy Từ đáp thế, đám quan nho rất lấy làm ngạc nhiên, hỏi: “Ngươi bảo ai là Nho quân tử, ai là Nho tiểu nhân?” Đào Duy Từ cười đáp: “Nho quân tử thì phải thông hiểu tam tài. Ở nhà lo giữ đạo cha con, anh em và vợ chồng. Khi ra giúp việc cho nước nhà phải biết tìm mưu lược để giữ yên lòng dân và cứu chỗ hiểm, phò chỗ nguy, bày binh bố trận, phải lập công danh sự nghiệp, để tiếng thơm lại cho mai sau, đời đời còn rạng rỡ, ngàn năm không phai mờ.

Còn như Nho tiểu nhân, tài học nhiều lắm cũng ở mức tầm chương trích cú, chỉ muốn thong dong nơi bút mực văn chương để cầu danh lợi, mượn Nho để cười gió giỡn trăng, coi thường những kẻ hào kiệt ở đời".

Khách nhà Nho nghe nói thì kinh ngạc, bèn hỏi tiếp: “Thế nào là kẻ chăn trâu anh hùng, thế nào là kẻ chăn trâu chỉ đáng phận tôi tớ, ngươi thử nói tiếp cho rõ ràng xem?”. Đào Duy Từ lại mỉm cười rồi nói: “Kẻ chăn trâu anh hùng thì như Ninh Thích phục hưng được nước Tề, Điền Đan dùng kế hỏa công mà thu phục những thành trì bị người nước Yên chiếm cứ, Hứa Do dắt trâu ra khe uống nước mà cũng biết được lẽ hưng vong và thịnh loạn, Bách Lý Hề đi chăn dê vùng miền trung nước Tần mà cũng nắm vững sự thịnh suy, bĩ thái...

Còn như kẻ chăn trâu chỉ đáng phận tôi tớ thì chỉ biết đói thì ăn, no thì bỏ, ngày bỏ mặc trâu để đi ăn trộm quả, đêm ngủ say mà quên cả việc bỏ rơm cho trâu bò ăn thêm.

Bọn ấy chỉ biết thân mình, dầm mưa dãi gió, ra không biết kính sợ quỷ thần, vào không biết làm gì cho mẹ cha nhờ cậy, lêu lổng chơi bời vô độ, khi vui thì mặc sức reo hò múa hát, khi giận thì chẳng kể ruột thịt thân sơ, làm xấu cả cha anh, gieo oán hờn cho làng xóm. Bọn ấy chẳng cần hỏi tới làm gì”.

Khách nghe Đào Duy Từ ứng đối lưu loát, bác cổ thông kim, nên ai nấy đều lấy làm kinh hãi. Không ai bảo ai, tất cả đứng dậy khoanh tay thưa rằng: “Ông quả là bậc thầy cao minh”. Nói rồi, xuống mời Đào Duy Từ lên ngồi chiếu trên. Từ đó, gia chủ sắm quần áo mới cho Đào Duy Từ, mời ông giảng sách, không bắt đi chăn trâu nữa.

Danh tiếng về tài năng xuất chúng của Đào Duy Từ đã nhanh chóng lan truyền trong vùng và đến tai Khám lý Trần Đức Hòa. Trần Đức Hòa tìm tới hỏi chuyện Đào Duy Từ. Thấy Đào Duy Từ có tài học rộng, biết nhiều, đầy hoài bão nên mời về dạy học rồi gả con gái cho. 

Từ thân phận kẻ hèn mọn, Đào Duy Từ bắt đầu bước vào giai đoạn rực rỡ nhất trong cuộc đời mình. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, người đang trị vì Đàng Trong, là một nhà lãnh đạo sáng suốt, biết trọng hiền tài. Sau khi đọc bài thơ “Ngọa Long cương vãn”, trong đó Đào Duy Từ ví mình như Gia Cát Lượng thời nhà Hán, chúa Nguyễn liền mời ông vào phủ, đàm đạo suốt ba ngày ba đêm. Kể từ đó, ông được tin cẩn, phong làm Nha úy nội tán, tước Lộc Khê hầu, giữ vai trò quân sư, cố vấn tối cao cho chúa Nguyễn. Ông cũng được coi là một trong ba người duy nhất mà chúa Nguyễn gọi bằng “thầy”. 

36-1748234358.jpg
Di tích lịch sử đền thờ Đào Duy Từ. Ảnh: Xuân Hiền

Trong vai trò ấy, Đào Duy Từ đã thể hiện tầm vóc của một nhà kiến thiết vĩ đại. Nhận thấy tình thế Đàng Trong còn non trẻ, dễ bị uy hiếp bởi lực lượng Trịnh ở Đàng Ngoài, ông đề xuất xây dựng một hệ thống phòng thủ quy mô lớn. Ông là người trực tiếp chỉ huy công trình xây dựng hai tuyến lũy chiến lược: Lũy Trường Dục và đặc biệt là Lũy Thầy, công trình quân sự vĩ đại nhất thời bấy giờ. Theo các tài liệu lịch sử, Lũy Thầy dài khoảng 18km, cao 3m, dày 6m, được đắp bằng đất và đá ong, gia cố bằng gỗ lim, có thể cho voi, ngựa đi lại trên đỉnh. Mỗi trượng đặt một khẩu súng “quá sơn”, cứ cách 3 đến 5 trượng lại có một pháo đài lớn. Đây là công trình có giá trị quân sự đặc biệt, đã ngăn chặn hiệu quả các đợt tấn công từ phía Bắc suốt hàng chục năm.

Không chỉ là nhà quân sự, Đào Duy Từ còn là nhà lý luận quân sự. Ông biên soạn bộ binh thư nổi tiếng “Hổ trướng khu cơ”, trong đó trình bày lý luận chiến lược, thuật hành binh, nghệ thuật điều quân, bố trận và xây thành mang đậm triết lý “biến hóa vô thường” của binh pháp phương Đông. Đây là tài liệu quý giá cho các đời chúa Nguyễn và sau này được kế thừa trong triều Nguyễn thời vua Gia Long. 

Đào Duy Từ không chỉ là bậc mưu thần tài ba của chúa Nguyễn, mà còn là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ngoài bài thơ nổi tiếng Ngọa Long cương, thể hiện chí khí và hoài bão giúp nước, ông còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị về văn học, quân sự và chính trị như: Hổ trướng khu cơ, Tư Dung vãn, Tuồng Sơn Hậu… cùng nhiều bài phú, bài thơ mang đậm tinh thần yêu nước và trí tuệ uyên bác. Các trước tác của ông phản ánh tầm nhìn chiến lược, kiến thức uyên thâm và nhân cách lớn của một kẻ sỹ sống trọn đạo trung quân, ái quốc. Với những cống hiến xuất sắc trong nhiều lĩnh vực, Đào Duy Từ đã được ghi nhận là một danh nhân văn hóa. 

Năm 1634, khi lâm bệnh nặng, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đích thân đến thăm. Trước lúc qua đời, Đào Duy Từ vẫn canh cánh nỗi lo chưa hoàn thành sứ mệnh với Đàng Trong. Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc, truy tặng ông nhiều danh hiệu cao quý. Ông mất tại phủ chúa, hưởng thọ 62 tuổi. Thi hài ông được đưa về an táng tại quê hương vợ ở thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, thị xã Hoài Nhơn, nơi ông từng sống và gây dựng sự nghiệp. Chính tại đây, nhân dân đã dựng đền thờ ông. 

Ngày 15/10/1994, Khu di tích Đào Duy Từ được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Hằng năm, vào ngày 17 tháng 10 âm lịch, chính quyền và nhân dân Hoài Nhơn long trọng tổ chức lễ giỗ Đào Duy Từ. Đó không chỉ là nghi lễ tưởng niệm mà còn là dịp để nhắc nhớ về một nhân cách lớn, một trí tuệ lớn - người đã sống trọn vẹn cho lý tưởng và để lại di sản vững bền giữa lòng dân tộc.

Bài học từ cuộc đời Đào Duy Từ là minh chứng hùng hồn cho chân lý: Không số phận nào có thể trói buộc được người có ý chí. Từ thân phận bị xã hội rẻ khinh, ông đã viết nên tên mình trong sử sách bằng tài năng, bằng nghị lực và tấm lòng tận trung với nước. Hơn bốn thế kỷ đã trôi qua, nhưng tinh thần “không chấp nhận số phận” của ông vẫn là ngọn lửa soi sáng cho bao thế hệ người Việt hôm nay, trong hành trình dựng xây một đất nước hùng cường, trí tuệ và nhân văn.