Cảm thức nguồn cội trong thơ Võ Thị Như Mai

TS. Bùi Như Hải

31/10/2021 19:14

Theo dõi trên

Thơ Võ Thị Như Mai như một “điệu hồn” nhằm hướng đến các giá trị toàn diện về chân lý của cuộc sống, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, có tính giáo dục đối với thế hệ hôm nay và mai sau, mà không dễ nhà thơ nào cũng có được.

vo-thi-nhu-mai2-1635682289.jpg
 

1. Nhà giáo, nhà thơ Võ Thị Như Mai - một cái tên quen thuộc, gần gũi, không hề xa lạ với bạn đọc của cộng đồng người Việt ở hải ngoại và trong nước. Chị sinh năm 1976 tại thành phố Đà Lạt, nguyên quán Mỹ Chánh, Hải Chánh, Hải Lăng, Quảng Trị. Năm chị học 1994 Khoa Anh, Đại học Đà Lạt. Sau khi tốt nghiệp, chị về Trường THPT Ngô Quyền, Châu Đức, Bà Rịa Vũng Tàu dạy môn Anh ngữ. Năm năm sau, Như Mai sang Tây Úc học ngành Giáo dục tiểu học, sau đó là Thạc sĩ giáo dục ngành Ngôn ngữ học. Bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ, chị ở lại làm giáo viên cấp một cho đến nay. Duyên thơ đến với Như Mai khá sớm, ngay từ thuở thiếu thời. Thời còn học sinh, chị làm thơ chủ yếu chép tay vào cuốn sổ Lưu bút của mình. Sau này, chị viết thơ cốt chỉ dành tặng người thân, bạn bè, được mọi người khen ngợi, động viên tiếp tục sáng tác và công bố rộng rải đến với mọi người hơn. Chính sự đam mê cháy bỏng, cùng với sự động viên, khích lệ nên ngọn lửa thi ca đã tiếp tục thắp lên, rực cháy trong trái tim Như Mai. Mặc dù rất bận rộn với công việc giảng dạy, ngốn rất nhiều thời gian trong việc chăm lo mái ấm gia đình, nhưng Như Mai vẫn cố gắng sắp xếp công việc, tranh thủ từng phút, từng giờ để sáng tác thơ ca. Bởi với chị, thi ca là một phần máu thịt không thể tách rời, không thể thiếu vắng được trong đời sống tinh thần của mình. Bằng cả trái tim nồng nhiệt, một tâm hồn sáng trong, Như Mai đã sáng tác hàng trăm bài thơ và được bạn đọc trong và ngoài nước đón nhận, yêu quý vì thơ chị thể hiện được những cảm xúc gần gũi, tự nhiên, bằng cả trái tim đau đáu nỗi niềm, như “cây đời mãi xanh tươi”; hình ảnh thơ có sức gợi, ngôn từ giản dị, trong sáng, giọng điệu thơ có cá tính,... Năm 2009, Như Mai quyết định cho ra mắt tập thơ đầu tay của mình với tựa đề Tản mạn thơ, do Nxb. Văn Nghệ ấn hành. Tập thơ vừa mới trình làng đã gây ấn tượng với người đọc. Với một sức viết mãnh liệt, năm 2011 Như Mai đã xuất bản tập thơ thứ hai Bên kia tít tắp đại dương, do Nxb. Văn học ấn hành. Với tâm nguyện của bạn bè, độc giả yêu thích thơ Như Mai, vì thế rất mong được gặp trực tiếp chính tác giả một lần để trò chuyện, trao đổi kinh nghiệm, đời sống văn chương trong và ngoài nước. Không thể chối từ, Như Mai đã tranh thủ thời gian, sắp xếp công việc để trở về nước tổ chức buổi ra mắt tập thơ Bên kia tít tắp đại dương tại thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Trị. Chương trình diễn ra trong không khí ấm áp, thâm tình, để lại nhiều ấn tượng trong lòng mọi người. Chính sự trân quý, đón nhận nồng nhiệt của độc giả, đã tiếp thêm sức mạnh tinh thần, khơi nguồn cảm hứng để Như Mai tiếp tục cầm bút sáng tác, và rồi hạ sinh đứa con tinh thần thứ ba Vườn cổ tích, do Nxb. Hội Nhà văn ấn hành năm 2015. Tập thơ này vẫn đánh dấu sự tiếp nối “lối mòn truyền thống” của hai tập thơ trước nhưng cũng đã khẳng định được nét riêng về một kiểu tư duy mới, lạ khác hơn, hấp dẫn hơn của phong cách thơ Như Mai. Cũng giống như Bên kia tít tắp đại dương, tác phẩm này vừa mới ra đời lại được bạn đọc trân quý đón nhận, khen ngợi và mong được gặp gỡ, giao lưu nữ sĩ Như Mai thêm một lần nữa. Trước sự yêu mến đó, Như Mai không thể khước từ, trái tim thổn thức hướng về bạn đọc ở quê nhà, và rồi phải lại lặn lội bay về để thực hiện sở nguyện đó.

2. Thơ Võ Thị Như Mai như một “điệu hồn” nhằm hướng đến các giá trị toàn diện về chân lý của cuộc sống, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, có tính giáo dục đối với thế hệ hôm nay và mai sau, mà không dễ nhà thơ nào cũng có được. Thơ Như Mai khá đa dạng về đề tài, chủ đề nhưng nổi bật nhất, bao trùm nhất vẫn là cảm thức về nguồn cội. Phải nói rằng, tình thơ của Như Mai về chốn quê, đất nước, gia đình, người thân, bè bạn và ký ức tuổi thơ, những thôi xao của thuở ban đầu,… đã toả khắp mọi nẻo đường thơ của chị. Cái tình hiện diện trong thơ Như Mai chính là cái tình chung.

2.1. Quê hương đã trở thành một biểu tượng (Icon) tiêu biểu nhất, tạo nên sắc thái cũng như nghệ thuật thơ độc đáo, đa nghĩa trong suốt hành trình thơ Như Mai. Mỗi chúng ta, ai cũng có một làng quê riêng. Chốn quê ấy chính là cội nguồn - nơi chào đời, lớn lên và trưởng thành. Quê hương - hai tiếng thân thương đã trở nên gần gũi, ngự trị trong trái tim của mỗi người và đã trở thành một sức mạnh tinh thần lớn lao đối với mỗi người dân Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nên nếu một ai đó, lãng quên hay không nhớ đến quê hương, ắt người đó sẽ “không lớn nổi thành người”. Quê hương cũng chính là nơi thổn thức, nỗi nhớ mong tìm về của những người sống xa quê trong những tháng năm phiêu linh, rong ruổi mưu sinh. Bởi chốn quê ấy, là nơi chúng ta được dưỡng nuôi lớn khôn từ bàn tay rám nắng của người cha, từ đôi gánh lưng còng lam lũ, vất vả và từ những lời ru ngọt ngào ngày đêm của mẹ, từ những câu chuyện kể dân gian rất ấm áp tình người của ông bà,... Nhưng xuất phát từ hoàn cảnh của mỗi người khác nhau nên sự gắn bó máu thịt nơi chôn nhau cắt rốn cũng có sự riêng khác. Viết về nguồn cội, mỗi nhà thơ cũng có cách thể hiện riêng, mang hương vị ngọt bùi riêng. Quê hương trong thơ Như Mai vì thế cũng có một linh hồn, linh khí mang dáng rất riêng, khác với các nhà thơ khác. Hơn mười lăm năm rời xa quê hương, để sang dịnh cư Tây Úc xa xôi ngút ngàn, nghìn trùng cách trở vời vợi, Như Mai vẫn luôn canh cánh nỗi niềm da diết, luyến thương về chốn quê, vẫn luôn mong tìm về nơi một thời gắn bó vui buồn, ân nghĩa quanh đời. Bắt nguồn từ những tình cảm chân thành, tha thiết của một người con xa xứ, Như Mai đã viết nên những bài thơ về nguồi cội rất đỗi chân thành, giàu xúc cảm. Mỹ Chánh - quê hương nguồn cội, miền nhớ thương “như một chiếc cầu tre bắc ngược” để dẫn dắt Như Mai tìm về với dòng chảy của ký ức một thời ấu thơ đã từng sống, từng gắn bó. Cội nguồn của nữ sĩ Như Mai là một làng quê nhỏ bé, xinh xắn, rất đỗi thân thương, gần gũi, với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, với những đường nét đặc trưng mang hồn cốt của làng quê Việt. Nơi đó, có con sông Ô Lâu huyền thoại tươi mát, xanh thẳm; có cánh đồng thẳng cánh cò bay; có đình làng, mái chùa rêu phong cổ kính; có bến nước, cây đa đầu làng; có cánh diều bay, có bụi tre xào xạc buổi trưa hè; có canh rau muống chấm cà dầm tương,... Dòng sông Ô Lâu tình sử chính là biểu tượng, là linh hồn của quê hương Như Mai. Sông Ô Lâu đã từng gắn bó với số phận của quê hương, của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Quanh năm con sông này, cũng đã mang phù sa về bồi đắp bao làng, trù phú và tươi tốt thêm cho hoa trái, thêm nguồn lợi thủy sản cho người dân nơi đây. Những người sống xa quê hương như người thơ ắt hẳn phải luôn hoài nhớ, luôn hồi tưởng về “con sông quê hương” ấy: “dòng Ô Lâu huyền hoặc từ Huế chảy ra/uốn lượn như trăn ngoằn ngoèo ngọn nước/tình sử miên man bắt nguồn bao câu hò khói sóng/hoài vọng ngày về len lén vào tâm thức người đi xa/quê hương choàng vai đón em trở về vạt áo chị”. Biểu tượng không gian văn hóa nơi làng quê Như Mai đâu chỉ có dòng sông Ô Lâu gắn với câu chuyện huyền thoại xa xưa, mà còn có đình làng, văn miếu, bến nước, gốc đa, bãi chợ vườn rau, đường thôn lát gạch quanh co,… Ở đó có thờ đức Thành Hoàng, các Phúc thần, là nơi sinh hoạt, hội họp việc làng về hành chính và tôn giáo; đồng thời đây cũng là nơi dệt nên vóc, nên hình những mối tình trai gái yêu nhau,... Tất cả, đã đi vào tâm thức của mỗi người dân như một hình ảnh gắn bó mật thiết, bền chặt với cuộc sống, với tình yêu lứa đôi, với những người con xa quê luôn hướng về nguồn cội: “có khói quê hương có dòng sông xanh thẳm/con đò lơ thơ bến chiều cau phất phơ thanh mảnh/rưng rức vọng về tiếng đình làng bãi chợ vườn rau/những con đường rẽ vào thôn lát gạch quanh co/nét trầm tư nhà rường, văn miếu/cây thị cổ xưa đâm hoa kết trái/quả mọng vàng thơm đung đưa theo quang gánh của bà” (Chị ơi).

vo-thi-nhu-mai-1635682289.jpg
 

 

vo-thi-nhu-mai1-1635682289.jpg
 

Như Mai còn tự hào về truyền thống lịch sử đánh giặc ngoại xâm của quê hương anh hùng. Ngay cả khi dạy các em học sinh trường Dryandra và South Ballajura - Tây Úc, chị vẫn thường kể về quê hương anh dũng, về lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc: “này những cuộc chiến/tôi cứ nghĩ đã lùi xa nơi nào thăm thẳm lắm/tôi không biết phải nói các em nghe thế nào/về những làn đạn bắn như mưa/lên mảnh đất nuôi tôi khôn lớn...“. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu mến, ngợi ca cũng như sự tự hào của tác giả về những người con trung trinh, quyết tử vì Tổ quốc, vì quê hương được giải phóng, hòa bình. Qua đó, khẳng định được một niềm tin phơi phới của tác giả đối với quê hương, với đất nước hôm nay và mai sau sẽ giàu đẹp hơn, sáng tươi hơn: “đất nước tôi bây giờ bình yên, rộn rã, tưng bừng/những linh hồn bé bỏng lại sinh sôi” (Một chút suy tư).

Làng quê Như Mai cũng như một số làng quê khác của miền Trung - một vùng đất thấp trũng, bão, lụt quanh năm, đời sống người dân rất cơ cực, khó khăn nhưng tinh thần vẫn luôn lạc quan, yêu đời, vẫn kiên cường chống chọi với mưa bão, lũ lụt. Năm 1983, vẫn còn đó trong ký ức về trận bão, lụt kinh hoàng nhất, chưa từng thấy trong lịch sử của quê hương Như Mai. Nó đã tàn phá nặng nề, để lại hậu quả bi thảm về tài sản cũng như tính mạng con người. Đọc bài thơ Mỹ Chánh ký ức tuổi thơ, độc giả không khỏi xốn xang, thương xót trước cảnh gia đình, người thân của người thơ cũng như người dân nơi dây đang vật lộn, chống chọi với cơn bão, lũ hung dữ: “đó là trận lụt của năm tám mươi ba/anh cõng bà nội lên tra/o ngồi co ro trên cái tủ/người ta đồn/thuyền chở ba mẹ nhấn chìm trong lũ.../mỗi năm đến mùa bão cứ dòm lên lịch/vái ông trời, cho Mỹ Chánh lặng yên”.

            Tôi cũng như bạn đọc đã thấu hiểu nỗi vất vả, khổ đau từ ngàn xưa người dân quê Như Mai cũng như người miền Trung nói chung phải trải qua, gánh chịu. Bão, lụt vì thế đã trở thành một nỗi ám ảnh thường trực trong tâm thức của mỗi người dân nơi đây. Từng gắn bó với chốn quê nên có nhiều kỷ niệm vui buồn, sướng khổ, không thể nhòa nhạt trong trí nhớ, trái tim của Như Mai. Nỗi nhớ quê vì thế luôn cồn cào như con sóng vỗ, như con thuyền lênh đênh không bến đậu, nhất những khi Xuân về, Tết đến Như Mai lại rất nao lòng, nhớ đến da diết, hầu mong được trở về đón Tết cùng gia đình, bè bạn: “mùa xuân này con đón Tết online/đón Tết qua phone nghe tiếng Mẹ ấm trong hơi thở/đọc thơ bạn đó đây yêu mùa xuân lách khách cười hớn hở” (Đón Tết).

Nỗi nhớ quê có khi chỉ là những cái bình thường nhất, giản dị nhất như: nhớ tô cháo vạt gường, bầy trẻ con tinh nghịch, cụ già móm mém nhai trầu,... nhưng lại hết sức gần gũi, không thể nào quên được trong tâm khảm Như Mai: “nhớ tô cháo vạt giường của cô bé tóc dài thanh lịch/bạn dang tay mỉm cười đón bầy trẻ con tinh nghịch như những cụ già móm mém nhai trầu tươi" (Hẹn ngày về).

2.2 . Đọc thơ Như Mai, độc giả còn thưởng thức một số bài thơ về gia đình như ông bà, cha mẹ, anh chị, thầy cô, bạn bè,... rất ngọt ngào, ấm áp. Gia đình - nơi tình cảm thiêng liêng nhất, nơi nương náu, trở về bình yên nhất đã trở thành nguồn cảm hứng dào dạt, một hình tượng đẹp lấp lánh trong sáng tác Như Mai. Chị viết về những người thân yêu trong gia đình của mình từ cái nhìn nhân văn sâu sắc, với tất cả những vẻ đẹp về tâm hồn sâu kín giàu nghĩa tình, nhân ái và thủy chung. Đọc các bài thơ Ngày mưa tiễn chị, Chưa có bài thơ tặng mẹ, Chị ơi,... tôi khẳng định với bạn đọc rằng, nữ sĩ Như Mai đã “nhận mặt quê hương trên gương mặt người thân” của mình. Ông bà, cha mẹ, chị em,... chính là hiện thân của những gì tinh túy nhất, là nơi lưu giữ vẻ đẹp văn hóa truyền thống của làng quê, vì họ chính là hiện thân của nguồn cội, mà người thơ luôn nhớ thương, đau đáu tìm về. Trong những gương mặt thân yêu nơi chốn quê ấy, Như Mai đã dành những tình cảm thân thương nhất về người bà, người mẹ, người anh, người chị,… của mình. Là một người phụ nữ nên Như Mai rất thấu hiểu được những thiệt thòi, mất mát, những vất vả sớm hôm của họ nơi quê nhà. Mỗi bài thơ Như Mai viết về họ, đều rưng rưng nỗi xúc động, chứa chan tình cảm trìu mến, yêu thương ngọt ngào. Nơi khung trời ký ức tuổi thơ, có những kỷ niệm Như Mai không thể nào quên, đó là hình ảnh của bà ngoại. Như Mai rất biết ơn, tự hào vì đã có ngoại, vì bà đã dành tất cả tình thương yêu nhất. Ngoại mất, không còn hiện tồn ở cõi nhân gian nữa, Như Mai thương tiếc vô hạn và đã viết nên bài thơ văn xuôi Ngoại để dành tặng riêng cho bà, đong đầy cảm xúc, tái hiện sinh động, chi tiết, rõ nét về cuộc đời của ngoại qua những dấu mốc thời gian, gắn với những kỷ niệm không bao giờ quên.

Đọc những vần thơ “Con muốn làm thơ tặng người thân/Nhưng không có bài nào cho mẹ/Câu chữ lời văn chợt nghèo nàn/Ngôn từ không suôn sẻ” trong bài thơ Chưa có bài thơ tặng mẹ, tôi mới thấu hiểu lời tâm sự rất chân thật của Như Mai khi viết về người mẹ kính yêu của mình. Như Mai con gái duy nhất trong gia đình, lại sống xa quê hương, ba mẹ nên trong lòng luôn ray rứt, quặn thắt. Cách trở ngàn dặm, Như Mai không thể gần gũi mẹ cha để trực tiếp phụng dưỡng, chăm sóc, vì thế không nguôi trăn trở, nghĩ suy trăm điều. Như Mai cầm bút viết về mẹ, vì thế trái tim lại nhói đau, lý trí lại trở xoay nên câu chữ, lời văn lại trở nên nghèo nàn, không suôn sẻ. Tôi nhớ hơn một lần Như Mai tâm sự rằng: “Cuộc sống của Mai rất ổn định, rất hạnh phúc bên chồng, con nơi xứ người. Nhưng lúc nào, Mai cũng không thôi suy nghĩ, nhớ về gia đình của mình nơi chốn quê. Bởi nơi ấy, có ba mẹ giờ đã ngã bóng chiều đang ngày đêm mong ngóng. Nỗi lòng của Mai vì vậy rất ray rứt, nhớ thương cha mẹ đến quặn thắt ”. Tôi đồng cảm, sẻ chia cùng với chị khi nghe lời tâm sự cũng như đọc các tác phẩm viết về người mẹ của chị. Đọc bài thơ này độc giả cảm nhận được nỗi nhớ, lời thủ thỉ của người thơ về ký ức một thời được sống cùng mẹ, được mẹ chăm bẵm lớn khôn: “mẹ cả đời lận đận với tụi con, với ba/lận đận cả một thời con gái/những ngày chiến chinh, khổ đau ai cũng trải/khi đất nước yên bình, và tụi con lớn rồi/mẹ vẫn oằn mình lo chuyện áo cơm” (Chưa có bài thơ tặng mẹ). Như Mai cũng trân trọng, đáp tạ người chị gái ruột của mình qua những bài thơ giàu cảm xúc, rất chân thành như Ngày mưa đưa tiễn chị, Chị ơi,… Vẫn còn đó trong ký ức hằn in về một người chị hiền từ, biết chăm lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho Như Mai mỗi khi mẹ vắng nhà. Chị còn sẻ chia với Như Mai những lúc vui buồn, những điều thầm kín không dám nói với mẹ. Những yêu mến, đùm bọc của chị dành cho Như Mai cũng không được bao lâu, thì chị đã ra đi về với tiên tổ khi đương còn vẹn nguyên đôi mươi: “chị tôi vừa được đôi mươi/vầng trăng kia đã lên ngôi bao giờ/chị đi để lại vần thơ/để em ngóng, niềm thơ dâng đầy” (Ngày mưa tiễn chị).

Chắc có người sẽ tự hỏi rằng: Vì sao nữ sĩ Như Mai không viết về người cha của mình? Lẽ dĩ nhiên thường tình, đã viết về người thân trong gia đình, không có nhà thơ nào lại viết về mẹ nhưng lại không viết về cha và ngược lại. Duy có một điều, các nhà thơ luôn hiểu rằng: “Nguyên lý mẹ - Huyền Tẫn - chất mẫu thân luôn bàng bạc giữa đời sống, và sự rung động bất chợt là khi con người cảm được cái tính Huyền Tẫn ấy, nó cũng là mẹ đẻ của thi ca”, nên khi viết về người thân thường hay ưu ái viết về mẹ, về chị của mình hơn. Đương nhiên ở đây, tôi không hoàn toàn làm một bài toán để so sánh sự nặng hơn và nhẹ hơn giữa người cha và người mẹ, vì thơ ca muôn đời không làm cái chuyện cân đo, đong đếm như thế. Cũng như bao nhà thơ khác, Như Mai vì thế vẫn viết về người cha cần cù, chân chất và nhân hậu của mình. Như Mai rất tự hào, luôn ngợi ca về người cha của mình vốn xuất thân từ mái nhà tranh, từ rợm rạ, bùn đất nơi chốn quê nghèo nhưng tinh thần lúc nào cũng lạc quan, yêu đời. Rất là thương, Dặn bố,… là những bài thơ chị viết về cha khá hay, thể hiện tấm lòng kính yêu đối với người cha cao cả và lớn lao dường nào. Như Mai rất kính yêu cha vì cha đã mang đến một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc. Cha là người dung dị, hiền lành, việc trong việc ngoài cha đều lo toan, đỡ đần, gánh vác dùm mẹ. Không thể nào quên những lúc cha ngược xuôi, quặn đau khi Như Mai bị té ngã hay đau ốm. Những lúc ấy, khuôn mặt cha trở nên hốc hác, đôi mắt quầng thâm nhưng cha vẫn nở nụ cười đầy tin yêu, trìu mến: “con yêu thương bao điều dung dị/yêu ánh mắt bố xót xa buồn khi con ngả thật đau/yêu giây phút cả nhà mình cùng thổi nến bên nhau/líu lo chim hót/bố đón con về sớm” (Dặn bố).

Ngoài người thân trong gia đình, Như Mai còn dành tình cảm với   bạn bè, đồng nghiệp, đồng văn,... ở chốn quê. Hiện tại Như Mai đang sinh sống ở hải ngoại, rất xa cách, thời gian đã thay đổi đi nhiều thứ nhưng tình bạn vẫn luôn tròn đầy, vẫn như thuở ban đầu. Như Mai mãi nhớ những người bạn một thời ấu thơ cắp sách đến trường, cùng nhau nô đùa, giúp đỡ nhau trong học tập, trong cuộc sống. Dù chỉ là một chút kỷ niệm nho nhỏ cũng đủ để Như Mai dựng lại một thời đầy thơ mộng, vô tư của tuổi mực tím: “đó là những ngày thần tiên/lội sình qua kênh thăm cô giáo/thằng Chiến tổ trưởng/năm nào cũng nhận phần thưởng/giờ lang thang ca khản cổ khắp làng...” (Mỹ Chánh trong ký ức tuổi thơ). Đong đầy với bạn bè đồng nghiệp cùng chung niềm đam mê, tình yêu với nghề dạy học, gieo những con chữ, chắp cánh ngọn lửa về ước mơ, niềm tin và hi vọng của bao thế hệ: “cô giáo vào phòng thi/hồi hộp đến lạ kỳ/như học sinh cuối cấp/lịch trình - cẩn thận ghi/một năm dài bất tận/bài giảng vang sân trường/miệt mài trang giáo án” (Cô giáo vào mùa thi).

Những bạn bè thân thương ngoài đời cùng sẻ chia trong cuộc sống cũng đã đi vào thơ Như Mai. Tháng tư, Nhớ sinh nhật Điền, Này Kim, Viết cho sinh nhật Kim, Sinh nhật phương xa, Viết về tình bạn, Bạn và tháng ba, Những người bạn gái,… là những bài thơ Như Mai đã hun đúc nên từ tình bạn thân thiết, quý mến nhau trong những lần gặp gỡ, hò hẹn. Thật đúng khi một ai đó nói rằng: “Tình bạn là người anh em mà Chúa đã quên không gửi vào gia đình”.

Người lính trong thơ Như Mai không phải là mạch nguồn chính, nhưng các bài thơ chị viết về người lính cũng khá hay, giàu cảm xúc, có ý nghĩa thời sự. Sống trong thời bình, nhưng người lính nơi biên giới, hải đảo,... vẫn luôn sẵn sàng nắm chắc tay súng để giữ gìn từng tấc đất, bầu trời thiêng liêng của Tổ Quốc. Trong những ngày hè nóng bỏng của tháng 5 năm 2014, khi nghe tin biển Đông lại dậy sóng trước việc Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của nước ta, Như Mai đã sáng tác bài thơ Hướng về biển Đông. Bài thơ xuất phát từ trái tim nồng cháy rạo rực, đau đáu của một người con xa xứ yêu nước nồng nàn nên đã tạo được sự đồng cảm của hàng triệu trái tim mang dòng máu con Hồng cháu Lạc đối với những người lính đang ngày đêm canh giữ biển đảo của Tổ Quốc (Hướng về biển Đông). Người lính thời bình đều có tri thức, năng động trong nghiên cứu khoa học, trong công việc, đồng thời cũng rất dũng cảm đối mặt với những khó khăn trong mọi hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Họ vừa mang phẩm chất anh hùng, cao cả, vừa dung dị, đời thường (Người lính trong tôi).

2.3. Chính tình yêu nguồn cội da diết, mãnh liệt của một tâm hồn đầy đa cảm, một niềm say mê vô tận với cảnh sắc thiên nhiên, Như Mai đã dạo bước qua từng miền quê của đất nước. Những nơi nào chị đến đều ghi lại dấu ấn qua thi ca. Với Như Mai, Huế không chỉ đẹp và thơ về cảnh sắc thiên nhiên, về các công trình kiến trúc cổ kính. Huế còn làm say đắm khách lãng du, khi ngắm nhìn những cô gái Huế bầu bĩnh trái xoan, tóc thả ngang vai, thướt tha tà áo trắng, đội nón bài thơ đi trên đường phố mỗi khi tan trường: “người con gái Huế tất nhiên dịu dàng/người con gái Huế tất nhiên đảm đang/tóc thả ngang vai, mặt trái xoan bầu bĩnh/nữ sinh Đồng Khánh, tà áo trắng thướt tha” (Người con gái Huế). Nét đẹp của cô gái Huế dịu dàng, thướt tha đã từng làm say lòng bao chàng trai, mà câu ca dân gian truyền tụng: “Học trò xứ Quảng ra thi/Thấy cô gái Huế chân đi không đành”. Ngay trong thi ca, rất nhiều nhà thơ viết về cô gái Huế, thế nhưng đọc Người con gái Huế của Như Mai vẫn có nét riêng khác, vẫn có một ấn tượng riêng về cô gái Huế. Về với Bắc Ninh - vùng đất văn hóa châu thổ sông Hồng để dự hội Lim, Như Mai có được dịp chứng kiến những trò chơi dân gian vui nhộn (đập niêu, thổi cơm thi, đấu vật,...), ngắm nhìn những đôi nam nữ mang trang phục truyền thống, đội nón quai thao, hát những làn điệu quan họ ngọt ngào, ăn những miếng trầu têm cánh phượng,… Với không khí tươi vui đó, chị đã sáng tác bài thơ Hội Lim về. Bài thơ có câu từ chặt chẽ, tình thơ chân thật, gợi nhiều cảm xúc nơi người đọc: “hội Lim về áo chẽn em mân mê/tần ngần trước gương, ướm xem, hồng đôi má/anh yêu hội Lim, ngẩn ngơ áo lụa là kẻ lạ/phong nhã, thanh cao, câu hát dặm nhún nhường/à ơi dải yếm mười thương/ướt mềm lòng anh - dáng ngà, sâu lắng”. Từ mạch thơ trữ tình đó, độc giả tiếp tục đọc những bài thơ, tản văn khác viết về đề tài này như Hình bóng Nha Trang, Và em cũng yêu Hà Nội, Sài Gòn rực rỡ sắc màu, Rưng rưng cùng tháng Ba hoa gạo,… sẽ nhận diện rõ hơn nữa một nữ sĩ Như Mai đa tình, đa cảm và sâu đậm, thao thiết một tình yêu quê hương, đất nước diệu vợi.

3. Đọc từ tập thơ đầu tay Tản mạn thơ đến Bên kia tít tắp đại dương và qua Vườn cổ tích, nguồn cội đã trở thành cảm hứng chính trong quá trình sáng tác của Võ Thị Như Mai. Qua mỗi chặng đường thơ, bạn đọc cảm nhận được nỗi niềm của nữ sĩ Như Mai - người con tha hương luôn nặng tình hướng về nguồn cội. Thành quả hôm nay Như Mai có được, vừa thể hiện một hành trình lao động nghệ thuật hăng say, cần mẫn như con tằm kén tơ, vừa rất xứng đáng đứng vào đội ngũ các nữ nhà thơ thuộc thế hệ Đổi mới của Việt Nam. Hi vọng, Nàng thơ mãi mãi là mối  tình vẹn nguyên, thủy chung, sâu đậm nhất cùng Như Mai tiếp tục đi qua những nẻo đường tháng năm hạnh phúc, muộn phiền, cô độc,... để chưng cất lên những vần thơ trong sáng, thuần khiết, đem đến người đọc một hương vị mới, lạ hơn. 

 

 

 

 

 

 

 

Bạn đang đọc bài viết "Cảm thức nguồn cội trong thơ Võ Thị Như Mai" tại chuyên mục Văn hóa - Xã hội. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn