Người con yêu nếp làng

Xa làng quê chiêm trũng để lập nghiệp nơi phố thị đã hơn 20 năm nhưng trong từng câu chuyện, lời văn của Nguyễn Văn Học vẫn luôn thấm đẫm hồn cốt làng quê. Mới đây anh cho ra mắt tập ký “Thân thương làng” (NXB Văn học, năm 2023) càng làm độc giả hiểu rằng anh yêu làng quê đến nhường nào.

Đi trăm nơi vẫn luôn nhớ về làng

tac-gia-1688381716.jpg
Tác giả Nguyễn Văn Học

Tôi gặp và quen nhà văn Nguyễn Văn Học tại một cuộc thi viết về hôn nhân gia đình do báo Phụ nữ Thủ đô tổ chức mấy năm trước. Cho dù chỉ là một cuộc thi quy mô nhỏ nhưng anh Học vẫn dành nhiều tâm huyết, thời gian để dự thi cho dù rất bận rộn với công việc tại Báo Nhân Dân.

Từ ấn tượng đó, tôi càng hiểu sâu hơn về con người, cá tính và xu thế viết văn, viết báo của anh. Văn Học không “nể nang” bất cứ đề tài nào, dẫu có phải trực tiếp tác nghiệp tại nơi xa xôi, vất vả, cho dù nhuận bút chẳng là bao. Điều mà Văn Học nhận trân quý hơn cả là sự gia tăng vốn sống, trải nghiệm và đối chiếu văn hóa vùng miền.

nep-lang-1688381790.jpg
 

Văn Học đi rất nhiều nơi, có lẽ đã đặt chân lên hết 63 tỉnh thành cả nước nhưng nơi anh thích nhất vẫn là về các làng quê chứ không phải nơi phố thị hoa lệ hay những nơi hiện đại, hào nhoáng. Anh cũng rất khoái khi được tiếp xúc với các “báu vật sống” ở các làng, đó là các nghệ nhân, bậc cao niên uy tín hay những thân phận mang nhiều ngặt nghẽo của cuộc đời, ở đó có những câu chuyện hết sức giản dị, bình sinh và chan chứa tình người.

Nguyễn Văn Học sinh ra tại xã Minh Tân (huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội), nơi mà một con gà gáy ba tỉnh đều nghe rõ (Hưng Yên, Hà Nam và Hà Nội). Là anh cả trong gia đình nghèo có bốn anh em trai, Nguyễn Văn Học phải sớm học cách trồng rau, cuốc đất để phụ giúp bố mẹ nuôi các em. Chính những ngày tháng ấu thơ chứng kiến sự vất vả của bố mẹ cũng như những người dân trong làng đã khiến anh sau này dù có đi ngược về xuôi cũng luôn thương mến những kỷ niệm về làng, nơi đã nuôi anh khôn với với một tâm hồn trong veo.

Ngay từ hồi còn đi học trường làng, anh đã làm được những bài thơ rất vần, rất điệu và ngữ liệu của những vần thơ đó chính là sự vất vả nhưng cần cù, sự nghèo khó nhưng thanh bần của những người nông dân quê anh.

Lớn lên, anh cũng ước mơ học hành thật giỏi để “đổi đời” như bao bạn bè đồng trang lứa nhưng Nguyễn Văn Học không mơ về nhà lầu, xe hơi hay sống trong một đô thị ồn ã, “chín người mười làng” mà luôn nghĩ... về quê, sự quê đó đã không ít lần bị bạn bè chê bôi là quê mùa. Không phải vì thiếu động lực làm giàu cũng chẳng phải không có chỗ đứng tại nơi đất chật người đông mà Văn Học về quê để gìn giữ lại những gì tinh túy, hồn cốt của làng quê – vì làng mang bản sắc văn hóa riêng biệt, vì làng mãi là gốc gác của mọi người dân Việt Nam.

Đãi cát tìm “nếp làng”

bia-tap-ky-than-thuong-lang-1-min-1688381951.jpg
Bìa tập ký “Thân thương làng”

Tập ký “Thân thương làng” gồm 31 bài, chủ yếu viết về những vùng nông thôn, làng văn hóa, làng cổ ở Hà Nội. Ở đó, nhiều nơi còn giữ gìn được những nét đẹp, hàng cổ thụ, giếng cổ, nhà cổ cũng như nhiều giá trị truyền thống. Song cũng không ít nơi đang bị đô thị hóa mạnh mẽ, làm mai một không ít vẻ đẹp di tích, nếp sống và cả cách ứng xử lâu đời. Nhiều bài viết có sự tìm hiểu, tìm tòi kỹ lưỡng, gặp gỡ những nhân vật đã và đang hết lòng góp nhặt giá trị. Khi viết về quá trình đô thị hóa, làng lên phố, anh thể hiện sự xót xa: “Trong quá trình đô thị hóa, làng lên phố, cái được thì dễ thấy, nhưng có những cái mất âm thầm khiến nhiều người không khỏi tiếc nuối. Ấy là nếp nhà gia phong, mối quan hệ xóm giềng ngày càng nhạt nhòa; rồi tệ nạn xã hội, vi phạm trật tự đô thị... cũng len lỏi trong mỗi khu dân cư. Thực tiễn này đáng trăn trở biết bao...”

Phải nói rằng, Nguyễn Văn Học là người rất tỉ mỉ, chịu khó dấn thân và không bỏ qua bất cứ chi tiết nào có giá trị. Chỉ cần đi qua một ngôi nhà cũ, một giếng nước cổ, một cây cổ thụ hoặc một cụ già đẹp lão, anh đều xin vào chụp ảnh “check-in”, rồi từ những chi tiết nhỏ đó viết nên một câu chuyện mang hơi thở của làng như Chuyện cây đa Giời ơi ở thôn Phúc Lâm (huyện Phú Xuyên), chuyện về rặng bờ rào xanh mát ở Chương Mỹ hay cây cầu “thượng gia hạ kiều” ở làng cổ Bình Vọng (huyện Thường Tín).

Đã không biết bao nhiêu lần nhà văn về thăm làng nghề thêu ren Quất Động (huyện Thường Tín), lần nào về anh phải tìm bằng được những điều thú vị hoặc những góc khuất của làng nghề mới chịu ra về. Trong đó có tâm huyết và nỗi khắc khoải của nghệ nhân gạo cội Nguyễn Quốc Sự về sự hưng thịnh của làng nghề, về lớp kế cận đang không còn mấy tin vào con đường làm giàu từ nghề truyền thống. Hay những vấn đề về môi trường, môi sinh tại làng nghề phải xử lý như thế nào...

Anh không phải người bảo thủ, sính cựu khinh tân mà anh biết chọn lọc những vẻ đẹp của làng và sẵn sàng phê phán những hủ tục, lạc hậu, nếp sống phong kiến. Như trong bút ký “Khi làng lên phố”, anh cùng các bậc cao niên đều khẳng định rằng đô thị là cái tất yếu và cái chất làng, xã với bao lối ứng xử gần gũi thân thương sẽ phải giảm sút, thu nhập của người dân tăng lên, cuộc sống đỡ phần nào vất vả. Nhưng đô thị hoá với tốc độ như thế nào, đô thị hoá có đi kèm với bảo vệ các giá trị văn hoá cốt lõi hay không mới là vấn đề đáng lưu ý như nhận định của PGS.TS Nguyễn Thị Phương Châm nêu ra trong tác phẩm: Trong quá trình đô thị hoá có những thách thức đánh đổi. Chính quyền và người dân phải nhận ra rõ để những điều đó có giải pháp hạn chế, ngăn ngừa.

Như Văn Học chỉ ra trong bài “Đâu rồi húng Láng”? Rõ ràng, trong một đô thị mà tấc đất tấc vàng như Hà Nội thì việc dành đất để trồng húng Láng chẳng đem lại mấy giá trị kinh tế, còn chẳng bằng 1/10 của việc xây dãy nhà cho thuê trọ, dĩ nhiên húng Láng sẽ chỉ còn ở lại trong thơ ca, trong trí nhớ của các bậc cao niên. Cái mà Văn Học muốn nêu lên chính là những người con ở đất húng Láng xưa nên biết, nên nhớ về một thời mảnh đất này đã làm nên thương hiệu của một loại rau gia vị trứ danh và đừng bao giờ rũ bó quá khứ huy hoàng đó.

Thời đại công nghệ phát triển, nhà báo có thể thực hiện tác nghiệp online trong trường hợp không có điều kiện xuống hiện trường. Nhà văn tâm sự: “Tôi chẳng mấy khi làm thế, hễ cứ rảnh bất chấp trời nắng hay mưa là lại tìm về làng, cho dù làng đó tôi đã đến cả chục lần, có số điện thoại của đầy đủ lãnh đạo thôn xã. Với tôi, về làng như một liều thuốc tinh thần hằng ngày, về làng để ngửi mùi hương sen thơm ngát ở đình làng, được đi trên những bó rơm bó rạ thơm nồng dải đầy đường làng hay tắm mình dưới bóng mát của các cụ cây ngàn tuổi, hoài niệm về ngày xưa xanh mát”.

Đọc hết tập ký “Thân thương làng”, thấy được rất rõ những gì làng đã và đang mất mà anh chỉ ra. Đó không chỉ là sự thu hẹp dải lụa xanh cánh đồng thẳng cánh cò bay bằng những khu công nghiệp ngột ngạt, hay những giếng làng, rặng cây xanh bị “xóa sổ” mở rộng diện tích đất ở dân cư mà anh lý giải được rằng tại sao trẻ em hiện nay chỉ thích điện thoại, điện tử mà không hề biết các trò chơi dân gian xưa, tại sao giới trẻ khi lên thành phố lập nghiệp chẳng muốn về quê nữa.

Nhưng ở chính ngôi làng đó có thật nhiều điều diệu kỳ mà thế hệ trẻ không biết mà chỉ có một số cụ cao niên còn nhớ thoang thoảng trong ký ức. Đó là những làn điệu dân ca “sinh ra từ làng” như ca trù, hát trống quân, hát dô, hò cửa đình, rối cạn... được Nguyễn Văn Học phát hiện và tìm cách để chấn hưng những giá trị tưởng chừng đang mất hẳn đó. Những bài báo, bài ký của anh thấm đẫm tình cảm của một con người như thuộc về ngôi làng mà anh đã đi qua, khoét sâu vào sự thay đổi quá nhanh khiến cho những giá trị văn hóa truyền thống ít nhiều bị lung lay.

Đọc hết tập ký của anh, bạn đọc sẽ thấy được những không gian làng Việt được xuất hiện qua tập sách nho nhỏ. Anh sử dụng từ ngữ giản dị, ít kỹ thuật, lắt léo, chính điều đó đã tạo ra sự gần gũi cho bạn đọc. Ai đã từng gặp anh chắc chắn sẽ có chung một cảm nhận rằng, anh yêu thiên nhiên, không màng vật chất chẳng cần danh lợi, trong anh có thứ cảm xúc thuần khiết, yêu làng quê, cây đa, bến nước sân đình đến da diết.

Tôi tin rằng với bút lực dồi dào và phong cách đã được định hình rõ ràng, cùng với tố chất “làng quê” luôn sôi sục trong máu Văn Học, chủ nhân của hơn 30 đầu sách sẽ tiếp tục cho ra mắt những cuốn sách hấp dẫn, thú vị và thắm đượm tính nhân văn phục vụ bạn đọc, phục vụ công cuộc gìn giữ và bảo tồn bản sắc văn hoá Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.