Nhật ký "Lính chiến": Chiến trường Quảng Đà Tết Nguyên đán Kỷ Dậu - 1969 và lần đầu chúng tôi đánh Mỹ (Kỳ 3):

Đặng Vương Hưng (Biên soạn và giới thiệu)

21/12/2022 22:17

Theo dõi trên

Ngày 10/01/1969, núi rừng trập trùng suối sâu, dốc cao đi mãi không hết. Chúng tôi đến bản Bà Băng thuộc huyện Tây Giang.

Lúc này Trung đoàn Cửu Long thuộc Mặt trận 4 tải gạo nộp cho Mặt trận. Từ đây Trung đoàn chia làm hai hướng: Trung đoàn bộ k7, K8 và các Đại đội trực thuộc quân số 2/3 đi về dốc Mây xuống vùng A Đại Lộc.

K9 cùng các Đại đội trực thuộc với 1/3 quân số đi về ngã 3 nước, xuống vùng Hòn Tàu - Duy Xuyên.

d1qs1-1671635549.jpg
Lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam (ảnh do tác giả sưu tầm chỉ mang tính minh hoạ).

 

Ngày 16/1/1969, hai hướng hành quân cùng tiến đến bản Bà Ghì. Số lương thực mang trên vai phải nộp vào kho cho Mặt trận. Cấp trên thông báo ăn rút bát, mỗi ngày chỉ 4 lạng gạo, đói bắt đầu từ đây.

Chúng tôi lấy rau rừng, kiếm sắn, đào củ mài, củ móng ngựa, tai voi, dương xỉ, quả trám làm thức ăn.

Hôm trước Trung, xạ thủ số 1 kiếm dọc mùng về ăn. Ông Biên thấy vậy hôm sau lấy dọc ráy về tước làm một rá. Đến bữa ăn vào, mọi người đều móc họng. Lương Tiểu đội phó, Dậu xạ thủ số 2 đi lấy củ Lưa về luộc ăn. Mấy hôm sau ông Biên đi lấy củ ráy về luộc cho cả Tiểu đội ăn, khổ ơi là khổ.

d2qs2-1671635602.jpg
Giấy chứng thành tích chiến đấu của Phạm Hữu Thậm.

 

Ngày 24/01/1969, đơn vị đến bản Bà Lừa thì có lệnh dừng lại, triển khai đào trận địa đánh địch đổ bộ đường không.

Lúc này bụng đói, hai người khiêng một cây gỗ làm nóc hầm lê không nổi.

Lính mới lần đầu vào chiến trường, cứ thấy tàu già bay, trực thăng bắn đã khiếp rồi, lại thêm địch thả truyền đơn máy bay L19 gọi loa chiêu hồi suốt ngày đêm.

Ngày 28/01/1969 Bình, Trinh đi mót được ít sắn về luộc cho cả Tiểu đội ăn. Đơn vị họp kiểm điểm, cuối cùng cả 3 chúng tôi phải khai trừ Đoàn.

*

Chiều 30 Tết (26/01/1969) tôi, Điêm, Anh, anh Trò, anh Chách, chặt gỗ đói mờ cả mắt. Anh Biên đi nhổ khoai bông ngứa ở suối. Tối vào bếp anh nuôi lấy xoong rồi bẻ trộm một mẩu bánh mari cô, dốc một ít mì chính rồi đem ra suối nấu canh môn ăn. Lính đói húp nhiều nước chóng no, nhưng cũng chóng đói.

Quản lý Cời đến Tiểu đoàn 9 lấy được 2 kg thịt heo đem về thái, chia mỗi người được 2 miếng, gắp với 2 lạng gạo. Bữa tối 30 Tết chỉ có thế.

Đến 19 giờ toàn Trung đội tập trung. Trung đội trưởng Tạo mở đài nghe Bác Hồ chúc Tết. Mỗi người được ăn nửa bánh lương khô.

Ngày 07/02/1969, K9 hành quân về hướng Đông, vượt bến đò Ràng sông Bung, trập trùng thác ngửa thác trông, đoàn quân đến vùng Quảng Nam, đóng trại nghỉ rồi làm lán hạ thổ.

Ngày 10/02/1969 vượt ngã 3, leo lên dốc 700, đến lưng chừng núi, một chiếc C130 bay lại bắn đạn 20 ly. Bộ đội có một số là lính mới bỏ chạy, làm 2 người bị thương.

Khoảng 15 giờ đến cửa Danh tranh thủ nấu cơm ăn. Khoảng 18 giờ các đơn vị ra cửa Danh đến bến đò Tý Xé, triền sông dài và đẹp, ngô, bí, thuốc dân trồng lên xanh mướt. Bốn con đò đưa bộ đội qua sông.

Một con đò vừa rời bến, Tiếu đội trưởng Vọng bám lấy mũi đò lôi lại để nhảy lên đò, cô lái đò thật thà kêu lên: “Chú bộ đội miền Bắc, sao chú nắm cứng cái đầu ghe cháu vậy?”. Bộ đội cười khúc khích.

Sang bên Thạch Bích, men theo sườn núi bờ sông, đến bãi ngô chúng tôi chui vào ruộng ngủ.

3 giờ sáng ngày 11/02/1969, chúng tôi tiếp tục hành quân. Hết khu vực ngô lúa thì đi vào suối 9 khúc. Đi ngược lên chừng 3km sáng rõ thì đến cửa rừng Dầu Dáo. Ăn cơm vắt rồi lại đi tiếp. Qua suối đá vượt dốc Tranh, sang bãi Căn, xã Sơn Phúc, thuộc huyện Quế Sơn nghỉ nấu cơm ăn.

16 giờ, 11/02/1969, chúng tôi xuống làng, qua thôn 3, thôn 2, thôn 1 tìm chỗ nghỉ, mắc võng ở vườn chè xanh, ở lại đây 2 ngày.

19 giờ, ngày 14/02/1969, chúng tôi mỗi người một vắt cơm, một bình nước hành quân qua Suối Cát, lên phía tây núi Hòn Tàu, qua Đá Chẹt, đến ngã 3 khu vực 5 mộ ở phía Bắc dãy núi Hòn Tàu. Triển khai nghỉ trong một khu hậu cứ cũ đã bị bom đánh tan hoang.

Ngày15/02/1969, Trung đội chuyển đến một cái dông sườn phía Bắc của điểm cao 800. Trung đội trưởng Hải, Đại đội phó Lý, Chính trị viên Trung hội ý… Rồi cho các Tiểu đội triển khai làm hầm trú ẩn, hầm chứa gạo.

Ngày 20/02/1969, Trung đội biên chế 2 lính mới một lính cũ để kèm nhau.

14 giờ chiều chúng tôi đi cửa danh Sơn Hiệp luồn theo các kẽ hang đá lổng khổng, đi vòng trên đập Vĩnh Trinh.

Nghe nói ở đây, ngày 21/01/1955, mật thám chỉ điểm cho quân Ngô Đình Diệm bắt 17 người mổ bụng khoét mắt và cho người còn sống vào bao tải buộc đầu vứt xuống đập.

Trên đường đi xuống vùng xuôi, nhiều lúc máy bay trực thăng bắn những dòng đạn lửa súng đại liên từ trên trời xuống; máy bay C130 thả đèn dù, pháo sáng; pháo ở các trận địa Núi Quế - Duy Xuyên bắn đến. Lính cũ chạy đến đâu chúng tôi chạy đến đó. Lấy được gạo, nhưng Đại phó Lý chỉ cho ăn 5 lạng một ngày. Đến Xuyên Trường, quân kho giao gạo moi từ bãi cát, 2 người 1 bao.

Ngày 06/3/1969, Mỹ đổ quân ở đập Vĩnh Trinh, đường danh Sơn Hiệp không đi lọt được, trinh sát đưa đường qua lối danh Hòa Bình.

Đường này dốc cao vòng đi lộn lại xa gấp rưỡi, xuống Sơn Trà 4, Sơn Trà 3 gùi được gạo lên rất khổ cực, vì luôn tránh địch phục kích, rồi còn phi pháo, về đến cứ mệt đói rã rời.

*

Ngày 10/3/1969 tại làng 2, K9 tức Đại đội 2, Tiểu đoàn 9, bộ đội bắn được con khỉ. Mọi người xúm lại xem một cảnh giác, 4 tên Mỹ xuyên sơn đột nhập vào chiếm được hầm, một chiến sĩ của ta phát hiện vớ khẩu Ak bắn mấy loạt, bon Mỹ nhào xuống chạy mất.

Vài giờ sau, pháo bắn, bom bỏ quần đi quần lại toàn khu vực đóng quân của ta. Trực thăng vũ trang 12 chiếc đến bắn phá dọn đường cho 20 chiếc trực thăng vận tải CH34 chở một Tiểu đoàn quân Mỹ đổ bộ xuống các nơi khu 5 Mộ, hang Đá Chẹt - Suối Cát.

Từ Danh Hiệp trở vào, chỗ nào cũng có lính Mỹ. Tiếng súng máy, súng cối nổ ran. Chúng tôi chưa gặp Mỹ nên cũng lo sợ. Ngày hôm sau, 11/3, Trung đội trưởng Hải đã cử các tổ chiến đấu cảnh giới các nơi hiểm yếu. Toàn Trung đội súng đạn, ba lô sẵn sàng cơ động.

7 giờ ngày 11/3/1969, Tiểu đội trưởng Vọng gọi Tôi và Dậu Thái trắng đến giao nhiệm vụ và đưa tôi khẩu CKC với 2 hộp đạn 40 viên. Dậu không có súng, mỗi người chúng tôi có 2 quả lựu đạn. Hai chúng tôi ra đầu dốc tìm vị trí cảnh giới, phía trước là một hố bom, nên đường đi phải vòng qua miệng hố, gần bên trái có một hố cá nhân.

Tôi bảo Dậu ngồi xuống đó quan sát, còn tôi tìm được cây gỗ đổ nằm chắn ngang đường cách hố bom trước mặt khoảng 10m. Lấy cây gỗ làm vật che đỡ, tôi đặt súng lên rồi bẻ ngụy trang cắm phía trước.

9 giờ sáng ngày 11/3/1969, quân Mỹ chặt cây, tiếng la ó nhặng xị, đạn súng máy đại liên, đạn tiểu liên AR15, đạn M79 của Mỹ bắn như mưa về phía chúng tôi nằm.

Khói mù mịt, cành cây ngụy trang bị gẫy, Dậu bảo tôi:

- Anh ở lại cảnh giác nắm địch để em về báo Trung đội cử thêm người đem súng trung liên AK, B41 ra tiếp chiến.

Tôi gật đầu:

- Cậu đi nhanh và về nhanh nhé!

Một lúc sau, đạn địch ngớt, tiếng quân Mỹ xì xồ rất gần…

Tôi nằm sấp, trống ngực đập ngũ liên, nhìn trước nhìn sau chỉ có một mình, đơn thân một súng. Đạn bọn Mỹ lại bắn vãi lên.

Thú thật, lần đầu vào trận, tôi mót tè liên tục. Lúc ấy tôi tự động viên mình, phía sau ta còn có đồng đội, bên kia khe suối còn có Tiểu đoàn 9 sợ gì thằng Mỹ kia chứ! Bụng nghĩ như thế, nhưng hàm răng cứ đánh cầm cập, người run như nhái đập.

Đến 12 giờ trưa, từ chỗ rừng cây phía trước, cách hố bom khoảng 30m, 6 tên Mỹ đang đi ra bãi trống, phía trong rừng cây hình như chúng còn khá đông.

Những tên lính Mỹ cao, to, trang bị đầy đủ, tay cầm vũ khí, đạp cây vạch lá đi lên. Đầu nòng súng CKC của tôi cứ bám lấy bụng tên đi đầu. Khi chúng vừa đến miệng hố bom, tự dưng khẩu CKC của tôi phát ra tiếng nổ, tên Mỹ đổ xuống.

Tôi sững sờ, vội bắn tên thứ 2 ngã nốt. Còn 4 lính Mỹ nữa cùng nhảy xuống miệng hố bom tránh đạn. Góc khuất, khiến tôi không bắn được.

Không hiểu tại sao, lúc ấy tôi lại linh hoạt thế. Tự nhiên tay tôi cởi dây túi lựu đạn, th 2 quả lựu đạn chày Trung Quốc được phát khi còn ở Cẩm Giàng (Hải Dương) lúc bắt đầu đi B. Đến hôm nay tôi tặng cho quân Mỹ luôn! Tôi rút nụ xòe ném xuống hố bom có mấy thằng Mỹ, một tiếng nổ oành. Sợ chúng chưa chết hết, tôi ném tiếp quả thứ 2, không thấy chúng phản ứng gì từ dưới hố bom đó.

Kể lại, viết thì dài nhưng mọi việc chỉ diễn ra trong mấy giây thôi, 2 tiếng nổ oành oành liền nhau. Rồi tôi dê mũi súng, bắn vào chỗ quân Mỹ ở vạt rừng phía dưới cho hết băng đạn.

Tôi lại nạp đạn vào băng xong, lúc này khoảng 12 giờ 10 phút. Quân Mỹ tổ chức lại đội hình chiến đấu. Chúng dùng hỏa lực đủ các loại súng đạn khiến tiếng nổ các cỡ ở hai bên sườn đồi bắn vào như mưa. Tiếng nổ rền như sấm, cành cây rơi xuống, đất đá tung lên.

Trên trời, 12 chiếc trực thăng bắn như vãi đạn xuống trận địa. Chỗ tôi không có hầm nên tôi cứ ngồi nép sau gốc cây, keo này chắc 10 phần chết 9 rồi cha mẹ ơi!

Tôi quan sát chung quanh, thấy phía sau chếch bên phải chừng 20m có mấy hòn đá to có kẽ đá có thể che khuất được. Tôi liền bò đến, hòn đá nghiêng che kiểu hàm ếch. Tôi nằm nép bên trong quan sát phía trước và hai bên.

Quân Mỹ bắn đến 30 phút mới ngớt. Chúng nhiều súng đạn thật! Trong lúc hỏa lực bắn thì quân Mỹ chết đã có đồng đội của chúng lên lấy xác. 4 chiếc máy bay trực thăng chiến đấu theo nhau tiếp tục bắn xuống. Một chiếc qua đầu tôi, bay sát ngọn cây.

Tôi ngồi dậy dựa vào thành đá ngắm máy bay bắn đuổi 4 viên đạn. Một chiếc khác bay đến động cơ ầm ầm như tàu hỏa dừng lại chỗ trên không - đỉnh đầu tôi. Tôi đưa súng ngắm bắn, thấy thằng Mỹ ở bên cửa trái máy bay đang xoay khẩu Đại liên 6 nòng chõ xuống. Tôi hoảng quá nằm im, không dám bóp cò. Máy bay đi rồi, tôi kiểm lại thấy mình chỉ còn khoảng chục viên đạn, phải hết sức tiết kiệm.

13 giờ 40 phút, tôi xách súng đi về tuyến sau cách đó 100m, thì thấy Tiểu đội phó Khanh, anh Ka và Dậu ngồi trên dốc. Ở đó có mấy cái hầm trú ấn được.

Dậu hỏi:

- Tao tưởng mày chết rồi!

Tôi nổi khùng:

- Chết cái con kẹc! Chúng mày tưởng tao dễ chết lắm hả? Ngồi đấy mà đợi nhặt xác tao.

Khanh nói:

- Thôi anh Thậm cứ bình tĩnh, chuyện đâu có đó. Tình hình địch ra sao rồi?

Tôi bảo:

- Các anh xuống mà kiểm tra, ở hố bom ấy.

Ka vọt lên khỏi hầm chạy trước, anh Khanh và Dậu chạy theo, đến nơi không thấy tên Mỹ nào, trên bờ hố bom có 2 vũng máu, dưới hố bom có máu đọng thành vũng.

Tôi kể lại toàn bộ câu chuyện cho ba người nghe và nói quân Mỹ đã lên kéo xác đồng đội rồi. Anh em cùng tìm kiếm, quả nhiên thấy có cả vết máu kéo dê trên đất kia, mọi người chứng kiến.

Anh Ka nói:

- Không có lửa làm sao có khói, không bắn chết thằng Mỹ làm sao có máu dây khắp cả thế kia. Như lời anh Thậm kể tôi chứng kiến đồng chí Thậm diệt 6 tên Mỹ.

Tiểu đội phó Khánh đồng ý.

Lúc ấy, có 2 trinh sát của K9 từ trên chạy xuống nói:

Máy bay trực thăng đỗ xuống lấy xác và bốc quân. Mọi người có thể đi lượm đồ hộp, thu chiến lợi phẩm nhanh lên rồi chạy xuống núi.

Tôi xách súng chạy theo xuống tới ngã 3 đường trục, chúng tôi nấp trong bụi nhìn ra bãi đá, ở dưới khe quân Mỹ có chừng một Đại đội, chúng đang khiêng xác chết lên máy bay. Chúng tôi đếm cả thảy là 9 chiếc cáng. Nghĩa là chúng có 9 tên bị thương vong.

Một trinh sát báo:

- Bọn Mỹ chết 9 thằng bay ạ. Đơn vị nào diệt thế nhỉ?

- Tôi bảo tôi bắn nó lúc 12 giờ đó, khi quay lại anh nói với mấy anh ban nẫy là 9 tên Mỹ chết nhé.

Trinh sát đồng ý.

Tôi tì súng vào gốc cây ngắm bắn máy bay, một trinh sát thấy vậy gạt tôi ra:

- Muốn chết hả? Ông bà nội đang chờ anh ở nhà đó.

Ở ngã ba suối đá mấy thằng Mỹ phát hiện ra chúng tôi, chúng kêu lên:

-“Vixi, vixi”!

Một tên quay khẩu Trung liên bắn lên, đạn bay như mưa.

Hai trinh sát quân ta bỏ chạy.

Tôi quay lại bắn bừa vào quân Mỹ 2 viên rồi vác súng chạy, lên đến đỉnh dông. Một trinh sát bị thương vào tay. Trinh sát kia nói lại chuyện quân Mỹ chết 9 tên cho bọn anh Khanh nghe.

Tôi đi vào vạt rừng tìm kiếm, quả nhiên có 3 chỗ có máu ộc ra nhầy nhụa cả một vạt. Tôi khẳng định:

- Tôi bắn chết 2 tên cạnh hố bom, ném lựu đạn chết 4 tên dưới hố bom, còn 8 viên đạn trong hộp tiếp đạn tôi bắn vào đám đông quân Mỹ làm chết 3 tên nữa. Tổng cộng là 9 tên. Chỉ có mình tôi ở đó, chứ không có đơn vị nào bắn quân Mỹ hôm nay cả!

Tiểu đội phó Khanh kết luận:

- Nhất trí là đồng chí Thậm bắn chết 9 tên và tôi sẽ báo lên Trung đội.

Lúc 14 giờ, anh Điêm thôn Quế Lĩnh và Khang người thôn An Lăng ra thay gác cho chúng tôi về.

Tôi vào hầm ăn hết vắt cơm phụ, nằm hút thuốc.

Đang lúc ngủ ngon thì Bình chui vào lay tôi dậy thì thào:

- Anh Điêm bị đạn trên máy bay bắn hy sinh rồi. Tôi muốn ra xem sao nhưng không đi được.

Lúc này, cả Trung đội tôi tớn tác cả lên.

Anh Tục, Chính trị viên Trung đội nói với Trung đội trưởng Hải:

- Không được để anh em lính mới làm công tác tử sĩ vì anh em chưa quen chiến trường sợ anh em hoang mang sợ hãi. Sau đó các Tiểu đội cử người đi chôn cất…

*

15 giờ chiều, Tiểu đội phó Khanh đưa 2 trinh sát đến hầm Trung đội báo cáo lại cuộc chiến trưa nay của đồng chí Thậm với quân Mỹ (có 2 trinh sát của K9 chứng kiến sự việc).

Chính trị viên Tục mừng quá reo lên:

- Phải động viên kịp thời, cho anh em toàn Trung đội học tập gương chiến đấu của đồng chí Thậm! Phát động căm thù, tiêu diệt Mỹ để trả thù cho đồng chí Điêm. Khôi phục lại tư cách Đoàn viên cho đồng chí Thậm!

Tôi chui vào hầm dốc gạo ở bao tượng nằm nhai gạo sống.

23 giờ ngày 11/3/1969, cậu Trinh ngồi trong hầm bẻ nứa nấu 2 ống bơ bò cơm, đưa cho tôi một bò.

Đến ngày 16/3/1969, quân Mỹ không thu được gì đáng kể. Chúng cho trực thăng xuống cao điểm hót quân về. Chúng tôi lại đến các bãi đổ bộ tìm kiếm chiến lợi phẩm.

Ngày 17 và 18/3, chúng tôi đi tải 2 chuyến gạo liền.

Ngày 19/3 nghỉ ngơi tắm giặt.

7 giờ, ngày 20/3/1969 chúng tôi đóng gạo để chuẩn bị hành quân. Đơn vị chỉ để quản lý Cời, anh nuôi Tích và anh Sướng ở lại trông nom và nếu có điều kiện thì tiếp tục đi đồng bằng lấy gạo.

Ở lại còn có quân K9, Đại đội Cối 12, Đại đội 13, DKZ, số quân hỗn hợp này còn có một Trợ lý hậu cần, 1 Trợ lý Tham mưu, 1 Trợ lý Chính trị do Trung đoàn phó Đăng trực tiếp chỉ huy.

Súng đạn, tư trang, gạo, nước tương đối nặng, chúng tôi về đến đoạn Tí Xé thì đã kiệt sức vừa nghỉ vừa đi.

Hai hòm đạn kẽm trên vai xoay đi xoay lại làm tôi phồng da và chảy nước.

Vượt khu rừng B52 rải thảm, trèo lên, chui xuống khổ cực vô cùng. Qua ngã 3 Nước đi về ngã 3 Quế Sơn. Cuối cùng tôi bị tụt hậu, đã định mắc võng ngủ mai lại đi vì mệt quá rồi.

19 giờ ngày 20/3/1969, anh Thịnh đến hậu cứ trước, rồi quay lại đón gánh giúp tôi gánh đạn. Mò mẫm về đến Hậu cứ thì đã 20 giờ đêm.

Hậu cứ này nằm dưới chân dốc Mực, cao điểm 801, cách trường Quân chính một cái khe.

Đại đội 20 Quân y nằm ở đó, phía ngoài là Đại đội cối 82 của Duệ và Đại đội 13 ĐKZ của Thà.

Chúng tôi về đến Hậu cứ thì cánh quân đi Dốc Mây xuống vùng A của Đại Lộc đánh nhau ở Hòa Nha đã về đây từ ngày 09/3/1969. Trung đội 1 và Trung đội 3 về trước làm nhà, đào hầm cho cả Trung đội 2 nên chúng tôi về đã có sẵn nơi trú ẩn.

Nghe mọi người kể: Ngày 10/02/1969, Trung đoàn Cửu Long đánh vào ấp Hòa Nha gặp đối thủ Mỹ là Sư đoàn bộ binh A-me-đi-cơn số 23, Lữ đoàn 3, Trung đoàn 3. Chúng đổ quân bằng 40 tàu bay xuống 3 xã Lâm Đông, Lâm Tây và Hà Sống vây ép Trung đoàn Cửu Long (thiếu quân) ở 4 thôn Động Hòa Nha.

14 giờ chiều ngày 10/02/1969 một Đại đội Mỹ đánh vào trận địa 12 ly 7 của Trung đội 1. Tổ cảnh giới cùng Tiểu đội phó Khê và anh Huấn bắn chết 17 tên Mỹ. Địch dùng hỏa lực bắn trả, anh Huấn bị thương không chạy được, bò qua vườn sắn rút lui về tuyến sau. Quân Mỹ tiến vào chiếm được trận địa, bắt sống anh Huấn, dùng dao găm Mỹ đâm chết rồi đặt lên bụng con dao găm với quân át chủ bài. Còn anh Khê thì chạy theo Trung đội về được tuyến sau.

8 giờ, ngày 11/02/1969, Đại đội cử anh Thịnh, Thành Tiểu đội phó, Quyết, Sị đi chôn tử sĩ. Quân Mỹ đã rút lúc chiều hôm trước.

Khoảng 16 giờ, Ngày 11/02/1969, tổ công tác đi làm công tác tử sĩ thấy xác anh Huấn nằm ngửa. Nhưng chôn anh Huấn vừa xong, thì một quả cối 81 từ trong đồn Hòa Nha bắn ra, trúng ngay mộ làm chết luôn Sị và Quyết.

(Còn nữa)

Đ.V.H

Trái tim người lính