Nhật ký “Lính chiến” của CCB Phạm Hữu Thậm (Kỳ 16): Một đêm vào ấp chiến lược mua hàng và trận đánh Cầu Chìm

Tối 01/3/1971, tôi với liên lạc Hin đeo dây lưng, mang gùi xách súng đến khu du kích. Ở đây đã có 4 người, 2 nam 2 nữ. Chúng tôi chia làm 3 tổ, Hin và Năm Thắm tôi đi cùng Hai Lợi, còn hai thanh niên đi trước dò đường.

Đến bờ sông Thôn 9, một chiếc ghe từ trong lùm cây bơi lại. Sáu Nguyện đưa tay lên miệng kêu Túc hu, túc hu… Người chèo nghe đáp lại rồi cập bờ. Sang sông chúng tôi đi giãn cách, mỗi tổ cách nhau 50m, vượt lộ 14 đến đồi sim cụm lại. Sáu Nguyện phân công từng tốp vào ấp. Khoảng 3 giờ đêm Năm Thắm dẫn Hin đi về phía núi La, tôi theo Hai Lợi vào ấp còn Sáu Nguyện và một người nữa đi sau.

d1qa1-1672713008.jpg
d2sq2a-1672713362.jpg
Ảnh do tác giả sưu tầm chỉ mang tính minh hoạ.

 

Đường Xóm vắng lặng đến rùng mình, lạnh gáy. Chúng tôi nghĩ đến những họng súng phục kích ở đâu đó ven đường. Không có một tiếng chó sủa, không một gà kêu. Nhà trong ấp cửa đóng im. Dân chúng chả ai dại gì mà ra đường vào lúc này.

Thỉnh thoảng lại vài tiếng đề pa của mấy quả cối 81 ở núi Nở xoèn xoẹt bay qua sông, nổ ở bên vùng giải phóng. Chúng tôi không đi đường trục mà luồn lách qua các vườn cây đến một chỗ cây cối um tùm. Hai Lợi nói vào tai tôi:

- Anh ngồi đây cảnh giới, em dô trước.

Đến một ngôi nhà nhỏ, Lợi gõ mấy tiếng vào cửa liếp. Chiếc phên che chống lên, ánh đèn dầu leo lét từ trong hắt ra. Nghe tiếng rì rầm rồi Hai Lợi đi ra bảo “dô”. Tôi theo vào nhà. Người đàn bà nhìn tôi hỏi:

- Cậu ở Bắc dô à?

- Dạ, chào chị.

Lợi nhắc:

- Má em đó, anh phải kêu bằng “má”.

- Dạ, má bỏ qua cho con nghe!

Tôi nhìn chiếc kim đồng hồ dạ quang, lúc này là 22 giờ ngày 01/3/1971.

Hai Lợi ghé tai má mình nói gì không rõ. Má nhìn tôi bảo:

- Cũng được.

Tôi nhìn người phụ nữ trẻ, khoảng ngoài 40, chắc chắn khỏe mạnh, xinh đẹp dễ mến giống hệt như Hai Lợi.

Má hỏi:

- Vô đây có nhiều không? Ở bên nớ qua bên ni bao nhiêu?

- Dạ, có ít người qua sông mua hàng.

- Ngoài Bắc có xa không?

- Dạ xa, phải đi qua nước Lào mới đến được đây.

- Các chú vì miền Nam, phải hy sinh gian khổ. Đồng bào trong ni bao giờ mới trả được ơn Đảng, Bác Hồ. Hai đứa bay dô buồng ăn cơm, để má gác cho.

Cơm trắng, có mắm chượp và cá chuồn kho ngon quá. Tôi ăn 2 bát rồi, chả lẽ ăn nữa. Tôi bỏ bát đũa định đứng dậy. Lợi kéo xuống xới thêm một bát đầy ấn vào tay tôi:

- Làm răng mà dậy, anh cứ như ở nhà ăn nớ!

Lợi lấy gùi của tôi cho vào đủ thứ: gạo nếp, đậu phộng, đỗ xanh, đường cặp, mì chính, dầu ăn, thuốc rê. Tôi hỏi:

- Bao nhiêu tiền má?

- Ai lấy tiền của tụi mi. Giải phóng qua đây đánh Mỹ thì đồng bào ủng hộ đó.

Tôi đặt 2.000 vào tay má, bà không chịu. Lợi bảo:

- Đưa tiền cho con.

Hai Lợi lấy tiền từ tay tôi bỏ túi và hỏi:

- Má coi, có ưng anh bộ đội đây không?

Bà nhìn tôi cười:

- Thấy thằng ni cũng hiền khô mà. Tụi mi thương nhau thì phải hết lòng đó nghe.

Tôi chỉ biết “dạ”. Hai Lợi bảo:

- Khi nào có điều kiện, tụi con cứ tổ chức nghe má!

- Thời buổi chiến tranh loạn lạc, việc nớ các con cứ nhờ Cách mạng lo cho.

- Má yên tâm đi, chúng con có Đoàn thể, có Đảng có Chính quyền lo chi. Khi đó, chúng con sẽ báo tin cho má hay.

Má Lợi lấy ra cái hộp nhỏ đựng 2 chiếc nhẫn vàng đưa cho Lợi và bảo:

- Khi có việc, các con đem mà xài!

Hai Lợi cười, đấm vào vai tôi.

Xem đồng hồ, lúc này là 24 giờ kém 15 phút ngày 01/3/1971. Chúng tôi nghỉ một chút lấy lại sức nhờ má gác dùm…

Nhưng nằm chưa ấm chỗ, bỗng bà đã vào và giục

- Tụi bay đi mau, lẹ lên.

Má của Lợi mở cửa sau, bảo chúng tôi thoát ra vườn. Mang gùi xách súng, tôi theo Hai Lợi luồn lách ra ngoài đồi cây lúp xúp, giấu gùi; xách súng vòng lại phía trước nhà, đã thấy hơn chục tên lính bảo an gì đó gọi má ra sân. Hai tên cầm đầu vào kiểm tra, rồi bỏ đi về phía Hội đồng Tiền An. Đợi một lúc không thấy động tĩnh gì. Lợi bảo thì thầm:

- Anh ngồi đây để em dô xem má ra răng?

Lợi đi chừng 10 phút quay lại bảo:

- Ta đi thôi, má không hề chi. Tụi nó đi kiểm tra dân số.

Chúng tôi đến chỗ hẹn thì đã có 2 người chờ ở đó. Thiếu Hin và Năm Thắm.

Đợi đến 15 phút, nóng ruột, một tiếng nổ “oành” ở phía trên. Đạn AR15 nổ tiếp theo cả loạt. Sáu Nguyện kêu:

- Chạy mau, kẻo tụi chúng bịt mất lối về!

Sang được gò bên kia đường chúng tôi cụm lại nghe ngóng. Có tiếng chân giày chạy trên đường nhựa, hơn 10 tên lính Ngụy chửi đổng. Đến đoạn đường chúng tôi đang trú ẩn, thì chúng triển khai đón lõng, hướng về phía bên kia đường. Chúng tôi chỉ chậm một chút thì bỏ rọ hết.

Tôi cầm quả lựu đạn Mỹ, thấy Sáu Nguyện ném một quả ra đường tôi ném theo. Mọi người cũng ném cùng lúc, 4 trái lựu đạn tung ra. Quân ngụy không biết lựu đạn từ đâu quăng tới kêu la ầm ĩ.

Tôi kéo Hai Lợi nhảy xuống bãi ngô, hai người chạy theo. Về bờ sông đã thấy Hin và Năm Thắm ở đó, tay quấn băng.

Hin bảo:

- Tụi tôi vừa qua khúc quẹo thì bị mìn cờ-lây-mo M16, may không trúng hướng” Năm Thắm chỉ bị thương nhẹ.

*

Lúc 13 giờ ngày 04/3/1971, chúng tôi mang vác vũ khí, trang bị hành quân sang Ấp Bắc chi viện cho du kích đánh Cầu Chìm.

Xã đội cử 4 ông nông dân và 2 nữ du kích đi theo. Nhiệm vụ của họ là giúp chúng mang đạn, đào hầm, cáng thương tử sĩ; còn 2 nữ du kích thì dẫn đường, canh gác nắm địch và truyền lệnh.

Trận địa đại liên làm trong Bãi Bói, sát bờ nam sông Vu Gia, phía bắc của Ấp Bắc. Chúng tôi tranh thủ đào hầm trú ẩn tránh bom pháo. Sau khi giá súng, ngụy trang cẩn thận, tôi với Hin trực chiến. Đại đội phó Hoành, Trung đội phó Hoàn cùng 4 ông nông dân ở 2 cái hầm ven làng Ấp Bắc sẵn sàng chi viện.

Ngày 05/3/1971, tôi và Hin nằm trong Bãi Bói quan sát bên kia sông. Ở đầu Cầu Chìm có một lô cốt lính Bảo an, trên đường 14 quân Ngụy lang thang từng tốp. Ngoài bãi sông, chỉ thấy dưa hấu, ngô, bí, thuốc lá, ớt lên xanh mướt. Ngoài triền sông chạy dài đến tận Hòa Nha, đồng bào đi làm ruộng, trẻ con chăn bò, xe cộ ngược xuôi đường 14.

Tôi lại nhớ đến quê mình, khói lam chiều còn đang đọng trên lũy tre xanh, cây đa cổ thụ, mái đình xưa nhớ quá! Vào đây đất trời xa lạ, chiến tuyến 2 vùng Đại Lộc B, A. Lâu lâu lại có một chầu cối 81 bay qua đầu nổ tận Lộc Tân.

Hai trực thăng AH1D bay theo đường 14 lên Thượng Đức, một lát vòng lại theo triền sông phóng ra 2 quả rốc két từ lụng máy bay. Bờ bụi tung lên; đạn đại liên từ máy bay bắn xuống, tiếng nổ như ngô rang, pháo Tết. Con đầm già lượn lờ trên cao từ động Hà Sống đến khu E Chê, lúc ngửa, lúc nghiêng, bất thình lình tắt máy, nghe tiếng “ẻn phịch”… một cột khói bốc lên. Từ trên Lộc Vĩnh, 2 chiếc A37 vè vè bay đến, lượn một vòng rồi bổ nhào quăng bom.

Tôi nhớ lại kỉ niệm xưa, dở tấm hình bạn tặng ra xem. Hai Lợi và Năm Thắm đến lúc nào chẳng hay. Lợi véo tai tôi bảo:

- Anh lại nhớ người thương ha? “Răng ăn bảo ăn chửa có dợ”. Trông chị hết mê luôn.

- Em trông hình có giống hệt anh không? Em gái anh thiệt mà.

- Biết chi, ở đây thì anh bảo chưa có “dợ”; đến nơi khác thì bảo chưa có người yêu, ai mà tin được mấy anh giải phóng!

Hin từ trong hầm nói vọng ra:

- Thiệt đấy, ảnh cùng làng với tôi, cùng đi lính. Anh chưa “dợ”, nói sai bom bỏ trúng đầu…

Hai cô gái lấy cơm, mang nước dọn ra, có măng tre và cá lóc. Tôi với Hin ăn hết.

Thấy thế, Hai Lợi bảo:

- Ăn chi mà hung vậy? Tiêu chuẩn hhai bữa đó cha nội.

Hin nói:

- Lùa cả vào cho có đàn, chiều tối lại tính.

Hai Lợi cười rũ. Năm Thắm từ hồi đến giờ chỉ nhìn xoáy vào Hin.

Tôi hiểu ý bảo:

- Giờ anh và Lợi đi kiếm trứng chim túc túc. Còn Hin với Năm Thắm ở lại cảnh giới, chớ ngủ quên kẻo địch kéo gọng khiêng súng đi đó.

Chúng tôi nai nịt gọn gàng, mang theo vũ khí luồn lách trong Bãi Bói về hướng đông chừng 500m. Đến một gò đất cao, cả hai cũng sững lại, vì thấy một xác chết chỉ còn xương trắng khô. Xác một phụ nữ còn trẻ, mặc bộ đồ bà ba, mớ tóc dài dưới chiếc đầu lâu, dây lủng lựu đạn, súng AR15; một cái bồng nhỏ may bằng vải tráng nhựa.

Hai Lợi không ngại ngần, tiến cởi bồng, trong ví có 2.000 đồng, tấm hình bọc trong túi ni lông vẫn còn nét của một thời xuân sắc. Cô gái cỡ 20 tuổi lẻ, thẻ căn cước vùng địch Hậu vẫn còn đọc được ghi: Phạm Thị Hướng Dương, Ấp Hòa Nha, Đại Lộc.

Gương lược, mùi xoa, dép lốp, mũ tai bèo, đúng là du kích rồi. Tôi bảo Lợi giữ lại các kỷ vật, mang theo súng đạn về nộp cho chú Tôn và khi về nhớ thông báo cho mấy ông nông dân mang cuốc xẻng, ngày mai đi mai táng tử sĩ.

Chúng tôi đi khỏi đó cách gần trăm mét lại thấy có 7 xác lính Ngụy nằm chết rải rác, mũ sắt, giày da, vũ khí vẫn còn. Một trận giao tranh đẫm máu đã diễn ra tại đây…

Đến một nơi cây cối um tùm, Hai Lợi chui vào tìm được 2 ổ trứng gà nước, liền gọi:

- Anh ơi dô đây.

Lợi đưa trứng cho tôi mút sống. Hai người ăn hết chục quả, còn lại cho vào túi vải. Về đến trận địa đại liên, Hin mắng tếu:

- Các ngươi định thủ tiêu chiến đấu hay sao, mà bỏ chúng tôi một mình đây vậy? Không phải chỉ có ngươi mà hai ngươi đó.

Năm thắm bụm miệng cười khúc khích. Tôi trêu lại:

- Trực chiến mà mất cảnh giác, hai cái đầu cứ cụm vào nhau, có ngày địch khiêng mất súng không biết.

Hin thích chí cười hinh híc:

- Thì người ta cũng kẻ nhìn phía ni người nhìn phía tê.

Năm Thắm bảo:

- Anh Hin nói xạo, em ngồi chỗ nè nè…

Ngày hôm sau 06/3/1971, chúng tôi vẫn ẩn mình trong Bãi Bói. Hai cô gái cảnh giới đưa cơm. Cối 81 bên núi Lở vẫn bắn cầm canh theo trục đường Lộc Tân lên Gò Dài.

Chiếc OV-10 hai thân lao vun vút bắn rốc két xuống các làng ở ven sông, cất lên đáp xuống, hạ thấp độ cao bay là là triền sông ngó nghiêng tìm kiếm. Rồi 4 chiếc trực thăng loại UH1 chia làm 2 tốp, hai chiếc bay theo đường 14 vòng sát núi Lâm Tây.

Súng đại liên, đạn rốc két bắn xuống tiếng nổ đinh tai, khói bụi mù mịt. Một quả cối 81 rơi ngay khúc sông trước trận địa đại liên, cột nước vọt cao tới 10m, cá nổi dạt cả vào bờ.

Trong hầm trú ẩn hai cô du kích bình thản nằm ngủ. Tiếng ngáy phe phe phộc phộc. Một lúc Hai Lợi chui khỏi hầm hỏi:

- Nó bắn ở mô vậy?

Tôi bảo:

- Bắn vu vơ ở bở sông.

Hai Lợi gọi Năm Thắm lấy cơm ra ăn.

Mấy vắt cơm ngô, cá lóc kho. Cô đưa chúng tôi mỗi người một miếng và giục:

- Các anh ăn đi, ngon hung đó!

Ăn xong, Năm Thắm nói chúng tôi tranh thủ vô hầm ngủ, hai cô gái cảnh giới. Hai Lợi còn bảo:

- Các anh thay đồ, tụi em vá cho, lẹ lên.

Tôi cởi quần áo ném ra ngoài hầm. Hai Lợi cởi gùi lấy kim chỉ, miếng vá. Lợi vừa vá vừa cao hứng hát trêu tôi: Cởi chuồng anh cởi chuồng ra/ Miếng may miếng vá cho ta khâu vào/ Mồ hôi anh thấm chiến hào/ Chua chua ngậy ngậy em nào có quên/ Áo anh rách chỉ đường liền/ Để em vá lại chặt thêm mối tình/ Ầu ơ, Quảng Đà gái đẹp lại xinh/ Rượu đào mới uống đã kềnh ra ngay/ Ai đặt ra câu hát hay/ Chưa say vì rượu em đã say anh rồi.

Hin đang ngủ, cũng hát chòi ra:

- Yêu em chỉ có anh thôi/ Rượu đào không có thì thôi không cần.

Lợi đáp:

- Anh cần thì em cũng cần/ Thiên duyên đã định nợ nần chi nhau.

Hin hứng lên đáp lại:

- Bây giờ chỉ thiếu trầu cau/ Thầy u ba má chỉ cầu thế thôi.

Lợi đáp:

- Thương anh ván đóng thuyền rồi/ Gạo ngon em đã đổ nồi nấu cơm/ Còn người còn nước còn non/ Còn em còn rượu anh còn say sưa.

Tôi chẳng nói năng chi, ngồi vẫn thuốc dê hút nhả khói đặc cả hầm. Hai Lợi đã vá xong, vo viên ném đại vào bảo vận vô.

Năm Thắm đem cơm ra lúc đã chập choạng tối. Nào mỳ Quảng, cá diêu, chè đậu ván. Tụi tôi ăn một bữa bang bang cái bụng. Hin vỗ bụng bành bạch kêu lên:

- Ăn no rồi lại nằm kềnh/ Đứa nào thương mỗ thì khiêng mỗ về/ Vườn không nhà trống bờ tre/ Tiện đây hầm đấy anh bê em vào…

Tụi tôi cười đến vỡ bụng. Hin bảo mọi người ở đây trực chiến còn anh đi chặt mía, rồi xách súng AK lủi vào bụi…

Hin đặt vác mía bên bờ cộng sự. Mọi người đang ăn, thì anh Hoàn từ trong đi ra thông báo:

- Thậm và Hin khẩn trương trở về để nhận nhiệm vụ mới. Tôi sẽ trực chiến súng đại liên.

Anh Hoành cùng 2 ông nông dân khác ở tuyến sau lo cơm nước và sẵn sàng chi viện cho khẩu đại liên.

Chúng tôi chuẩn bị vũ khí, trang bị súng AK cơ số 1500 viên đạn, lựu đạn mỗi người 4 quả, đem theo 4 quả M72.

Về đến khu tập kết Phú Mỹ kết hợp lại với số du kích hơn 20 người, biên chế làm 2 Trung đội. Hin và thắm đi với Trung đội 9. Thương, tôi và Lợi đi với Trung đội Sáu Hiền. Ở Trung đội 1, Tiểu đội 1 gồm 3 người Hai Lợi làm Tiểu đội trưởng cùng Ba Răng Vổ và tôi làm nhiệm vụ đánh Cầu Chìm.

Chúng tôi mang theo một quả bộc phá nặng 70 kg, dự định phá cầu xong quay lại đánh vào ấp Lâm Đông cùng Trung đội dành dân đưa về vùng giải phóng.

Trung đội 2 lúc đầu đánh đồn Bảo An để chi viện cho bộ phận phá cầu của Trung đội 1, song quay lại đánh vào ấp Lâm Tây. đưa dân về vùng giải phóng. Hai Trung đội sẽ hỗ trợ nhau: Nếu Trung đội này gặp khó khăn thì Trung đội còn lại chi viện cứu nguy kịp thời.

Các Trung đội trưởng nắm 3 đồng chí mang hỏa lực mạnh để chi viện cho các tổ. Bộ phận thứ 3 do Xã đội trưởng Dân, Bí thư Trân, Trợ lý Huyện đội Sáu Tân và 8 ông nông dân đi cùng Ban chỉ huy Xã đội ở tuyến sau làm nhiệm vụ cáng thương và chôn tử sĩ nếu có.

21 giờ đêm 08/3/1971, tôi cùng Ba Răng Vổ khiêng quả bộc phá xuống thuyền. Anh còn mang súng M79 với 30 quả đạn. Hai Lợi mang súng các bin, dây lưng lựu đạn và cơm vắt. Ba Răng Vổ một mình đẩy thuyền dưới sông. Hai Lợi xách súng men bờ đi trước, đến đoạn sông hẹp và vắng có chiếc thuyền đón sẵn đưa tôi và Lợi quá giang. Ba Răng Vổ đẩy thuyền bơi sang rồi tiếp tục đi. Tôi đi cách Hai Lợi 30m, đi chừng nửa giờ theo dọc bờ sông bên Bắc Vu Gia rồi rẽ vào một cái sông nhỏ từ núi Bà Nà chảy ra.

Cầu nằm trên đường 14, cách cầu 100m không có cây cỏ bụi rậm chỉ có đá lổng cổng khó đi. Hai Lợi đi khom, tôi cũng đi khom. Một quả pháo sáng phụt lên. Chúng tôi nằm tại chỗ, pháo sáng tắt chúng tôi cơ động nhanh tới chân cầu, chui qua gầm cầu sang phía trên thượng lưu ẩn trong bãi sậy.

Tôi cảnh giới, sẵn sàng chiến đấu yểm trợ cho 2 người áp chiếc thuyền vào chân cột cầu cột chặt, tra kíp, dòng dây kéo đến chỗ tôi ổn định khoảng 10 phút. Áng chừng các bộ phận đã chiếm lĩnh các vị trí; theo hợp đồng chiến đấu, lấy tiếng bộc phá phá cầu làm lệnh, hai Trung đội sẽ đồng loạt nổ súng cùng tấn công.

Lợi bảo tôi:

- Nằm xuống em điểm hỏa đây.

Nghe phạch, im ắng. Lợi bấm đến 3 lần không được, bảo chúng tôi:

- Hai anh cẩn thận cảnh giới, để em đi thay dây.

Ba Răng Vổ gạt đi:

- Để đó tui lo!

Nói rồi, anh nhặt cuộn dây dự phòng trườn người xuống nước.

Lợi nói:

- Em lo quá đi, sợ không hoàn thành nhiệm vụ.

Có tiếng chó sủa cách cầu vài trăm mét. Chúng tôi nhìn lên đường bộ, một quả pháo sáng phụt lên, nhìn rõ khoảng một Trung đội Bảo an đi đến gần cầu. Một tên bắn quả M79 bay qua mang tai tôi nổ cách 5 mét. Hai Lợi dúi tôi nằm xuống. Chó lại sủa dồn, súng địch nổ ran.

Tôi bảo Lợi:

- Yên tâm đi, để cho bọn địch lên giữa cầu sẽ điểm hỏa.

Lúc này Ba Răng Vổ đã lên bờ, đưa đầu dây cho Hai Lợi. Cô cầm công tắc vái trời lạy đất những gì không rõ. Bọn địch lên hết trên cầu…

Một vầng lửa cuộn lên, tiếng nổ rền như bom bỏ, áp suất nghe ào, sinh một luồng gió đè dạp bãi sậy. Cột nước dâng lên kéo theo chiếc cầu chìm xuống; cuộn khói đen sẫm đùn cao ngang ngọn núi Lâm Tây. Hơn chục tên Ngụy sống sót nghe tiếng nổ hốt hoảng tìm đường chạy trốn. Hai bên bắn nhau đến 2 giờ đêm.

(Còn nữa)

Đ.V.H

Trái tim người lính