Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (Kỳ 3)

PGS TS Cao Văn Liên

11/05/2023 06:09

Theo dõi trên

Trân trọng giới thiệu tiếp "Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử" của PGS TS Cao Văn Liên do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành.

   

b1-co-loa1-1683706069.jpg

Khu di tích thành Cổ Loa  - Kinh đô của nhà nước Âu Lạc nằm trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội). (Ảnh: TL)

 

                   

Kỳ 3. 

II: QUÔC HIÊU ÂU LẠC (208-179 TCN)

Năm 221 tr. c. n, cục diện Chiến quốc trong thời kỳ Đông Chu kết thúc, Tần Doanh Chính nước Tần đánh bại 6 nước Tề, Hàn, Sở, Nguỵ,  Triệu, Yên thống nhất Trung Quốc. Với việc nhà Tần thống trị toàn Trung Quốc, lịch sử chế độ phong kiến Trung Quốc bắt đầu. Tần Thủy Hoàng đẩy mạnh công cuộc bành trướng chinh phục Bách Việt ở phía nam sông Dương Tử (Trường Giang). Nguy cơ ngoại xâm đe doạ nước Văn Lang và các tộc người Việt trở thành một thực tế to lớn. Nhu cầu thống nhất các tộc người Lạc Việt và Âu Việt để có sức mạnh chống ngoại xâm, phát triển lên một bước cao hơn về mọi mặt của dân tộc để xây dụng đất nước. Cơ sở cho sự thống nhất là hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vì cùng chung huyết thống,  tương đồng về trình độ kinh tế, giống nhau về phong tục tập quán. Đến thời Hùng Vương thứ XVIII, đồ sắt chiếm địa vị chủ yếu, năng suất lao động ngày càng tăng. Sự hợp nhất này sẽ tạo nên một quốc gia có trình độ mới cao hơn thời Văn Lang.

          Như vậy, do nhu cầu phát triển, giao lưu kinh tế văn hoá, chống ngoại xâm nên sự hợp nhất bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt thành một quốc gia là một tất yếu khách quan, do đòi hỏi bức thiết của lịch sử. Thủ lĩnh của bộ tộc Âu Việt (người Tày cổ) là Thục Phán có tài năng về quân sự. Năm 218 tr. c. n, ông lãnh đạo nhân dân Âu Việt và Lạc Việt tiến hành cuộc kháng chiến 10 năm đánh bại 50 vạn quân Tần xâm lược do tướng Đồ Thư chỉ huy, bảo vệ được các bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt.

          Do công lao như vậy, năm 208 tr. c. n, Thục Phán được Hùng Vương thứ XVIII chọn là người kế vị, lập ra nhà nước Âu Lạc, một triều đại mới: Triều đại An Dương Vương, dời kinh đô về Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh -Hà Nội). Âu Lạc là nhà nước hợp nhất người Lạc Việt với người Âu Việt ở mạn Cao Bằng.  

          Nước Âu Lạc có  nền kinh tế phát triển hơn một bước so với thời Văn Lang, công cụ đồ sắt đóng vai trò chủ yếu trong  sản xuất. Văn minh Đông Sơn tiếp tục phát triển. Nghề mới: nghề chế tác sắt ngày càng hoàn thiện. An Dương Vương đã huy động nhân dân xây dựng thành Cổ Loa. Cổ Loa là kinh đô đồng thời cũng là căn cứ quân sự, kết hợp giữa căn cứ bộ binh với căn cứ thuỷ quân, kết hợp tấn công với phòng thủ. Vũ khí thời Âu Lạc tiến bộ vượt bậc, chế tạo được nỏ liên châu bắn một lần được nhiều mũi tên có bịt đồng. Sức chiến đấu của nỏ liên châu vô cùng lợi hại nên được gọi là nỏ thần. Thành Cổ Loa và nỏ liên châu đã minh chứng tài năng quân sự  của dân tộc ta thời cổ đại. Quân đội nhà nước Âu Lạc là quân đội thường trực chính qui có hàng vạn người bao gồm bộ binh và thuỷ binh.  Lãnh thổ Âu Lạc bao gồm toàn bộ miền Băc,  phía nam tới tận Quảng Bình ngày nay.

          Xã hội Âu Lạc ngày càng phân hoá sâu sắc. Nô tì (nô lệ) đông hơn. Nhưng nông dân vẫn là lực lượng sản xuất chính, là đối tượng bóc lột chính của của nhà nước. Chế độ chiếm hữu nô lệ Âu Lạc là xã hội chiếm hữu nô lệ không điển hình, là chế độ chiếm hữu nô lệ gia đình (gia trưởng). Nền quân chủ chủ nô ngày càng có xu hướng chuyên chế. Nhà vua - Thục Phán An Dương Vương nắm mọi quyền lực. Giúp việc cho Vua có đại thần Cao Lỗ, Cao Thông (Những người đã thiết kế xây dựng thành Cổ Loa). Toàn quốc chia thành nhiều Bộ, mỗi Bộ do một Lạc tướng đứng đầu. Cơ sở hạ tầng của nhà nước là công xã nông thôn. Sự ra đời của nhà nước Âu Lạc làm cho cộng đồng dân tộc quốc gia Việt Nam phát triển thêm một bước về mọi mặt, tăng cường ý thức và đoàn kết dân tộc trên con đường dựng nước và giữ nước.

Văn minh Văn Lang - Âu Lạc: Người Lạc Việt và Âu Việt trong  buổi ban đầu không chỉ xây dựng nên nhà nước và thiết chế chính trị mà còn sáng tạo nên những giá trị văn hoá tinh thần, giá trị văn hoá vật chất, giá trị văn hoá xã hội. Những giá trị văn hoá cổ đại đó phát triển cao, đạt đến trình độ văn minh - văn minh nông nghiệp, văn minh sông Hồng, văn minh Đông Sơn. Những giá trị văn hoá vật chất của nền văn minh này đã có sự diễn tiến phát triển liên tục, ghi dấu ấn ở nền văn hoá Phùng Nguyên (Phú Thọ), Đồng Đậu (Vĩnh Phúc), Đông Sơn (Thanh Hoá) với những giá trị văn hoá vật chất  phong phú,  biểu hiện trên trang phục đặc sắc ở các tộc người. Phụ nữ mặc váy nhiều hoa văn. Cư dân ở nhà sàn hoặc nhà đất. Từ khoáng sản đồng sắt, người dân Lạc Việt và Âu Việt chế tạo công cụ sản xuất nhiều chủng loại như cày, cuốc, thuổng, rìu, mai, xẻng, dũa, nạo, kim, lưỡi câu , chế tạo nhiều đồ gia dụng, nhiều nhạc cụ như trống đồng, khèn, chuông, lục lạc, đúc các tượng người , tượng thú như hổ, voi, chó, gà, chim, chế tạo các loại vũ khí chiến đấu như rìu chiến, dao găm, kiếm dài, kiếm ngắn, giáo, mũi lao, đặc biệt chế tạo nỏ liên châu với mũi tên đầu bịt đồng có số lượng hàng vạn chiếc.

          Giao thông đường thuỷ thời Văn Lang - Âu Lạc được mở mang phát triển. Sản vật phong phú,  văn hoá ẩm thực muôn màu,  muôn vẻ và trình độ tinh tế, tao nhã (Sự tích bánh chưng,  bánh dầy, dưa hấu. . ). Văn hoá tinh thần của Văn Lang - Âu Lạc đa dạng và phát triển ở trình độ cao, thể hiện ở trống đồng Đông Sơn và nhiều nhạc khí khác. Trống đồng Đông Sơn là nhạc cụ,  đồng thời cũng là biểu tượng quyền uy của thủ lĩnh quân sự để chỉ huy quân đội chiến đấu, là hiệu lệnh để tập hợp quần chúng. Trống đồng Đông Sơn là tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu nhất của người Lạc Việt cổ. Trang trí nghệ thuật trên trống đồng là bộ lịch sử phản ánh cuộc sống tín ngưỡng của cư dân thời đó.

          Người Việt cổ thời Văn lang - Âu Lạc còn duy trì hình thức tôn giáo nguyên thuỷ: Tô tem giáo, vạn vật hữu linh, bái vật giáo, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những người có công với địa phương, với nước. Trong cư dân có nhiều phong tục tập quán: tục ăn trầu, tục xăm mình, tục cưới xin có thách cưới, có ăn hỏi và đón cô dâu trang trọng (Sự tích Sơn Tinh,  Thuỷ Tinh). Cư dân có nhiều đức tính tốt như đức tính trên kính dưới nhường (Sự tích trầu cau). Thiết chế chính trị quân chủ thế tập, nhưng người kế vị không nhất thiết là con trưởng mà các Vua Hùng thường chọn những người đức độ trong số các hoàng tử  để trao ngai vàng.

          Thời Hùng Vương, các nhà nghiên cứu chưa tìm thấy chữ viết, pháp luật thành văn.  Phong tục tập quán trở thành tập quán pháp kết hợp với khẩu dụ của nhà vua để điều chính các mối quan hệ xã hội.

          Đặc điểm của nền văn minh sông Hồng là về công nghệ sản xuất và văn hoá vật chất phát triển liên tục từ sơ kỳ đến hậu kỳ đồ đồng và bước sang thời đại đồ sắt, là nền văn minh bản địa do cư dân Văn Lang - Âu Lạc sáng tạo nên. Đỉnh cao của nền văn minh này là nền văn hoá Đông Sơn. Nền văn hoá Văn Lang - Âu Lạc mang tính thống nhất trong một nền văn hoá quốc gia nhưng phong phú, đa dạng vì đó là sự tổng hợp của văn hoá nhiều tộc người. Nền văn minh sông Hồng dựa trên cơ sở cuộc cách mạng luyện kim mà trình độ cao nhất là nghề đúc đồng, còn dựa trên cơ sở nông nghiệp trồng lúa nước và nền văn hoá kết cấu làng xã. Nền văn minh sông Hồng đã xác lập và đặt nền tảng cho truyền thống và lối sống của dân tộc sau này. Văn minh sông Hồng là thành tựu bậc nhất của thời đại Văn Lang - Âu Lạc. Nền văn hoá sâu xa, bền vững, trình độ cao này đã chuẩn bị tinh thần,  nghị lực, ý chí, sức mạnh cho dân tộc ta đi qua những thử thách hiểm nghèo nhất trong lịch sử  tiến hoá của mình.

(Còn nữa)

CVL

Bạn đang đọc bài viết "Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (Kỳ 3)" tại chuyên mục Nghiên cứu. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn