Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu 2 tập tiểu thuyết đã ra mắt độc giả, tập1 có tên là “ Nợ nước non” và tập 2 là “ Lênh đênh bốn biển” nhân dịp kỉ niệm 112 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước ( 5-6-1921- 5-6-2023).
Với trên 200 trang sách, “Nợ nước non”, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã xây dựng hình tượng nhân vật, bối cảnh xã hội chân thực, lôi cuốn người đọc qua từng trang viết. Cuốn sách viết về tuổi ấu thơ và trưởng thành của nhân vật lịch sử , một vĩ nhân nhưng tác giả không đi sâu vào mô tả tiểu sử nhân vật, mà điều quan trọng là khắc họa sự chuyển biến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành trước các vấn đề chính trị xã hội của đất nước và thế giới; các quá trình vận động lịch sử, các phong trào yêu nước và khát vọng tìm con đường đúng đắn để giành lại độc lập cho nước , cho dân. Tiểu thuyết “ Nợ nước non” gồm 4 chương: Làng Chùa, Làng Chùa về lại, làng Sen vinh quy. Trở lại kinh thành. Cho chuyến đi xa. Bằng cách kể chuyện với ngôn ngữ giản dị, trong tập những câu thoại được sử dụng bằng tiếng rất Nghệ nhuần nhuyễn vẽ nên hình ảnh tuổi thơ êm đềm của cậu bé Nguyễn Sinh Cung trong vòng tay yêu thương của người mẹ, bà ngoại, chi Thanh, anh Khiêm và sự nghiêm cẩn trong giáo dục từ dạy chữ đến rèn đức của người cha Nguyễn Sinh Sắc. Trong tập Nợ nước non, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã xây dựng nhân vật Hồ Chí Minh khi còn nhỏ có một cuộc sống bình thường, một tuổi thơ như bao cậu bé khác ở làng quê Việt Nam, nghĩa là nhà văn đã không “kỳ bí hóa”, “thần thánh hóa” nhân vật lịch sử khi viết về thời niên thiếu của vĩ nhân đó. Đó là cách dụng công rất có nghề , vừa hấp dẫn vừa thuyết phục người đọc như những câu văn miêu tả: “ Mùa gặt, lúa thơm nồng và vàng óng. Hai chị em đuổi nhau trên những bờ ruộng, ngõ xóm đầy lúa và rơm rạ. Thỉnh thoảng chị ôm ngang lưng Cung nhấc lên rồi thả bụp một cái giữa đống rơm, có lúc rơm chui cả vào mũi. Cung sợ nhưng cũng thích. Cứ hét toáng lên làm mẹ ở xa xa phải ngoảnh lại... Chương 1 thực sự thành công bởi vốn sống và trải nghiệm phong phú của tác giả về quê hương xứ Nghệ, về cuộc sống ở kinh thành Huế nơi cậu bé Cung theo cha vào Huế dạy học và trong chương này tác giả đã hư cấu những nhân vật không có trong chính sử, đó là đưa việc Cung kết bạn với Phúc, một em bé nhà nghèo, hiếu học, Cung xin cha dạy chữ cho Phúc không lấy tiền...Chính chi tiết nhỏ này đã toát nên một phẩm chất rất nhân văn trong con người Hồ Chí Minh. Chương 2 “ Làng Chùa về lại, làng Sen vinh quy” bắt đầu khi Cung trở lai quê nhà sau cái chết của mẹ và em. Những ngày ở quê, một may mắn đối với cậu bé Cung lúc này là Nguyễn Tất Thành được gặp gỡ, tiếp xúc với những nhà yêu nước như thầy giáo Vương Thúc Quý, Phan Bội Châu, Nguyễn Quang Đoan- con trai cụ Nguyễn Quang Bích...đã giúp chàng thanh niên mở mang biết bao điều về thế sự và hình thành những trăn trở lớn về thời cuộc. Đây là thời kỳ ông Nguyễn Sinh Sắc thi Hội ở Huế và thi đỗ trở về vinh quy ở quê nhà. Bằng bút pháp sinh động, nhà văn đã tái hiện những sự kiện, những nhân vật lịch sử của cụ Phan Bội Châu và phong trào Đông Du, rồi hai cha con ông Nguyễn Sinh Sắc vinh dự được tiễn cụ Phan Bội Châu sang Nhật…Những lần cha trò chuyện với cụ Phan Bội Châu về thế sự đã để lại dấu ấn lớn trong nhận thức về lòng yêu nước của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành sau này. Trong chương 3 “ Trở lại kinh thành”, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế nhậm chức năm 1906 trong bối cảnh những biến động chính trị lớn xảy ra nơi triều đình Huế ( Vua Thành Thái bị phế truất và bị lưu đày biệt xứ, hoàng tử Vĩnh San 7 tuổi lên ngôi, hiệu là Duy Tân, thời gian này ở Huế và các nơi khác sục sôi phong trào yêu nước, kháng Pháp, chống thuế. Những phong trào như Đông Kinh nghĩa Thục, Đông Du, Duy Tân do những nhà yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…lĩnh xướng đã thu hút đông đảo thanh niên trí thức, con cái các quan lại cấp tiến tham gia. Đây là thời kì Nguyễn Tất Thành học trường Pháp - Việt Đông Ba và Quốc học Huế đã có dịp chứng kiến đời sống khốn khổ của nhân dân ta và các cuộc biểu tình chống sưu cao thuế nặng của nhân dân Thừa Thiên Huế và cậu tham gia làm phiên dịch, vì thế Nguyễn Tất Thành nằm trong tầm ngắm của mật thám Pháp .Đây cũng là thời gian chín muồi trong nhận thức tư duy yêu nước của Nguyễn Tất Thành trong thực tiễn và hành động. Chương 4 “Cho chuyến đi xa”
Là giai đoạn 1909 là sự chuẩn bị của chàng trai Nguyễn Tất Thành khi rời thương cảng Sài Gòn ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Thời gian này ông Nguyễn Sinh Huy được bổ nhiệm làm tri huyện Bình khê ( Bình Định), Nguyễn Tất Thành vào học trường Pháp Việt Quy Nhơn một thời gian ngắn. Vì yêu nước, thương dân nên Tri huyện Bình Khê sai lính lệ trừng trị một tên cường hào, sau đó ông bị vu cáo hãm hại, triều đình Huế giáng chức, ông liền từ quan. Chính thời gian này Nguyễn Tất Thành có dịp tiếp xúc với những nhân sĩ trí thức của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục như các ông Nguyễn Trọng lôi, Nguyễn Quý Anh và anh xin dạy ở trường Dục Thanh ( Phan Thiết). Thấu hiểu lời cha dạy : “ Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn”, bên tai anh văng vẳng lời dạy của cha : “ Nước mất thì phải lo tìm nước đừng mất công tìm cha” là cú hích để anh rời Phan Thiết vào Sài Gòn để đến ngày 5-6-1911, tại bến Nhà Rồng anh lên con tàu đô đốc Amirarl Latouche Trévile với cái tên Văn Ba, bắt đầu hành trình vạn dăm 30 năm tìm đường cứu nước.Tập 2 của bộ tiểu thuyết mang tên Lênh đênh bốn biển gồm 9 chương với 222 trang, nhà văn khắc họa hình tượng Văn Ba- Nguyễn Ái Quốc ở Pháp, Anh , Mỹ, Hồng Công, Liên Xô, các nước châu Phi, Trung Quốc, Thái Lan... cho đến mùa xuân năm 1941 , Người trở về Tổ Quốc. So với tập 1 khối lượng tư liệu nhất là tính tư tưởng của tác phẩm, nhân vật, sự kiện lớn hơn rất nhiều. Vừa tự kiếm sống, vừa trau dồi kiến thức, Văn Ba đã hăng hái tham gia các hoạt động xã hội. Văn Ba-Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp năm 1918 rồi chủ động cùng các nhân sĩ Phan Bội Châu, Phan Chu Tinh, Phan Văn Trường gửi yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Véc- Xây (1919); bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ Ba (Quốc tế Cộng Sản) và trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Năm 1922, Người sáng lập ra tờ báo “ Người cùng khổ”, Người khẳng định sứ mệnh của tờ báo là “ giải phóng con người”. Bằng bút pháp chặt chẽ, sử lý tư liệu khôn khéo , nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã khắc họa thành công chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh những năm tháng bôn ba ở hải ngoại và chi tiết xúc động nhất là Người tìm đến Chủ nghĩa Mác Lê Nin . Khi đọc xong Luận cương Lê-nin, người bật khóc : “ Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta”. Hình tượng mà sau này nhà thơ Tố Hữu khắc họa : “ Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin”. Tiếp thu Chủ nghĩa Mác Lê-nin, sau hành trình dằng dặc 30 năm bôn ba hải ngoại, để đến trưa ngày 28-1-1941, Người đặt chân lên mảnh đất Cao Bằng “ Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/ Bác về im lặng con chim hót/Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ...”. Khép lại tập tiểu thuyết, tác giả viết : “ Vậy là, sau ba mươi năm dài đằng đẵng từ Đông sang Tây lại từ Tây về Đông, cuối cùng Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc, Tống Văn Sơ, Thầu Chín, Lý Thụy, Ông Vương, Hồ Quang...đã được đặt chân trở về mảnh đất mà ông luôn luôn đau đáu, khắc khoải trong lòng...Con đường cách mạng phía trước còn rất nhiều chông gai, ghềnh thác, nhưng ông nhất định cùng đồng chí, đồng bào mình đi tới đích...”
Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ là một chính khách, một chính khách làm văn nghệ, bằng tư duy chính trị nhạy bén với năng khiếu văn chương bẩm sinh, ông đã khắc họa thành công chân dung lịch sử Chủ tịch Hồ Chí Minh rất xúc động qua 2 tập của bộ tiểu thuyết Nước non vạn dặm. Được biết, lúc đầu nhà văn chỉ dự định viết 3 tập, nhưng suy xét dung lượng , những sự kiện lịch sử về chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với lịch sử dân tộc trong giai đoạn từ năm 1941 đến những năm 60 của thế kỷ 20 là quá lớn, nên ông quyết định viết trọn bộ bốn tập. Mong muốn trong thời gian tới, 2 tập tiếp theo của tác giả sẽ khắc họa thành công chân dung lịch sừ Chủ tịch Hồ Chí Minh mà độc giả mong đợi.