Hoàng Lộc được phân công công tác tại báo Xông Pha của Khu 12 đặt trụ sở tại Nhã Nam, nay thuộc huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Cùng làm việc với ông có nhà thơ Vân Đài, họa sĩ Quang Phòng, nhạc sĩ Văn Chung, nhà văn Nguyễn Địch Dũng...
Hồi đó, vùng đất Tân Yên - Băc Giang, là một phần của Chiến khu Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết "6 điều dạy Lực lượng Công an nhân dân". Đặc biệt, Tân Yên còn có ấp Cầu Đen- Đồi Cháy, được đặt tên là "Đồi Văn hóa Kháng chiến". Tản cư lên đây có các gia đình nhà văn Nguyên Hồng và nhà văn Kim Lân (năm 1947), sau đó là các họa sĩ Tạ Thúc Bình, Trần Văn Cẩn, rồi đến gia đình nhà văn Ngô Tất Tố. Sau này còn có sự hiện diện của những cây bút nổi tiếng như: Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tú Mỡ, Vân Đài, Anh Thơ, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, nhà viết kịch Trần Bảng… Có lúc đội ngũ văn nghệ sĩ tản cư lên tới hàng chục người. Họ được nhà nước cấp 15 mẫu đất để dựng nhà cửa, sản xuất, quần tụ đoàn kết bao bọc lẫn nhau cùng vượt khó sinh sống trên mảnh đất mới. Và điều đặc biệt là trong thời kỳ này các văn nghệ sĩ đã cho ra đời không ít những tác phẩm bất hủ để đời như: Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí, Bố con ông gác máy bay trên núi Cô Kê của nhà văn Kim Lân; Vĩnh Thụy ca (chèo), Buổi chợ trung du, Anh Lạc (truyện), Quà Tết bộ đội, Bùi Thị Phác và một số tác phẩm dịch thuật của nhà văn Ngô Tất Tố. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết mấy chương đầu tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô”. Nhà văn Nguyên Hồng sáng tác rất nhiều: Ấp Đồi Cháy, Địa ngục và lò lửa, Đất nước yêu dấu, Đêm giải phóng… Và sau này cũng ở đây ông viết bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế (2 tập) về cuộc khởi nghĩa của Anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám… Họa sĩ Tạ Phúc Bình, Trần Văn Cẩn, có những tranh cổ động phục vụ kháng chiến như: Đóng thuế nông nghiệp (tranh tứ bình), Góp thóc vào kho (tranh lụa), Mùa lúa chín (tranh bột màu)…Khá nhiều tác phẩm của nhà thơ Tố Hữu, Tú Mỡ, Trần Đăng, Nguyễn Đình Thi, Anh Thơ… cũng ra đời ở ấp Cầu Đen- Đồi Cháy. Nơi đây cũng đã khởi thảo cho số báo Văn nghệ ra đời năm 1948 tại chiến khu...
Được làm phóng viên mặt trận của báo "Xông Pha", Hoàng Lộc rất vui với công tác mới mẻ này. Khi ta quyết định mở chiến dịch Việt Bắc (Thu Đông 1947) cùng với bộ đội ông có mặt ngay ở mặt trận Đường số 4. Cuộc sống bộ đội, cuộc sống kháng chiến bận rộn, gian khổ và ác liệt đã dần dà tôi luyện Hoàng Lộc trở thành một thanh niên cứng cỏi, can trường. Chưa đầy ba năm đi kháng chiến, sống cùng bộ đội, nhà thơ trẻ đất Hà thành Hoàng Lộc đã tìm thấy được một niềm tin, một niềm say mới.
Nhà phê bình văn học Nhị Ca - người cùng thời, cùng trong một tòa soạn báo với Hoàng Lộc nhớ lại: "Gian khổ bắt đầu, nhưng lòng tin tuyệt đối vào tương lai của cách mạng lại vô cùng mạnh mẽ, sức trẻ bất chấp mọi thách thức, cứ làm việc không biết mệt. Đáng nhớ hơn nhiều là không khí những đêm khuya, trên cái nền âm thanh rì rào xáo động, điểm tiếng mang tác, hổ gầm, tiếng em giã gạo điểm nhịp ngoài suối dưới ánh nến nhựa trám bập bùng tuôn khói khét lẹt, Hoàng Lộc cởi trần, đầm đìa mồ hôi ngồi viết “Chặt gọng kìm đường số 4”, trong đó có bài thơ “Viếng bạn” với những dòng chữ to như hòn bi, trên tập giấy bản hút mực nhòe nhoẹt. Anh vừa cùng Đông Hoài từ biên giới trở về, sau khi; đã dự trận Bông Lau. Mắt anh sáng lên một cách kỳ lạ, ánh sáng của phút phân thân sáng tạo và của cơn sốt âm ỉ báo hiệu anh chớm bị bệnh lao". (Nhị Ca - bài “Bắt đầu từ đội xung phong trung đoàn”, báo Văn nghệ, số 504, ngày 21/6/1973).
Và cũng từ những phút phân thân sáng tạo như thế, với bút danh: Hoàng Lộc, Xung kích H., Súng kíp hỏng... Ông đã viết rất nhiều bài tin, phóng sự và thơ in trên các tờ "Xông pha", "Bắc Sơn" của Vệ quốc quân các Liên khu XII, Liên khu I rồi báo "Vệ quốc quân" Trung ương, cơ quan của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia Việt Nam. Bằng tác phẩm của mình, tên tuổi Hoàng Lộc đã trở nên rất gần gũi với cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang ta.
Nhưng oái oăm thay, cũng chính từ những cuộc đi và viết đó, Hoàng Lộc đã mắc trọng bệnh, trước khi có quyền định điều động về làm phóng viên tờ Vệ quốc quân Trung ương (tức báo Quân đội nhân dân ngày nay), và vừa nhận được giấy triệu tập về tham dự hội nghị tuyên truyền văn hóa - văn nghệ toàn quân do Cục Chính trị - tức Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, tổ chức tại một địa điểm dưới chân núi Tam Đảo (1949).
Nhà phê bình văn học Ngô Vĩnh Bình (nguyên Tổng Biên tập Tạp chí VNQĐ) cho biết: “Hoàng Lộc mất khi tuổi đời còn rất trẻ, 27 tuổi, trên một chặng đường công tác gian khổ; giữa lúc đang ở “tuổi thanh niên hứa hẹn rất nhiều triển vọng" (Cáo phó của báo "Vệ quốc quân"); giữa lúc đất nước đang ngập chìm trong khói lửa của cuộc chiến tranh, gia đình ly tán, chưa có vợ có con, thậm chí chưa có người thương - bạn gái; "quê hương thì có cửa nhà thì không" vì người anh trai duy nhất còn sống đã chuyển cả gia đình vào Nam trước khi Hà Nội được giải phóng, trước khi ký Hiệp định Giơnevơ. Tuy vậy, hình ảnh ông, tác phẩm của ông vẫn vượt qua thời gian, vượt qua những tháng năm binh lửa, chia ly để còn mãi trong ký ức người thân, bè bạn, đồng nghiệp, đồng đội và bạn đọc. Tên tuổi ông còn được lưu giữ trên quê hương Châu Khê, trong nhà thờ gia tộc họ Hoàng, còn trong căn nhà tĩnh mịch ở đường Võ Duy Nghi (đường Lê Lợi hiện nay) TP. Hồ Chí Minh - nơi sinh thời người anh duy nhất của ông, người hết mực yêu thương và kỳ vọng ở ông, cụ Hoàng Nhật Tiến từng cư ngụ... Và ở nơi yên nghỉ cuối cùng của ông là nghĩa trang liệt sĩ xã Đồng Quế, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Kể từ khi tác giả bài thơ “Viếng bạn” hi sinh ngày 29/11/1949, phải đến 35 năm sau, ngày 23/5/1984, Hoàng Lộc mới được truy phong Liệt sĩ và được Nhà nước tặng bằng Tổ quốc ghi công, sau đó được truy tặng Huy chương vì sự nghiệp báo chí Việt Nam, được đưa vào sách “Chân dung các Nhà báo Liệt sĩ”, sách “Nhà văn Việt Nam hiện đại”... Những vinh dự này tuy muộn mằn nhưng là sự ghi nhận của Tổ quốc đối với những cống hiến của Hoàng Lộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trong sự nghiệp báo chí, văn nghệ cách mạng; đồng thời cũng là biểu hiện tình thương yêu, lòng trân trọng của người thân, bạn bè, đồng nghiệp cùng đông đảo bạn đọc đối với ông.
Cuộc đời chiến đấu, cuộc đời cầm bút của Hoàng Lộc không dài, vẻn vẹn chưa đầy 3 năm, và ông mất khi tuổi đời còn rất trẻ, nhưng Hoàng Lộc đã nêu một tấm gương sáng cho mỗi người cầm bút. Cùng với Trần Mai Ninh, Thâm Tâm, Thôi Hữu, Trần Đăng... Những "văn nghệ binh thứ nhất hy sinh nơi chiến trường", tên tuổi của Hoàng Lộc gắn liền với văn thơ kháng chiến, gắn liền với văn thơ viết về bộ đội Cụ Hồ.
Tác phẩm của Hoàng Lộc để lại cho chúng ta không chỉ có bài thơ “Viếng bạn”, không chỉ có những bài báo được ký với các bút danh Xung kích H., Súng kíp hỏng, H.H, Lộc... in trên các tờ báo của lực lượng vũ trang xuất bản ở chiến khu những năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1947, 1948, 1949, 1950). Hoàng Lộc không thuộc số những nhà thơ chỉ có một bài, không nằm trong số các hiện tượng thơ gọi là “hiện tượng một bài". Ông là một tác giả. Ông có những tập thơ, tập văn có giá trị.
Cũng theo nhà văn Ngô Vĩnh Bình: Kể từ khi ra đời trong sách “Chặt gọng kìm đường số 4” và được in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ số xuân năm 1950 đến nay, bài thơ “Viếng bạn” đã in đi in lại tới cả trăm lần, in trên các báo, các tập thơ tuyển, các sách giáo khoa, in trong nước, in ở nước ngoài (ví dụ trong tạp chí Europe N387-388, Augut - 1961). Bài thơ đã được xem như là một trong những bài thơ hay nhất viết về tình đồng đội trong chiến đấu. Giá trị của bài thơ như thế nào thì đã được các nhà phê bình văn học, các thầy cô giáo phân tích, tìm hiểu. Nhưng có điều phải ghi nhận thêm là, ngay từ khi mới được công bố, bài thơ đã có tiếng vang rất lớn thức tỉnh trái tim của nhiều văn nghệ sĩ đầu quân kháng chiến trong những ngày đầu gian khổ hy sinh.
Bài thơ “Viếng bạn” còn có thể xem như một cái mốc, một bước đột phá trong đời thơ của Hoàng Lộc. Chỉ với Viếng bạn, chỉ bằng Viếng bạn, ông đã từ cõi mơ sang cõi thực, từ ủy mị yếu đuối tới khỏe khoắn, can trường, từ "đạo" qua "đời". Và như thế “Viếng bạn” không còn là tiếng khóc của riêng Hoàng Lộc nữa mà đã là tiếng khóc của những người đồng chí khóc những người đồng chí, là tình cảm của đồng đội với đồng đội, "huynh đệ chi binh".
Theo Nhà thơ Vương Trọng: Trong mấy cuộc kháng chiến giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, đã có hàng trăm bài thơ viết về những tấm gương hy sinh cao cả của người lính. Không biết chính xác ai là người liệt sĩ đầu tiên của quân đội ta, hy sinh năm nào, ở đâu… nhưng bài thơ đầu tiên viết về liệt sĩ được lưu hành rộng rãi, đó là bài thơ “Viếng bạn” của Hoàng Lộc viết đầu năm 1948, trước bài thơ “Lượm” của Tố Hữu viết cuối năm 1949 và “Khóc Hoài” của Vĩnh Mai, năm 1950…
Xin được giới thiệu bài thơ VIẾNG BẠN (theo bản in lần đầu tiên):
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ.
Đứa nào bắn anh đó?
Súng nào nhằm trúng anh?
Khôn thiêng xin chỉ mặt,
Gọi tên nó ra, anh!
Tên nó là đế - quốc?
Tên nó là thực - dân?
Nó là thằng thổ - phỉ?
Hay là đứa Việt - gian?
Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt.
Ở đây không gỗ ván!
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa - Ngăn
Tặng tôi hồi phân tán.
Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung.
Tiến tới kỷ niệm tròn 70 Chiến thắng Điện Biển Phủ và kết thúc cuộc Kháng chiến chống Pháp (1954 – 2024); nhóm Họa sĩ trẻ của “Trái tim người lính” vừa phục dựng màu cho di ảnh thờ của Liệt sĩ, Nhà thơ Hoàng Lộc.
Bắc Giang, 26/3/2024
Trái Tim Người Lính (Sưu tầm và Biên soạn)
Pham Thuy
11:00 17/04/2024
Cảm ơn bài báo và các họa sĩ của Chương trình "Trái tim người lính", tôi là cháu của liệt sĩ Hoàng Lộc rất biết ơn chương trình và vô cùng cảm ơn các anh chị em!