Ngày ấy (năm 1964), tôi là một thanh niên 20 tuổi, đang học ở Trường cấp 3 Tiền Hải, Thái Bình, thấy có tuyển quân thế là gửi sách bút về nhà, tình nguyện nhập ngũ. Đó là thời kỳ cả nước bừng bừng khí thế ra trận, khát vọng của tuổi trẻ khi ấy là được cống hiến cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau 4 tháng huấn luyện ở Tiên Yên, Quảng Ninh, tôi viết đơn tình nguyện đi chiến đấu ở chiến trường B. Nguyện vọng của tôi được trên chấp thuận và tôi được điều về Khu quân sự Đồ Sơn, huấn luyện những khoa mục cần thiết. Cấp trên cho biết sẽ được đi làm nhiệm vụ đặc biệt, nhưng đặc biệt thế nào thì chưa rõ. Sau hai tháng huấn luyện, tôi cùng hai đồng chí nữa được điều về Tàu 41 do đồng chí Hồ Đắc Thạnh làm thuyền trưởng, đồng chí Trần Hoàng Chiến làm chính trị viên. Cấp trên giao nhiệm vụ và căn dặn: “Các đồng chí được xuống tàu Không số để làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam.
Đây là một nhiệm vụ đặc biệt phải tuyệt đối giữ bí mật, ai làm người ấy biết, sống để bụng chết mang theo, không được trao đổi với bất kỳ ai, đó là nguyên tắc phải tuyệt đối chấp hành, thư từ gửi cho ai đều phải qua kiểm duyệt, các đồng chí như những chiến sĩ cảm tử, nên những quy định trên là vì nhiệm vụ chung, chúng ta ai cũng phải chấp hành…”. Mọi người chúng tôi rất xúc động, tự hào trước nhiệm vụ quan trọng, hứa quyết tâm hoàn thành xuất sắc. Trong khoảng thời gian 6 tháng (từ tháng 8-1964/3-1965) tôi và đồng đội trên Tàu 41 đã đi được 5 chuyến thành công.
Chuyến thứ nhất vào Cà Mau
Tàu chúng tôi xuất phát từ K20 - đối diện với Nhà máy xi măng Hải Phòng - đi K35 (Đồ Sơn) nhận hàng, hành trình qua đảo Hải Nam (Trung Quốc) ra vùng biển Quốc tế hướng về phía Nam. Tàu đi trong điều kiện thời tiết xấu để dễ tránh địch, gặp sóng to gió lớn, cảm giác nhỏ bé lênh đênh trên biển cả. Nhưng nguy hiểm hơn đó là kẻ thù luôn rình rập, tàu chiến, máy bay của Hạm đội 7 phong tỏa, theo dõi gắt gao. Một sự cố không may là ngay trong ngày đầu tiên tàu đã bị mắc cạn ở Hoàng Sa. Vào khoảng 2 - 3 giờ sáng tàu bị lao lên bãi cạn. Khi đó, thủy triều đã xuống thấp, tàu nổi trên bãi cạn, cách chỗ quân ngụy Sài Gòn đóng quân trên đảo khoảng 7 – 8 hải lý.
Chúng tôi loay hoay suy tính: Phương án 1, làm thế nào để đưa tàu ra mà không bị lộ để tiếp tục hành trình; phương án 2 là phá hủy tàu. Điện báo về nhà chấp thuận phương án 2, nhưng động viên tàu cố gắng thực hiện được phương án 1. Suốt từ 3 giờ sáng đến đêm, anh em vật lộn, tìm mọi cách chằng buộc, thả neo để giữ cho tàu khỏi bị sóng đánh nghiêng sẽ làm hỏng lái và chân vịt. Đến khoảng giữa trưa, phía mũi tàu gác lên bãi cạn, lội xuống nước chỉ đến đầu gối. Rất may là bánh lái và chân vịt nằm ở một hốc sâu, chúng tôi bơi lội, chằng buộc chắc, giữ cố định tàu ở vị trí đó. Phúc lớn đã đến với chúng tôi, đến khoảng 23-24 giờ đêm thủy triều lên, chúng tôi cố gắng hết sức dùng tời quay, kéo tàu ra được khỏi bãi cạn.
Kiểm tra thân vỏ tàu, máy móc không việc gì, chỉ mất một neo trái. Hành trình của chúng tôi lại tiếp tục, sau hơn 3 ngày đêm vật lộn với sóng gió, bình tĩnh mưu trí xử lý các tình huống khi gặp địch, tàu đã tới Đất Mũi an toàn. Giao hàng xong, khi trở ra Bắc, mặc dù tàu đã được đóng hàng bằng cát, bùn, dừa nước, nhưng do đi ngược và gió mùa đông bắc to, tàu bị nghiêng, nhưng bằng tất cả sự cố gắng, tàu đã về đến đích Hải Phòng an toàn. Sau đó, tàu được giao cho bộ phận bảo quản đưa vào Xưởng 46 sửa chữa.
Mở đường vào Vũng Rô, Phú Yên
Tàu chúng tôi nhận hàng từ Bãi Cháy, Quảng Ninh và xuất phát theo hành trình đi qua eo biển bán đảo Lôi Châu – đảo Hải Nam – ra biển Quốc tế và hướng về đất liền. Chuyến đi này là một thử thách rất lớn, trên đường đi phải thường xuyên đối phó với địch, khu vực Vũng Rô rất nguy hiểm, bến bãi trống trải, địch đóng quân canh phòng dày đặc. Địch kiểm soát khống chế rất chặt chẽ, từ trên quốc lộ 1A và đỉnh Đèo Cả có thể quan sát thấy bất kỳ tàu thuyền nào ra vào.
Yêu cầu đặt ra là khi tàu cập bến, phải nhanh chóng bốc dỡ 6 – 7 chục tấn hàng sao cho kịp để tàu ta có thể quay ra vùng biển Quốc tế ngay trong đêm. Đây là chuyến mở đường lên tín hiệu để nhận nhau phải được phối hợp bí mật, chuẩn xác. Điện của trên báo cho bến là chuẩn bị đón tàu vào khoảng 8 giờ tối.
Đúng giờ, anh có mặt chờ đến hơn 9 giờ vẫn không thấy gì, đành rút về vị trí trú ẩn nghỉ ngơi và nướng khoai, sắn để ăn. Lý do chậm giờ là khi tàu chuyển hướng vào bờ phải xử trí nhiều tình huống tránh, đánh lừa địch. Đến khoảng 12 giờ đêm tàu mới tới gần. Xác định đúng là Vũng Rô và vị trí quy định, tàu phát tín hiệu nhận nhau (bằng đèn pin) mãi mà không thấy gì. Tàu tiếp tục từ từ tiến sâu vào trong, tắt máy, thả trôi, tổ chức quan sát. Phát hiện có ánh lửa leo lét, chập chờn phía xa trong vách núi, tàu quyết định thả xuồng và cho người vào bắt liên lạc.
Tổ 3 người chúng tôi được lệnh chèo xuồng vào bờ, đồng thời trên tàu triển khai phương án chiến đấu. Xuồng đi về phía có ánh lửa, chúng tôi lên bãi tiếp cận. Thấy động họ tắt lửa, tản vào rừng. Trong đêm tối, chúng tôi đang tiến vào thì bị phát hiện, có tiếng hô: Dừng lại! hạ vũ khí! giơ tay lên!
Chúng tôi đáp lại: Yêu cầu của các anh không được, chúng tôi đã biết các anh, đề nghị các anh cho chúng tôi gặp ông Sáu Râu theo hẹn và chúng tôi phát tín hiệu đèn pin. Thế là nhận ra nhau. Ông Sáu Râu là đồng chí Trần Suyền, Khu ủy viên Khu V, trực tiếp phụ trách bến, chạy tới ôm chầm lấy chúng tôi, vui mừng khôn xiết. Họ không tưởng tượng con tàu lại lớn đến vậy, họ nghĩ chỉ chờ đón con thuyền nhỏ và chở vài tấn hàng thôi. Cảm tưởng của chúng tôi về chuyến đi này là vô cùng phấn khởi, xúc động vì đã chuyển được quà của Đảng, Bác Hồ và đồng bào miền Bắc tới Quân và Dân khu V kiên cường bất khuất, thiếu thốn mọi bề, đang ngày đêm mong chờ sự tiếp viện từ hậu phương lớn.
Buổi gặp gỡ giao nhận hàng diễn ra thật cảm động, các chiến sĩ, dân quân ở bến vui mừng phấn khởi, họ xem từng chi tiết trên con tàu với niềm tin yêu, tin tưởng vào miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tiếp theo thành công của chuyến mở đường, Tàu 41 tiếp tục vận chuyển hàng vào Vũng Rô chuyến thứ 2 thành công. Chuyến này ngoài hàng, chúng tôi còn mang theo mấy tấn gạo tám thơm để tặng anh chị em ở bến vì họ đói lắm, mấy tuần trước chờ đón chúng tôi họ đã phải ăn sung, củ mài để làm nhiệm vụ.
Chuyến thứ 4 là lần thứ 3 chúng tôi vào Vũng Rô giữa đêm 30 Tết
Tôi còn nhớ đó là ngày 31-1-1965, đón giao thừa trong lúc giao nhận hàng. Chúng tôi tạm dừng ít phút nghe Bác Hồ chúc Tết và cùng anh chị em ở bến đón xuân. Trước đó 1 giờ chúng tôi giật mình nghe vì bỗng nghe tiếng súng, tiếng pháo nổ râm ran trên đỉnh đèo, nơi địch đóng quân. Bọn chúng cũng nổ súng, đốt pháo đón tết mà không hề hay biết ngay dưới chân chúng cách chừng khoảng 100 m theo đường chim bay chúng tôi đang chuyển hàng chục tấn hàng từ miền Bắc vào.
Ăn tết ở chiến trường, nơi rất nguy hiểm, nhưng đã diễn ra rất cảm động: Cũng bánh chưng, bánh tét, dưa hành… mà tàu chúng tôi đã chuẩn bị mang theo từ Hải Phòng. Sau những lời chúc tụng nhau mạnh khỏe, giành nhiều thắng lợi, có một nữ thanh niên ở bến cầm nắm đất gói vào trong khăn mùi xoa trao cho đồng chí thuyền trưởng để chuyển ra ngoài miền Bắc, nói lên lòng biết ơn đối với Đảng, Bác Hồ và nhân dân miền Bắc và hứa quyết tâm của quân dân Khu V với sự chi viện của hậu phương tình nghĩa thế này sẽ sớm giải phóng được quê hương miền Nam thống nhất đất nước.
Hiện nắm đất này vẫn lưu giữ trong Bảo tàng Hải quân nhân dân Việt Nam. Sau chuyến đi này Tàu 43 chở hàng vào Vũng Rô thì bị lộ, 14 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, trở thành sự kiện Vũng Rô. Tuyến đường tiếp tế cho cách mạng Miền Nam bằng đường biển bị lộ, địch phong tỏa gắt gao, ta tạm dừng một thời gian ngắn, một số tàu được cử đi trinh sát nắm bắt tình hình địch trong đó có Tàu 41.
Chuyến đi thứ 5 đi trinh sát nắm bắt tình hình địch
Tàu chúng tôi nhận nhiệm vụ trong một không khí tĩnh lặng, thể hiện sự quyết tâm rất cao, sẵn sàng xả thân vì nhiệm vụ. Tôi nhớ, Trung tá Phó chính ủy Võ Thành xuống tàu giao nhiệm vụ và động viên, có nói với nội dung là: Chuyến này các đồng chí đi với mục đích là tìm hiểu nắm bắt tình hình địch trên biển, tìm đến địch để xem chúng phản ứng ra sao, để trên tìm phương cách tiếp tục chi viện cho cách mạng miền Nam, nên chuyến đi này rất nguy hiểm, tàu có thể bị địch bắt, phá hủy, các đồng chí có thể phải hy sinh, chết ngoài biển khơi… đồng chí nào thấy khó khăn gì về riêng tư không đi được chuyến này thì cứ mạnh dạn báo cáo, tổ chức sẽ thu xếp tạm đưa các đồng chí sang tàu khác, khi tàu này hoàn thành nhiệm vụ trở về, chúng tôi lại điều các đồng chí về Tàu 41 của mình…”.
16 cán bộ, chiến sĩ chúng tôi đã từng thề sống chết có nhau trong mấy chuyến đi thử thách vừa qua, không ai lỡ rời nhau. Tất thảy chúng tôi vui vẻ sẵn sàng ra đi làm nhiệm vụ. Tàu giả dạng tàu cá Đài Loan, sau khi qua eo biển Lôi Châu – Hải Nam khoảng từ chiều hôm trước đến 8-9 giờ sáng ngày hôm sau thì gặp tàu chiến, máy bay của hạm đội 7 thay nhau bám sát, từ mạn phải sang mạn trái, cách khoảng 100m, chụp ảnh, đánh tín hiệu hỏi, chĩa súng sang đe dọa.
Qua 1 ngày đêm sang ngày thứ 2, đến ngày thứ 3 chúng tôi giả kéo lưới từ vùng biển Philippines, cách Song Tử Tây 15 hải lý, chúng tôi chuyển sang hướng Tây – đi về hướng vùng biển Việt Nam và cách bờ 70 hải lý. Địch càng tăng cường theo dõi, bám sát hơn khi tàu chúng tôi chuyển hướng vào gần phía bờ biển Việt Nam. Trên boong tàu chúng tôi vẫn hoạt động như những ngư dân: mang mực, cá khô đã chuẩn bị sẵn ra phới đầy boong.
Địch vòng quanh giám sát rồi bỏ đi. Chúng tôi chuyển hướng về phía Bắc hết ngày thứ 4, không thấy địch kèm nữa, đến tối chúng tôi chuyển hướng về phía Bắc và trở về. Chuyến đi trinh sát đã thành công, từ đó trên lại tiếp tục phái những con tàu không số đi vận chuyển tiếp tế cho chiến trường miền Nam, nhưng vô cùng khó khăn và phải hy sinh nhiều cả tàu và con người. Sau chuyến đi tôi được cấp trên điều lên bờ, ôn văn hóa, được kết nạp vào Đảng và cử đi học ở nước ngoài, phải tạm xa con tàu và các đồng chí đồng đội đã từng gắn bó máu thịt với mình trong khi làm nhiệm vụ. Cuối năm 1974 tôi hoàn thành thành nhiệm vụ học tập trở về, tốt nghiệp với tấm bằng kỹ sư hàng hải. Đầu năm 1975, tôi theo sau các chiến dịch vào tiếp quản Đà Nẵng, Cam Ranh, Vũng Tàu…
Dưới chân Hòn Hèo, tôi thực sự xúc động khi được nghe những câu chuyện của người thủy thủ già trên con tàu Không số 60 năm về trước. Người viết không hề sửa chữa câu văn trong lời kể của ông. Thiết nghĩ những mỹ từ khẩu hiệu không cần thiết. Ông cho tôi được sống với quá khứ những năm tháng hào hùng của dân tộc. Tất cả vẫn nguyên giá trị, khi tuyến vận tải đường biển đang góp phần quan trọng cho nền kinh tế, nhất là những ngày cả nước đang đồng lòng chống dịch.
Theo Trái tim người lính