Lịch sử Việt Nam (Từ tiền sử đến năm 2007) (Kỳ 13)

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc tác phẩm “Lịch sử Việt Nam từ tiền sử đến năm 2007” của PGS TS Cao Văn Liên  do NXB Thanh niên ấn hành năm 2009.     
cvl2-1625618797.jpg
Chú thích ảnh

Kỳ 13

Trước tình hình đó, Vương Thông quyết định mở cuộc phản công ra ngoài thành Đông Đô để tiêu diệt lực lượng Lam Sơn, đồng thời xoay chuyển tình thế, giành lại quyền chủ động. Đạo quân của Phạm Văn Xảo  phối hợp với đạo quân Nguyễn Xí chặn đánh địch ở Cổ Lãm (Thanh Oai - Hà Tây cũ, nay là Hà Nội), tập kích địch ở Ninh Kiều((Chương Mỹ-Hà Tây) và bố trí mai phục tiêu diệt địch ở Tốt Động-Chúc Động (Chương Mỹ-Hà Tây). Chiến dịch Tốt Động-Chúc Động mở ra cục diện mới trong chiến tranh. Địch hoàn toàn lui về cố thủ ở các thành, ta đẩy mạnh tiến công vây hãm địch. Toàn bộ chiến dịch ta tiêu diệt 6 vạn quân địch, giết chết những tướng lĩnh cao cấp của chúng như Thượng thư Trần Hiệp, nội quân Lý Lượng, cả Tổng binh Vương Thông cũng bị trọng thương. Vương Thông chạy về Đông Đô cố thủ và xin viện binh nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh. Ta một mặt chuẩn bị đối phó với viện binh, mặt khác mở thêm mũi binh vận làm sụp đổ tinh thần quân xâm lược.

Chiến thắng Chi lăng-Xương Giang: Từ 10 tháng10 đến 3 tháng 11 năm 1427, nhận được thư cầu viện của Vương Thông, vua Minh Tuyên Tông (1426-1436) cử 15 vạn quân tiến vào nước ta cứu viện. Đạo thứ nhất gồm 10 vạn quân do An viễn hầu Liễu Thăng chỉ huy theo đường Lạng Sơn tiến vào , đạo thứ hai do tướng Mộc Thạnh chỉ huy  gồm 5 vạn quân theo đường Lào Cai tiến xuống. Lúc này quân Lam Sơn khoảng 35 vạn rải ra trên chiến trường toàn quốc nên chỉ có 6 vạn quân cơ động chiến đấu. Đứng trước 3 khối quân lớn của địch:16 vạn quân Minh bị vây hãm ở các thành trong đó Đông Đô 4 vạn, 10 vạn quân của Liễu Thăng và 5 vạn quân của Mộc Thạnh đang chuẩn bị tiến sang, Bộ chỉ huy Lê Lợi-Nguyễn Trãi quyết định mở trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt đạo quân chủ lực của Liễu Thăng. Khi đạo quân Liễu Thăng bị tiêu diệt,  quân các thành phải đầu hàng, quân Mộc Thạnh không đánh cũng tự tan vỡ. Đối với đạo quân Liễu Thăng đông 10 vạn tên cũng không thể đánh một trận mà phải bố trí một loạt trận đánh tiêu diệt địch từ Chi Lăng đến Xương Giang. Trong 6 vạn quân cơ động,  Bộ chỉ huy quân khởi nghĩa dùng 5 vạn vào chiến dịch này.

 Ngày 8 tháng 10 năm 1427 (18 tháng 9 đinh mùi), tiền quân của Liễu Thăng tiến vào ải Pha Luỹ. Tướng Trần Lựu ra đánh và dụ địch vào ải Chi Lăng, trận địa mai phục của ta (cách Pha Luỹ 60 km về phía nam, cách Đông Đô 100km về phía bắc). Tại Chi Lăng ta có 1 vạn quân, 100 ngựa, 5 thớt voi do cac tướng Lê Sát , Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ, Thế Bổng, Lý Huề chỉ huy. Ngày 10 tháng10 năm 1427, Liễu Thăng do chủ quan bỏ xa đại quân,  chỉ đem theo 100 quân kỵ đuổi theo Trần Lựu,  lọt vào trận địa mai phục và bị quân Lam Sơn phóng lao đâm chết ở gò Mã Yên, 1 vạn tiền quân địch lọt vào ải Chi Lăng cũng bị ta tiêu diệt. Chiến trường diễn ra suốt chiều dài 8 km. Việc chủ tướng Liễu Thăng tử trận gây hoảng loạn cho quân địch, làm đảo lộn kế họach chiến đấu của chúng. Lương Minh lên thay Liễu Thăng tiếp tục đem quân tiến sâu vào nước ta, lọt vào trận địa mai phục của ta ở Cần Trạm-Kép. 4 vạn quân ta do các tướng  Lê Sát, Lê Lý, Lê Văn An chỉ huy tiêu diệt thêm 2 vạn quân địch. Tổng binh Lương Minh cũng bị quân ta phóng lao đâm chết. Ngày 18 tháng 10 tại Phố Cát, địch bị ta tập kích tổn thất nặng nề. Binh bộ Thượng thư Lý Khánh quá hoảng sợ thắt cổ tự vẫn. Đô đốc Thôi Tụ, Thượng thư Hoàng Phúc cố đem tàn quân tiến về thành Xương Giang (Bắc Giang) để mong liên hệ với Đông Đô, nhưng đến nơi thì thành Xương Giang đã bị quân ta chiếm trước khi quân Minh vào biên giới 10 ngày. Quân địch phải đóng quân co cụm mà không có thành quách bảo vệ. Quân ta thắt chặt vòng vây. Ngày 3 tháng 11 năm 1427, ta tổng công kích, 5vạn quân địch bị giết. Hoàng Phúc, Thôi Tụ bị bắt cùng 300 quân sống sót. 10 vạn quân của đạo quân chủ lực chỉ có 1 tên chạy thoát về nước. Nghe tin đạo quân Liễu Thăng bị tiêu diệt, đạo quân Mộc Thạnh hoảng loạn tháo chạy về nước. Quân ta dưới sự chỉ huy của các tướng Phạm Văn Xảo, Nguyễn Chích, Lê Trung truy kích tiêu diệt 2 vạn, băt sống  1000 tên ở Lãnh Cầu, Đan Xá.

Chiến thắng Chi Lăng -Xương Giang đã đè bẹp ý chí xâm lược của quân xâm lược. Ngày 16 tháng 12 năm 1247, Vương Thông phải ký văn bản thề rút quân về nước, chấm dứt chiến tranh. Ngày23 tháng 12 năm đó, 10 vạn quân Minh còn lại rút về nước. Ngày 3 tháng 1 năm 1428, đất nước sạch bóng quân thù.

Khởi nghĩaLam sơn là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, kết hợp chiến tranh vũ trang của nghĩa quân với sự nổi dậy giành quyền làm chủ ruộng đất của nhân dân. Cuộc chiến tranh giải phóng đã kết hợp khởi nghĩa vũ trang với đấu tranh chính trị,  binh vận và ngoại giao. Khởi nghĩa Lam sơn là một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn nhất từ trước cho đến lúc đó, đã huy động, phát huy sức mạnh vĩ đại của dân tộc trong đấu tranh vũ trang, trong binh vận, trong sự nổi dậy như bão táp của nhân dân tiêu diệt lực lượng vũ trang, lật đổ chính quyền địch, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

III-SỰ KHỦNG HOẢNG CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM VÀ CHIẾN TRANH NÔNG DÂN THẾ KỶ XVI, XVII, XVIII

Qua 600 năm giành độc lập, chế độ phong kiến Việt Nam được xây dựng và phát triển toàn diện mà đỉnh cao là thời Lê Sơ thế kỷ XV. Bước vào thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu phản động, tha hoá. Xu hướng đi xuống của chế độ này được biểu hiện ở sự hủ bại , thối nát của giai cấp cầm quyền. Từ triều đình trung ương đến quan lại các cấp chính quền địa phương đều mục ruỗng. Vua quan miệt mài trong các cuộc trác táng, truỵ lạc, xa xỉ và phè phởn, vung phí tiền bạc của nhà nước, của nhân dân. Vua Lê Uy Mục (1505-1509) được người đương thời gọi là vua quỉ, Vua Lê Tương Dực(1510-1516) được gọi là vua lợn. Bọn quí tộc đua nhau cướp đoạt ruộng đất của nông dân để xây cất cung điện , nhà cửa. Một chế độ độc đoán,  chuyên quyền dẫn tới kẻ nào nắm quyền lực sẽ nắm được quyền cướp đoạt, chi phối kinh tế.  Đúng như F.  Ăngghen nói: Quyền lực chính trị bản thân nó không sản sinh ra kinh tế nhưng nó có tác dụng cướp đoạt kinh tế. Vỡ lẽ đó bọn mọt dân ra sức mua quan bán tước, kiên quyết phải làm quan bằng mọi giá để cướp bóc,  đục khoét nhân dân. Quyền lực có thể giúp cho bọn mọt dân có thể cướp đoạt được mọi thứ cũng là nguyên nhân dẫn tới cuộc đấu tranh khốc liệt trong nội bộ giai cấp cầm quyền để tranh giành quyền lực, dẫn tới xung đột, nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến triền miên,  liên tục, gây tổn hại,  chết chóc,  đau thương khổ cực vô cùng tận cho nhân dân, phá hoại sự thống nhất đất nước .

Những năm 20 của thế kỷ XVI, tập đoàn phong kiến mạnh nhất khi đó là họ Mạc thâu tóm hết quyền hành vào tay. Tháng 12 năm 1526, Mạc Đăng Dung giết vua Lê Chiêu Tông. Ngày 15 thánh 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung buộc vua Lê Cung Hoàng phải nhường ngôi cho Dung,  sau đó vua và hoàng thái hậu bị Dung giết chết. Khi đó Lê Cung Hoàng mới 21 tuổi,  ở ngôi được 5 năm.

Như vậy, thời Lê Sơ kể từ lúc chiến thắng quân Minh, Lê Thái Tổ lên ngôi vua năm 1428 đến Lê Cung Hoàng trải qua 10 đời vua, trị vì 100 năm [1] . Thời Lê Sơ kết thúc mở ra những trang đen tối trong lịch sử phong kiếnViệt Nam. Thời kỳ thịnh trị chấm dứt, thời kỳ suy thoái, nội chiến bắt đầu với cục diện Nam-Bắc triều là biểu hiện đầu tiên. 10 đời vua thời Lê Sơ là :

1 . Lê Thái Tổ (1428-1433 )- 5 năm

2 . Lê Thái Tông (1434-1442 )- 8 năm

3 . Lê Nhân Tông (1443-1459 )- 16 năm

4 . Lê Thánh Tông (1460-1497 )- 37 năm

5 . Lê Hiến Tông (1497-1504 )- 7 năm

6 . Lê Túc Tụng (1504 )

7 . Lê Uy Mục (1505-1509 )- 4 năm

8 . Lê Tương Dực (1510-1516 )- 6 năm .

9 . Lê Chiêu Tông ( 1516-1522 )- 6 năm

10 . Lê Cung Hoàng(1522-1527 )- 5 năm

Việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê chỉ vì quyền lợi ích kỷ của bản thân, của gia đình, dòng họ nên làm cho mâu thuẫn nội bộ giữa các tập đoàn phong kiến càng thêm gay gắt. Các tập đoàn phong kiến khác tìm cách chống đối nhà Mạc. Nguyễn Kim (quê ở Hà Trung, Thanh Hoá), một cựu thần nhà Lê đã tôn phò Lê Duy Ninh, con của Lê Chiêu Tông lên ngai vua tức là Lê Trang Tông, thành lập Nam Triều ở vùng núi phía tây Thanh Hóa, giáp biên giới Lào -Việt. Với Lê Trang Tông, thời Lê Trung Hưng bắt đầu. Tháng 12 năm 1540, Nguyễn Kim kéo quân từ đất Lào đánh chiếm Nghệ An. Cuối năm 1543, Nam Triều chiếm Tây Đô (Thanh Hoá),  cuộc nội chiến Nam-Bắc Triều bắt đầu và kéo dài gần 50 năm (1545-1592). Trong gần 50 năm Nam-Bắc Triều đó đánh nhau 38 trận lớn nhỏ, có những trận quân số mỗi bên huy động lên 10 vạn người, tàn sát nhau khủng khiếp. Năm 1545, Nguyễn Kim kéo quân đến Ninh Bình thì bị nội gián nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc chết. Khi đó hai con trai của Nguyễn Kim còn nhỏ nên toàn bộ quyền lực ở Nam Triều vào tay con rể là Trịnh Kiểm (quê Vĩnh Lộc, Thanh Hoá ). Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, con là Trịnh Tùng thay thế. Ngày 25 tháng 11 năm 1592, quân Trịnh phá tan quân Mạc ở Kim Thành, Thạch Hà (Hải Dương). Vua cuối cùng của nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp bị giết chết. Nhà Mạc diệt vong. Từ Mạc Đăng Dung đến Mạc Mậu Hợp nhà Mạc trải qua 5 đời vua, trị vì 62 năm[2].         

1 . Mạc Đăng Dung (1527-1529)- 2 năm

2 . Mạc Đăng Doanh (1530-1540)- 10 năm

3 . Mạc Phú HảI (1541-1546 )- 5 năm

4 . Mạc Phú Nguyên (1546-1561)- 15 năm

5.  Mạc Mậu Hợp (1562-1592) – 30 năm                                   

Cục diện Nam-Bắc Triều kết thúc.  Trịnh Tùng đem vua Lê về Thăng Long nhưng không trao chính quyền cho vua Lê mà biến triều đình nhà Lê thành hư vị. Trịnh Tùng buộc vua Lê phong cho mình Đô đốc nguyên suý Tổng quản quốc chính thượng phụ, tước Bình an vương. Trịnh Tùng chỉ cho vua Lê thu thuế 1000 xứ, 5000 quân túc vệ, 7 con voi và 20 chiếc thuyền rồng. Trịnh Tùng cho thiết lập một triều đình riêng - Phủ Chúa và một bộ máy hành chính riêng thâu tóm toàn bộ quyền lực vào tay. Cục diện Vua Lê-Chúa Trịnh manh nha từ thời Nam-Bắc triều bây giờ thành sự thực. Mâu thuẫn giữa hai tập đoàn phong kiến Lê -Trịnh thường bùng phát với xu hướng triều đình nhà Lê bị chèn ép, nhiều vua Lê bị chúa Trịnh giết hại. Năm 1572, Trịnh Tùng đã giết chết vua Lê Anh Tông (Lê Duy Bang) ở Lỗi Dương (Thanh Hoá) khi nhà vua mới 42 tuổi. Năm 1595, trước sự áp chế quá đáng của Trịnh Tùng, vua Lê Kính Tông mưu giết chúa Trịnh. Việc bại lộ, nhà vua bị Trịnh Tùng giết hại năm mới 32 tuổi. Từ đó các vua Lê đành nuốt hận nhưng phải hoàn toàn khuất phục.

(Còn nữa)

CVL

-----------------------

[1] :Quỳnh Cư- Đỗ đức Hùng: Các triều đại Việt Nam, sách đó dẫn, tr. 175-176.

[2] :Quỳnh Cư-Đỗ đức Hùng:Các triều đại Việt nam, sách đó dẫn, trang 194.