Năng lượng chữ qua "Khúc hợp đàn Văn"

TS. Bùi Như Hải

04/12/2023 22:16

Theo dõi trên

Nhân đọc tập tiểu luận - phê bình "Khúc hợp đàn văn" của Nguyễn Ngọc Thiện, NXb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2023.

khuc-hop-dan-van-1701702921.png
 

Tính từ cuốn sách đầu tay Văn chương và tác giả ra mắt bạn đọc vào năm 1995, Khúc hợp đàn Văn là tác phẩm in riêng thứ 10 của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn vừa mới ấn hành vào quý III năm 2023, dày 392 trang, khổ 14,5 x 20,5 cm, số lượng in 1.000 bản. Bìa sách thiết kế trên gam màu xanh, nổi bật trên nền là tấm hình 10 bông hồng vàng, lấy ý tưởng từ câu chuyện Bông hồng vàng của K. Pauxtôpxki rất ấn tượng, đẹp, trang nhã, giản dị, vừa có ý nghĩa tượng trưng cho 10 tác phẩm in riêng, vừa thể hiện được năng lượng lao động nghệ thuật bền bỉ, kỳ khu, bút lực dồi dào, chất người chất nghề của tác giả ngót hơn nửa thế kỷ qua.

Khúc hợp đàn Văn ra đời nhằm để kỷ niệm 60 năm cầm bút, 50 năm là tác giả chuyên nghiệp, gắn bó với khoa học nghiên cứu, phê bình văn chương và 25 năm làm báo, là “phu chữ” văn chương nghệ thuật của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện. Cuốn sách được tập hợp từ những bài tiểu luận, phê bình viết và công bố trong mấy năm gần đây của tác giả, phần lớn đã được công bố trên báo chí đương thời của Trung ương và địa phương, trong các Hội thảo khoa học của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội đồng Lý luận - Phê bình Văn học nghệ thuật Trung ương, Trường Đại Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội,…

Phần phụ lục được tập hợp các bài viết của 12 tác giả khác về cuốn sách Nhiều tác giả Nguyễn Ngọc Thiện, Văn và Đời, cùng với Tiểu sử tự thuật, Thư mục sách cùng một tác giả, Thư mục nghiên cứu về tác giả. Tác phẩm được thiết kế thành hai phần chính khá hợp lý, khoa học: Phần thứ nhất: Tiểu luận và Phần thứ hai: Phê bình. Tổng của hai phần này có 20 bài do chính tác giả viết, chọn lọc, trong đó có 12 bài tiểu luận và 8 bài phê bình.

1. Phần thứ nhất: Tiểu luận gồm có 158 trang, tập hợp 12 bài tiểu luận được PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện viết rất công phu, thuyết phục dựa trên nền tảng văn hóa, văn nghệ của Đảng, kể từ Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943 đến nay. Ở lĩnh vực này, tác giả đã dành rất nhiều thời gian để định hướng học tập, nghiên cứu chuyên sâu về đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng, về tư tưởng Hồ Chí Minh và đã viết nhiều bài tham gia ở các Hội thảo khoa học, đăng ở tạp chí, báo Trung ương và địa phương. Tháng 9 năm 2020,  PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện đã in cuốn chuyên khảo Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng và Lý luận, thực tiễn nghệ thuật, được bạn đọc, giới nghiên cứu quan tâm, đánh giá cao. Sách được giải thưởng của Hội đồng Lý luận - Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương, tạo nên một thương hiệu trong làng văn: Nhà nghiên cứu, phê bình mác-xít Nguyễn Ngọc Thiện. Sau cuốn chuyên khảo này, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện vẫn tiếp tục chuyên tâm nghiên cứu, mở rộng, đào sâu vào những vấn đề cốt lõi, có giá trị lịch sử và hiện thực to lớn, mang tầm thời đại, có tính thời sự cao về đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng trong công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

Các bài viết “Từ Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) đến Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (XI/1946) và buổi đầu phát triển đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam”, “Đề cương về văn hóa Việt Nam với sự thành lập các tổ chức Hội văn hóa, văn nghệ”, “Văn hóa, nghệ thuật cần “vào sâu trong tâm lý quốc dân”, “soi đường cho quốc dân đi”,  “Những bài học về lý luận và thực tiễn đảm bảo thực thi hiệu quả đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng”, “Đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam và các yêu cầu, thách thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, “Về thể hiện bản sắc dân tộc trong văn học nghệ thuật”, “Văn học, nghệ thuật với việc nâng cao trình độ, năng lực thẩm mỹ của công chúng”, “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trong văn học nghệ thuật”,… chủ yếu tập trung, xoay quanh vào các vấn đề quan trọng, có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đó là, sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với văn hóa, văn nghệ qua đường lối văn hóa văn nghệ, qua tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ; tập hợp đội ngũ văn nghệ sĩ trong tổ chức gắn bó là Hội chính trị - xã hội – nghề nghiệp trong mặt trận văn hóa thống nhất; bản sắc dân tộc của Văn học nghệ thuật có ý nghĩa sống còn, giá trị độc đáo; vai trò quyết định của chủ thể sáng tạo, là những văn nghệ sĩ tài năng, khát vọng cống hiến lớn, có tác phẩm tầm cỡ, đạt giá trị cao; không ngừng đáp ứng yêu cầu của chủ thể tiếp nhận, những bạn đọc cần nâng cao năng lực cảm thụ và trình độ tiếp nhận thẩm mỹ; kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng sai trái, khắc phục những nhận thức lệch lạc trong văn học nghệ thuật nhằm bảo vệ đường lối văn nghệ mácxít - lêninnít về văn học nghệ thuật.

“Từ Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) đến Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (XI/1946) và buổi đầu phát triển đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam” là một trong những bài viết rất công phu, gần 40 trang in,  thú vị, cung cấp cho người đọc thêm những kiến thức cơ bản, mới mẻ về hoàn cảnh ra đời, nội dung chính, nguyên tắc cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 - được coi là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, có vai trò định hướng cho nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa, văn nghệ của toàn Đảng, toàn dân, là ngọn đèn soi rọi cho nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Bài viết trình bày những ý nghĩa to lớn của Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất và lần thứ hai; về những nội dung các quan điểm về văn hóa, văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam và quá trình phát triển đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam từ đó đến nay đa dạng, phong phú, dân tộc, khoa học, đại chúng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trở thành nguồn lực phát triển đất nước.

Theo PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện, Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943 đã “cắm một cái mốc khởi đầu có ý nghĩa trọng yếu, tiên quyết, thể hiện tầm nhìn chiến lược xa rộng của Đảng, tích cực chuẩn bị cho việc kiến tạo, đi trước một bước, tiến hành một cuộc cách mạng về tư tưởng và văn hóa mới, bởi như Lênin đã dạy “Văn hóa một khi đã vào sâu đại chúng, cũng tác động như một sức mạnh vật chất” (tr.15 – từ đây trở đi, những trích dẫn đều rút từ Khúc hợp đàn văn của Nguyễn Ngọc Thiện, chỉ ghi số trang).

Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội vào ngày 24 tháng 11 năm 1946 chính “là một sự kiện quan trọng của đời sống văn hóa đất nước, vì được thực hiện theo chủ trương của Đảng, nhằm thành lập một tổ chức văn hóa mới là Hội Văn hóa Việt Nam dần dần thay thế cho Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam, để phù hợp với tình hình mới của đất nước Việt Nam độc lập với nhà nước dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, làm chủ mọi hoạt động của đất nước” (tr.18). Cùng với Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai tại Việt Bắc từ 16 đến 20 tháng 7 năm 1948 được xem là Hội nghị Diên Hồng đầu tiên về văn hóa - nơi Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ nội hàm và đích đến của “nền văn hóa mới của nước Việt Nam mới”; thực sự là ánh sáng soi đường tập hợp đông đảo lực lượng văn nghệ sĩ, trí thức, các nhà khoa học trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Và cả hai Hội nghị này đã thể hiện được sự phát triển sâu sắc thêm một bước đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng được khởi xướng từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943.

Cuối cùng, tác giả bài viết đã có một nhận định khái quát, sâu sắc rằng: “Tiếp sau việc công bố Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) và sự thành lập Hội văn hóa cứu quốc, trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, thì với việc tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất và lần thứ hai liên tiếp trong các năm 1946, 1948 với sự thành lập Hội văn hóa Việt Nam và Hội Văn nghệ Việt Nam trong năm 1948 cùng với sự chỉ đạo qua những ý kiến của Hồ Chủ tịch và đồng chí Trường Chinh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến thêm một bước trong việc bước đầu phát triển và hoàn thiện quan điểm, đường lối về văn hóa văn nghệ cũng như tổ chức hoạt động văn hóa văn nghệ một cách công khai, rộng rãi, thống nhất quy về một mối đoàn kết chặt chẽ” (tr.21).

“Những bài học về lý luận và thực tiễn đảm bảo thực thi hiệu quả đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng” là một bài viết sâu sắc, thể hiện được tư duy khoa học minh triết, tầm nhìn thời đại, kiến thức bao quát, sâu rộng của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện đã đúc kết, rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong quá trình triển khai, thực hiện đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng hơn 70 năm qua kể từ Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943. Theo tác giả, hơn 70 năm qua triển khai, thực hiện đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng, có thể rút ra 4 bài học kinh nghiệm quý báu như sau:

Bài học thứ nhất là, phải luôn luôn kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, về văn hóa, văn nghệ nói riêng; phải quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa xây và chống, bảo vệ cho sự thắng lợi của cái đúng, cái tốt, cái đẹp, kiên quyết đấu tranh phê phán triệt để chống lại những cái sai, cái tiêu cực, cái xấu và lạc hậu, kịp thời ngăn chặn ảnh hưởng độc hại của tàn dư văn hóa phong kiến, tư bản, đế quốc, chủ nghĩa thực dân mới xâm nhập vào đời sống xã hội, chống lại sự tự diễn biến làm suy thoái tư tưởng, tha hóa về đạo đức và lối sống, nhân cách, sự xuống cấp của các chuẩn mực văn hóa, môi trường văn hóa và cộng đồng xã hội dân cư; phải chú trọng giáo dục theo những tấm gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến, đặc biệt gây dựng phong trào học tập quán triệt và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Bài học thứ hai là, cần đề cao quan điểm quần chúng, quan điểm nhân dân, thể hiện sự tôn trọng nhân tố cốt lõi là con người, phục vụ con người của nền văn hóa, văn nghệ mới, tính chất nhân văn của nền văn hóa đó.

Bài học thứ ba là, Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý sự nghiệp văn hóa, văn nghệ của Đảng và Nhà nước. Chăm lo xây dựng các chế độ, chính sách, thực hiện thể chế hóa các quan điểm, đường lối, định hướng của Đảng về văn hóa, văn nghệ.

Bài học thứ tư là, Coi trọng công tác, nghiên cứu đề xuất lý luận, tổng kết thực tiễn để phát triển, bổ sung, hoàn thiện lý luận, phát huy kịp thời vai trò của lý luận vào việc không ngừng hiện đại hóa hoạch định đường lối, các chính sách, pháp luật và thể chế văn hóa mới, đáp ứng yêu cầu vượt qua những thách thức bột phát nảy sinh, dự báo tình hình sắp tới để chủ động nắm bắt những thời cơ thuận lợi, hành động đạt hiệu quả cao.

Sau khi nêu lên bốn bài học kinh nghiệm quý giá trên, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện đã đi đến một kết luận, nhận định rất đúng rằng: “Những bài học kinh nghiệm chủ yếu rút ra từ hoạt động lý luận và thực tiễn nhằm đảm bảo sự nhất quán có tính chất nguyên tắc và sự tiếp tục, không ngừng bổ sung phát triển để hoàn thiện đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng trong hơn 70 năm qua, trở thành một thành tố quan trọng trong xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với các đặc trưng dân chủ, khoa học và nhân văn” (tr.87).

“Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trong văn học nghệ thuật” cũng là một bài viết thật sự có ý nghĩa thời sự hiện nay, thể hiện được quan điểm, tư tưởng cốt lõi học thuật, bút lực của một nhà nghiên cứu mác-xít Nguyễn Ngọc Thiện trong việc nhận diện, đấu tranh, phản bác các quan điểm, luận điệu, sai trái của các thế lực thù địch lợi dụng văn học nghệ thuật để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, nhằm gieo rắc những tư tưởng phản động, chống phá Đảng và chế độ ta.

Tác giả bài viết cho rằng: bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái trong văn học nghệ thuật hiện nay là rất cần thiết, nên cần có những phương thức và hình thức chủ yếu, phù hợp sau:

Về sáng tác, cần phải khuyến nghị văn nghệ sĩ gắn bó với thực tế đời sống xã hội, nâng cao ý thức chính trị, lập trường tư tưởng phục vụ đất nước, phụng sự nhân dân, sáng tác những tác phẩm có giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật cao. Phê phán những khuynh hướng sáng tác lệch lạc, thoát ly đời sống hiện thực, đi sâu vào cái tôi cá nhân và chủ nghĩa hình thức, xem VHNT chủ yếu để thực hiện chức năng giải trí, là một trò chơi, thử nghiệm một cuộc chơi cho thấy “bản lĩnh, cá tính” độc đáo của nghệ sĩ là chính.

Về phê bình - lý luận, cần phải coi trọng công tác lý luận, phê bình trên nền tảng của tư duy mỹ học mácxít - lêninnít, đường lối văn hóa - văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tổ chức các hội thảo, tranh luận học thuật trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng (internet, mạng xã hội) để trao đổi làm rõ những vấn đề bức xúc đang đặt ra cho sự phát triển VHNT, phê phán những biểu hiện sai trái lệch lạc. Tăng cường, phát huy, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Các tổ chức của nhà nước phải quan tâm đến việc ban hành các chế độ, chính sách, cải tiến cơ chế quản lý, triển khai các Nghị quyết của Đảng về VHNT trở thành những nguồn lực thúc đẩy xã hội phát triển, hoàn thiện nhân cách con người,…

Sau khi nêu lên một số phương thức và hình thức bảo vệ, đấu tranh chủ yếu, tác giả đã nêu bật được những khó khăn, thức thức đang đặt ra từ thực trạng, phương thức và hình thức trên là: bối cảnh quốc tế rất phức tạp, với những xung đột quốc gia, khu vực, nhóm lợi ích về chủ quyền lãnh thổ, lợi ích kinh tế, trình độ phát triển, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, an sinh xã hội, môi trường sinh thái, nhân quyền, quyền dân tộc tự quyết đã chi phối đến tư tưởng, hành động, các quan hệ của con người với thiên nhiên, với xã hội và với đồng loại. Trong lịch sử dựng nước mấy ngàn năm, đất nước ta phải kiên trì đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, với các thế lực ngoại xâm hùng mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, vì thế chúng ta bước vào lịch sử hiện đại có phần chậm hơn số với một số quốc gia khác; một số nét của tâm lý truyền thống của dân tộc tích tụ tự bao đời cũng đã/đang cản trở ít nhiều trên con đường hiện đại hóa như thói cầu an, “dĩ hòa vi quý”, “chín bỏ làm mười”, “đóng cửa bảo nhau”, duy tình, vụ lợi và thiển cận. Truyền thống nhân ái, trọng nghĩa tình, đùm bọc trong cộng đồng là những nét đẹp của truyền thống dân tộc, ngày nay vẫn cần tiếp tục phát huy. Nhưng để vươn tới một xã hội hiện đại cần đề cao cả hai mặt: cảm tính và lý tính; tôn trọng đạo đức, nhân cách lương thiện nhưng cũng cần thượng tôn lẽ phải, pháp luật.

Cuối cùng, tác giả đã đề xuất một số ý tưởng về phương thức mới, hình thức mới trong bảo vệ, đấu tranh, đó là: Cần có chiến lược và sách lược trước mắt cũng như lâu dài để triển khai công việc này. Tăng cường đầu tư của Nhà nước để tổ chức bộ máy với các trang thiết bị, nhân sự có trình độ chuyên nghiệp cao, làm chủ các kỹ thuật hiện đại về thông tin và truyền thông do cách mang 4.0 đem lại; làm chủ và có kế hoạch tốt điều hành báo chí in chính phối hợp với mạng xã hội làm tốt công tác thông tin và công tác tuyên truyền, thực hành chức năng tư tưởng cùng với chức năng thông tin. Đặt lên hàng đầu tính chân thực, khách quan, xác thực, thực tiễn, cập nhật kịp thời của hoạt động thông tin tuyên truyền định hướng rõ ràng; vừa đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch làm rõ đúng/sai về nhận thức, quan điểm, vừa chú trọng nêu gương những điển hình tốt, tiên tiến nhằm khơi dậy tính tích cực của xã hội, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, giúp vào việc tăng cường sức đề kháng trước tác động tiêu cực của thông tin xấu, độc hại trên internet, mạng xã hội.

 Kiện toàn bộ máy tham mưu giúp việc, và bộ phận điều phối thông tin, hệ thống thư điện tử bảo mật, “ngân hàng” cơ sở tư liệu chung,… để thực thi nhiệm vụ một cách thường trực, hệ thống, có hiệu quả nhất; Đẩy mạnh sự phối hợp liên ngành, liên báo trong đào tạo và trọng dụng đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên có trình độ nhận thức, chuyên môn và nghiệp vụ căn bản và chuyên sâu tốt, những nhà tư tưởng, những cây bút chính luận sắc sảo có khả năng đấu tranh kịp thời, có sức thuyết phục bởi lý lẽ xác đáng, tư cách đảm bảo, uy tín xã hội cao. Tăng cường các chuyên mục và các thể tài báo chí phù hợp như bình luận, tư liệu, tiểu phẩm; đảm bảo văn hóa trong tranh luận, thông tin, bình luận. Tránh thói “tự cao cộng sản” luôn luôn xem mình là đúng, chụp mũ người khác, dùng ngôn ngữ đao to búa lớn, đả kích thô thiển, phản cảm, thiếu sức thuyết phục cộng đồng. Cần phải thẳng thắn mà chân tình, có lý, có tình khiến người nghe, người đọc phải “tâm phục, khẩu phục” được cảm hóa,…

Các bài “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, “Nghệ thuật vị nhân sinh” được PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện viết rất công phu, hàm súc, cô đọng, có ý nghĩa thời sự, cập nhật, sẽ được đưa vào bộ sách Bách Khoa thư văn học, do Nhà nước chủ trì biên soạn, sắp xuất bản. Tác giả đã trình bày một cách khái quát về nguồn gốc ra đời của thuật ngữ, khái niệm và nội hàm “Nghệ thuật vị nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh”; quá trình hình thành và phát triển; lịch sử tranh luận giữa hai trường phái trong những năm 30 của thế kỷ XX ở Việt Nam; qua đó nêu lên bài học từ cuộc tranh luận này là rất sâu sắc.

Ở bài viết Nghệ thuật vị nghệ thuật”, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện đã cho rằng: Nghệ thuật vị nghệ thuật là một khẩu hiệu biểu đạt triết lý “giá trị nội tại của nghệ thuật”, cùng với “nghệ thuật chân chính duy nhất”, đều mang tính xa rời với bất kỳ chức năng giáo huấn đạo đức, chính trị hay công lợi nào.

Nghệ thuật vị nghệ thuật “có nguồn gốc sâu xa bắt nguồn từ mỹ học cổ đại Hy Lạp với Platon, rồi mỹ học cổ điển Đức với E.Kant, cho đến trường phái Thi sơn (Pháp) với Th. Gautier, L. Lisle,” (tr.156). Mặc dù tên gọi Nghệ thuật vị nghệ thuật không phải Théophile Gautier (1811 - 1872) là người đầu tiên tạo ra, mà  do V. Hugo (1802 - 1885) đã phát biểu trước đó vào năm 1829 nhưng Théophile Gautier lại được ghi công do đặt ra, tiếp dụng làm thành khẩu hiệu trong phần tựa ngôn cho cuốn sách Madamoiselle de Maupin (Tiểu thư de Maupin) năm 1835. Từ đó, đã trở thành tên gọi chung cho trường phái chủ trương nghệ thuật độc lập với các vấn đề xã hội, chính trị và người nghệ sĩ khước từ vai trò đấu tranh xã hội của mình.

Những khía cạnh thuộc quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” nhìn chung lại là sự “phản ứng chống lại chủ nghĩa lãng mạn bấy giờ bị coi là lỗi thời (mặc dù nhiều thành viên của trường phái từng là các nhà lãng mạn và vẫn giữ hoài niệm về nhóm này) ở các khịa cạnh sau: nghệ thuật là độc lập, tách biệt khỏi xã hội và công chúng, chống thái độ nhập cuộc và sứ mệnh lịch sử của nhà thơ; đề cao sự vô ngã, chống lại sự lạm dụng cái Tôi; tôn sùng cái Đẹp tuyệt đối, chống lối hoa mỹ giả tạo; đề cao lao động nghệ thuật hết mình, chống lại sự tùy tiện, dễ dãi, buông thả” (tr.158 - 159). Và từ đó đến nay, “các trường phái văn học nghệ thuật nảy nở như: chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa đa đa, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa trừu tượng, chủ nghĩa vị lại, chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hình thức,… là sự trỗi dậy cực đoan của quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” trong giai đoạn khủng hoảng toàn cầu của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, chuyển sang hình thức phát triển cao nhất của nó là chủ nghĩa đế quốc” (tr.161).

Cũng theo tác giả, từ giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX một bộ phận trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam đã tiếp nhận ảnh hưởng của tư tưởng “nghệ thuật vị nghệ thuật” của các trường phái Âu - Mỹ vào thực tiễn lý luận và sáng tác văn học nghệ thuật như Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư, Phan Văn Dật, Lan Khai,… Và đã gây ra một cuộc tranh luận học thuật “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh” trong thời kỳ 1935 - 1939, kéo dài nhiều năm sau vẫn đang gây nhiều tranh cãi, nhiều hiểu lầm bởi những cách diễn dịch sai. Mặc dù phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” không chống đỡ nổi sự phê phán của phái “nghệ thuật vị nhân sinh” nhưng ít nhất đã để lại những bài học sâu sắc trong tiến trình vận động, xây dựng nền lý luận văn học nghệ thuật dân tộc, hiện đại ở Việt Nam.

Sau khi trình bày, phân tích cụ thể, tác giả bài viết đã khẳng định: “Với phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” nhà văn trở thành đấng tạo hóa, sáng tạo ra một thế giới mới, thế giới của nghệ thuật, của cái Đẹp với những tìm tòi về câu chữ, về cách biểu hiện nghệ thuật - thế giới ấy thấm đượm tình cảm và cách nhìn riêng với những tìm tòi nghệ thuật mang bản sắc của cá tính sáng tạo, nó hướng người ta tới cái đẹp siêu thực, vượt lên trên những hệ lụy của cuộc sống thực. Cái thế giới Đẹp ấy sẽ bù lấp vào cái chỗ trống mà cuộc đời thực, với tất cả sự lam lũ và cơ cực của nó, không có; và nó thỏa mãn sự khát khao, hi vọng, tìm kiếm của người đọc về cái Đẹp thuần túy, vĩnh hằng” (tr.166).

Ở bài viết “Nghệ thuật vị nhân sinh”, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện cho rằng: Nghệ thuật vị nhân sinh là một luận điểm cơ bản, tổng quát của mỹ học duy vật, khẳng đinh bản chất xã hội của nghệ thuật, chủ trương nghệ thuật gắn với đời sống xã hội và chính trị, chống lại các khuynh hướng nghệ thuật thoát ly cuộc sống, “nghệ thuật thuần túy” coi hình thức là trên hết.

Trước các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, các triết gia Arixtot, Điđơrô, Lessing, Biêlinxki, Tsecnưsepxki,… cũng đã ít nhiều đề cập tới mối quan hệ giữa văn nghệ và thực tại đời sống xã hội, nhưng lại chưa được đầy đủ, triệt để, hoàn chỉnh và còn có những hạn chế nhất định. Dựa trên cơ sở triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử coi nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc biệt, là loại sản xuất tinh thần đặc thù, chịu sự quy định của cơ sở kinh tế - xã hội, của đời sống tinh thần, tâm lý của xã hội, mỹ học mác-xít đã, đang giải quyết một cách rốt ráo, khoa học, triệt để và hoàn thiện các vấn đề trên.

Cũng theo tác giả, trường phái Nghệ thuật vị nghệ thuật được những người theo quan điểm văn nghệ mác xít ở nước ta, đứng đầu là Hải Triều (1908 - 1954) và các chiến hữu của ông đã nhất quán dựa vào các ý kiến của Mác, Ăngghen, Lênin, Pơlêkhanôp và một số học giả mác xít khác, làm cơ sở cho lập luận của mình, rồi chủ trương, cổ xúy, chống lại phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” trong cuộc tranh luận lớn về nghệ thuật thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1936 - 1939. Phái “vị nhân sinh” đã tranh luận, chứng minh rằng: Không có văn nghệ đứng ngoài đấu tranh giai cấp và không theo khuynh hướng nào. Nếu văn nghệ không làm lợi cho giai cấp này thì sẽ làm lợi cho giai cấp khác. Nhà văn chân chính vì thế phải “đem ngòi bút lột trần cái xã hội hiện tại để cho dân chúng trông rõ nguồn gốc của mọi sự đau thương và để tìm lấy đường sống”.

Trường phái “vị nhân sinh” đã dành được thắng lợi, quan điểm văn nghệ mác xít lần đầu tiên ở Việt Nam đã được truyền bá tương đối hệ thống, bước đầu đẩy lùi ảnh hưởng của khuynh hướng văn học thoát ly, cổ vũ các khuynh hướng văn học tiến bộ. Với ý nghĩa đó, tác giả bài viết đã khẳng định quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” có giá trị to lớn, định hướng, dẫn đường, soi lối cho Đảng ta trong quá trình đấu tranh, dựng xây và phát triển nền văn hóa, văn học tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: “Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam gần 80 năm qua, kể từ Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) đến nay, luôn luôn nhất quán và phát triển trên tinh thần “nghệ thuật vị nhân sinh” của mỹ học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là hướng văn học nghệ thuật gắn bó với đời sống xã hội, với sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bồi đắp nền tảng tinh thần của xã hội, góp phần hoàn thiện nhân cách con người mới trong một xã hội văn minh, hiện đại, công bằng và nhân ái” (tr.174).

2. Phần hai: Phê bình gồm có 56 trang, được tập hợp 8 bài phê bình hay, xúc động, đi từ trái tim của chủ thể sáng tạo - tác giả đến trái tim của người đọc như “Người Kỹ sư tài ba, nhà thơ tài danh đã về tiên cảnh”, “Người Cha kính quý siêng học, chính trực và Người Mẹ quê Nành 5 đời Khuyến học”, “Lời tiễn biệt”, “Bài học về tư duy thực chứng và đối thoại trong nghiên cứu văn học từ một người thầy”, “Cây bút hồi ký, du ký đặc sắc, lão thực”,… Các bài viết ở phần này chủ yếu tác giả viết về tác phẩm của các đồng nghiệp, của bậc thầy, về người thân, về báo chí văn học nghệ thuật đã nhiều năm gắn bó, thể hiện được sự tôn trọng, yêu quý nhân cách và tài năng của đồng nghiệp, người thầy, người thân,… Những người này, đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến con đường cầm bút và sự nghiệp nghiên cứu văn học, hoạt động báo chí, giáo dục đào tạo trong hơn 50 năm qua của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện.

“Bài học về tư duy thực chứng và đối thoại trong nghiên cứu văn học từ một người thầy”, “Thầy Lê Đình Kỵ với Lớp Văn khóa VIII Đại học Tổng hợp Hà Nội”,… là hai viết của tác giả rất công phu, súc tích, giàu tâm huyết, thể hiện sự tưởng kính, tri ân, nét đẹp “tôn sư trọng đạo”, đầy ắp tình đời, tình người của tác giả đối với GS. Đinh Gia Khánh và GS. Lê Đình Kỵ - hai giáo sư đầu ngành khoa học xã hội trên nhiều phương diện như: nhà giáo mẫu mực, nhà nghiên cứu văn học và văn hóa uyên bác, xuất sắc, nhà tổ chức và quản lý khoa học có uy tín, có nhân cách lớn giữa đời thường,…

Ở bài viết “Bài học về tư duy thực chứng và đối thoại trong nghiên cứu văn học từ một người thầy”, Nguyễn Ngọc Thiện đã khẳng định và tôn vinh GS. Đinh Gia Khánh - nhà giáo, nhà khoa học mẫu mực, uyên bác, tiên phong, lịch lãm đã tận hiến suốt cả cuộc đời của mình cho sự nghiệp giáo dục và nghiên cứu văn học, văn hóa. GS. Đinh Gia Khánh được rất nhiều thế hệ học trò, đồng nghiệp biết đến là một nhà giáo chuẩn mực, uyên bác, có khả năng chuyên môn và sư phạm tốt, không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn rất quan tâm đến phương pháp, đến tư duy thực chứng: “Điều căn cốt thuộc phẩm chất của người nghiên cứu là tạo lập một tư duy khách quan, thực chứng, “nói có sách, mách có chứng” như dân gian đã dạy. Phải trực tiếp đọc, xem, nghe, khảo chứng “thực mục sở thị” đối tượng nghiên cứu là tác phẩm văn học và những công trình mà thiên hạ đã bàn về tác phẩm nọ, vấn đề ấy trước mình, để từ đó khổ công hình thành, động não, vắt óc mình ra để nhen nhóm ý kiến riêng của mình góp vào. Trong đó nhà nghiên cứu phải phát huy bản lĩnh khoa học độc lập, dám phản biện, tranh luận với những ý kiến khác, bất luận họ đến từ đâu, đang ở vị trí nào, để xem xét lại, bảo vệ hay sửa chữa ý kiến của mình” (tr.198 - 199). Cuối cùng, tác giả đã trân trọng tỏ bày, tri ân sâu sắc GS. Đinh Gia Khánh - bậc sư biểu có trái tim lớn, nhân từ, bao dung, luôn luôn tận tình bên cạnh, dìu dắt, chỉ bảo học hành, làm người hữu ích cho xã hội: “Năm tháng trôi qua - những lời tâm huyết Thầy Đinh Gia Khánh truyền dạy cho chúng tôi trong buổi nói chuyện thân tình ấy luôn nhắc nhở chúng tôi cách nghĩ, nếp làm việc trung thực, khách quan, tận hiến cho khoa học ngữ văn mà Thầy là một tấm gương sáng đẹp - rực rỡ” (tr.204).

“Thầy Lê Đình Kỵ với Lớp Văn khóa VIII Đại học Tổng hợp Hà Nội” cũng là bài viết sâu sắc, giàu nghĩa tình thầy trò của một thời sinh viên không thể phai mờ, luôn trở đi trở lại về GS. NGND. Lê Đình Kỵ - một người thầy lớn, kính quý của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện. Sau khi nêu bật những nét chính về sở trường, sự nghiệp nghiên cứu lý luận, phê bình văn học của GS. Lê Đình Kỵ, đó là: Lê Đình Kỵ - Nhà lý luận phê bình uyên bác; Lê Đình Kỵ sáng mắt, sáng lòng từ cội nguồn tư duy mácxít - lêninnít; Lê Đình Kỵ - bậc thầy nghiên cứu, phê bình thơ cổ điển và hiện đại dưới góc độ phong cách học và thẩm mỹ tiếp nhận, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện đã nêu bật được chân dung GS. Lê Đình Kỵ -  một nhà giáo, nhà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học mẫu mực, nghiên cẩn, chuẩn tắc trong công việc, một nhà nghiên cứu văn học hàng đầu có tư duy sắc sảo và bút pháp nhuần nhị, được nhiều thế hệ học trò yêu quý, khắc ghi, giới văn chương vị nể và tác phong giản dị trong đời thường. Cuối cùng, tác giả đã tạc ghi công - nghĩa về người thầy kính yêu của mình: “Từ thẳm sâu trong lòng mỗi cựu sinh viên Văn VIII, hình ảnh NGND. GS. Lê Đình Kỵ với gương mặt thân thiện, giọng nói xứ Quảng ấm áp, trầm lắng - vị đại sư giảng dạy văn chương tâm huyết, giàu sức thuyết phục, để lại sự nghiệp trước tác có giá trị với hàng chục công trình để đời, trong đó có những tác phẩm đoạt Giải thưởng Nhà nước cao quý - sẽ sống mãi với quê hương, đất nước, với đồng nghiệp, học trò và bạn đọc luôn quý trọng và biết ơn Thầy” (tr.217).

“Người Cha kính quý siêng học, chính trực và Người Mẹ quê Nành 5 đời Khuyến học”, “Người Kỹ sư tài ba, nhà thơ tài danh đã về tiên cảnh”, “Lời tiễn biệt”,… là nhóm bài viết về đấng sinh thành, dưỡng dục đáng kính, về người vợ thủy chung, hiền hậu vĩnh viễn ra đi, về người anh trai kỹ sư nông nghiệp cũng là nhà thơ tài hoa đều được tác giả dành trọn vẹn nghĩa tình nặng sâu, trìu mến, thiết tha.

“Người Cha kính quý siêng học, chính trực và Người Mẹ quê Nành 5 đời Khuyến học” là bài viết gây nhiều xúc động, thể hiện lòng thành kính, ghi tạc công ơn sinh thành, dưỡng dục của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện đối với song thân của mình với cuộc đời không quản gió sương, vất vả, tần tảo, chăm sóc từng miếng ăn giấc ngủ, dạy các con bài học quý giá, nên người, trở thành công dân tốt của xã hội: “Theo gương các bậc tiền bối, ông và mẹ tôi không khuyến khích các con tham gia việc kinh doanh đỡ đần cha mẹ, mà hướng các con chăm lo việc học hành sao cho trọn vẹn, chuyên cần đã. Ông và mẹ tôi thương xuyên hỏi han công việc học tập của các con ở nhà trường, có phần thưởng nhỏ khi các con có thành tích trong học tập, nhắc nhở các con không tụ bạ bạn bè chơi nghịch lếu láo mà biếng học hoặc bỏ học và dối trá. Ông khuyến khích các con mở mang kiến thức, đọc thêm các sách báo ngoài sách giáo khoa, do ông chọn lọc và chỉ bảo cách đọc và tham khảo. Đồng thời lấy các tấm gương trong đời sống hàng ngày mà giáo dục các con về đạo đức tư cách liêm khiết, trung thực và hướng thiện, tôn trọng người khác và tự trọng, tự tin về mình, không ỷ lại, dựa dẫm vào người khác rồi lên mặt ta đây, huênh hoang trịch thượng” (tr.193 - 194). Đặc biệt là, tác giả đã ngợi ca người mẹ của mình với nhan sắc rực rỡ, trong tuổi hồi xuân nhưng vẫn ở góa khi chồng mất, một mình vẫn đảm đang chèo chống gia đình nuôi 6 người con học hành, lập nghiệp đến nơi đến chốn, được người dân làng Nành - Ninh Hiệp ngày nay tôn kính, tặng danh hiệu Người Mẹ quê Nành 5 đời Khuyến học: “Bà được dân làng Nành (tức Ninh Hiệp ngày nay) tôn kính, tặng danh hiệu “Người Mẹ quê Nành 5 đời Khuyến học” bởi đã nêu gương sáng chăm lo 5 thế hệ gia đình chuyên cần học tập ở  trường và tự học, góp vào cho xã hội: 1 Giáo sư, 4 Phó Giáo sư, nhiều chục Tiến sĩ, Thạc sĩ, Kỹ sư, Bác sĩ, Cử nhân các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, trong đó có 1 người con dâu là Thày thuốc ưu tú, 2 người con trai là nhà văn, nhà thơ, 2 người cháu nội, ngoại đoạt các giải thưởng quốc tế về Y học và Toán học” (tr.196 - 197).

“Lời tiễn biệt” là bài điếu văn cảm động, nhiều ý nghĩa của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện đọc tại Lễ Truy điệu người vợ yêu quý của mình: Thầy thuốc ưu tú, Tiến sĩ Y khoa, Bác sĩ Trần Thị Bình An vào ngày 11 tháng 10 năm 2021. Trong “Lời tiễn biệt”, tác giả đã ghi nhận, ngợi ca người vợ đầu ấp tay gối, son sắt thủy chung, đảm đang, hiền lành, sống trọn vẹn nghĩa tình với bà con, cộng đồng, cống hiến trọn vẹn cho chuyên môn Y học của đất nước: “Bác sĩ, Thầy thuốc ưu tú, Tiến sĩ Trần Thị Bình An từ lúc tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa chuyên ngành Tâm thần học (1971) gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), đến lúc qua đời, trong nửa thế kỷ qua đã được đồng nghiệp, bạn bè, người bệnh, người thân và môn sinh quý trọng, kính nể, cảm phục, biết ơn, nay mất đi là sự tổn thất lớn lao của gia đình, dòng họ và quê hương, để lại sự thương tiếc và tưởng nhớ sâu sắc hình ảnh một thầy thuốc thân thiện, có tài năng và phẩm cách cùng những cống hiến thiết thực cho sự nghiệp y tế của đất nước nói chung, cho chuyên ngành tâm thần học còn non trẻ nói riêng” (tr.230).

“Từ tạp chí Văn nghệ đến Thời báo Văn học Nghệ thuật chặng đường 75 năm qua” là bài viết thuộc về lĩnh vực báo chí, văn học nghệ thuật. Ở bài viết này, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện đã phác họa về lịch sử hình thành, hoạt động và phát triển của các cơ quan ngôn luận thuộc tổ chức Hội Văn nghệ Việt Nam từ buổi đầu thành lập cho đến nay. Theo tác giả, kể từ khi thành lập từ năm 1948 đến nay, qua các giai đoạn của lịch sử đất nước, các chặng đường của đời sống văn nghệ đã có 8 cơ quan ngôn luận của tổ chức văn nghệ Việt Nam: Tạp chí Văn nghệ (3/1948 - 10/1954); Báo Văn nghệ (1954 - 1957); Tạp chí Văn nghệ (6/1957 - 4/1963); Báo Văn nghệ (5/1963 - 8/1978); Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (11/1991 - 4/2022) / tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (bộ mới) từ 6/2022 đến nay; Thời báo Văn học Nghệ thuật (từ 7/2020 đến nay); website: arttimes.vn, từ năm 2020.

Những tên gọi và thể tài có thể thay đổi theo tiến trình lịch sử và đời sống văn học nghệ thuật quốc gia và quốc tế “nhưng điểm hội tụ then chốt nhất của các ấn phẩm, đơn vị báo chí nói trên đều xứng đáng là trợ thủ đắc lực của lãnh đạo tổ chức Hội văn nghệ toàn quốc, là tiếng nói chung, là diễn đàn chính trị - xã hội - nghề nghiệp để tập hợp, đoàn kết văn nghệ sĩ các thế hệ, các dân tộc trong và ngoài nước, cùng đông đảo quần chúng văn nghệ, thành một khối thống nhất tự nguyện phát huy lòng yêu nước, khát vọng Chân - Thiện - Mỹ, hướng tới xây dựng nền văn hóa, văn nghệ dân tộc, tiên tiến, khoa học và nhân văn, góp phần ổn định xã hội hạnh phúc, dân chủ, công bằng với nền tảng tinh thần có giá trị cao quý về dân tộc, quốc gia, gia đình và bản thân. Từ đó, nâng cao vị trí, tầm vóc của dân tộc và quốc gia Việt Nam trên trường quốc tế, hội nhập, sánh vai cùng bầu bạn năm châu, bốn biển” (tr.225 - 226).

3. Phần Phụ lục gồm 135 trang, phần này cũng là một phần rất quan trọng, có ý nghĩa, cho thấy những thành quả nghiên cứu khoa học trong hơn nửa thế kỷ, cùng với sự yêu mến, thân quý của bạn bè, học trò, đồng nghiệp, giới nghiên cứu đã dành cho PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện.

Ở mục I, tác giả đã dụng công tuyển chọn 12 bài viết tiêu biểu của giới văn nghệ sĩ, đồng nghiệp, các thế hệ học trò như Ma Văn Kháng, Vũ Nho, Lê Thị Bích Hồng, Nguyễn Thị Thiện, Trần Thị Bích Hải, Nguyễn Tự Lập, Bùi Như Hải,… viết về cuốn sách Nguyễn Ngọc Thiện: Văn và Đời của nhiều tác giả, xuất bản vào tháng 8 năm 2021. Tập hợp hơn 100 bài viết về tác phẩm và con người của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện, cuốn sách này là một trong những ấm phẩm quý, để đời, cho thấy những đóng góp không nhỏ và chân dung khoa học, chân dung đời thường của nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà giáo Thế Uẩn - Nguyễn Ngọc Thiện có sự nghiệp “trước tác đẳng thân”. Đọc các bài viết “Văn chương là cuộc gọi hợp đàn” của Ma Văn Kháng, “Cuốn sách kì vĩ xưa nay hiếm” của Vũ Nho, “Một quyển sách quý hiếm” của Hồng Diệu, “Nguyễn Ngọc Thiện - Văn và Đời, chân dung tổng hợp về một nhà lý luận - phê bình kỳ cựu” của Nguyễn Tự Lập, “Nguyễn Ngọc Thiện - Văn và Đời, đôi điều cảm nhận” của Nguyễn Thị Bình, “Nguyễn Ngọc Thiện - Văn và Đời, công trình tâm huyết, chuyên nghiệp, để đời” của Bùi Như Hải,… người đọc nhận ra một cái nhìn nhất quán, bằng hữu, liên tài về một cây bút kỳ cựu, lão thực Nguyễn Ngọc Thiện trong làng văn, làng báo văn nghệ, đồng thời cũng là nhà giáo thỉnh giảng Sau Đại học, tận tụy với sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.

Tiếp theo ở phần này, tác giả đã đưa 3 mục về Tiểu sử tự thuật, Thư mục sách cùng một tác giả, Thư mục nghiên cứu về tác giả để tiếp tục hoàn thiện, bổ sung các thông tin mới, các tư liệu, hình ảnh quý trong gia đình, của thầy cô, bạn viết, các tác giả, các môn sinh,… Qua đó, đã thể hiện được sự đổi mới, khoa học, thú vị, sinh động, hấp dẫn trong cách trình bày, làm sách mà trước đó/hiện tại hầu như không/rất ít người làm sách thực hiện một cách thực thực chứng như thế.

Hơn nửa thế kỷ gắn bó với văn học nghệ thuật, báo chí, giáo dục đào tạo, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện có tư duy sắc sảo, uyên thâm, mẫn tiệp, điềm đạm, đĩnh đạc trong kiến thức, trong đời thường rất được bạn đọc, các nhà nghiên cứu phê bình, đồng nghiệp, bạn bè văn chương, nhiều thế hệ học trò gần xa, trong và ngoài nước biết đến, tiếp nhận, quý mến, ngưỡng vọng, ngợi khen, nể phục về sự nghiệp “trước tác đẳng thân”(1), trở thành giai thoại của làng Văn: Con số 7 may mắn. Mỗi công trình của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện chính là những “Bông hồng vàng” (chữ dùng của Konstantin Pauxtôpxki) được nhặt nhạnh, khảo sát tỉ mĩ từ “những hạt rất nhỏ của bụi vàng”, từ “mỗi rung động thầm lặng của con tim”, từ “mỗi ý nghĩ sâu sắc hoặc vui đùa”, từ “mỗi cái nhìn vô tình bắt gặp” trong đời sống để chưng cất, kết tinh thành những tác phẩm hay, trao người đọc những giá trị cốt lõi, tinh túy nhất.

Các tác phẩm của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện như Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh (chuyên luận), Thăng hoa sáng tạo và Thẩm mỹ tiếp nhận văn chương (tiểu luận - phê bình - chân dung văn học. Tuyển tập 1974- 2017), Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng và Lý luận, thực tiễn Nghệ thuật (chuyên khảo),… không chỉ thể hiện được sự cần cù, tâm huyết, chăm chỉ, công phu lao động, sáng tạo khoa học nghệ thuật nghiên cứu văn học, mà còn thể hiện được lối tư duy khái quát, thực chứng, khả năng đối thoại, kiến giải của một nhà nghiên cứu, lý luận văn học mácxít, và sự cảm thụ tinh tế của một ngòi bút phê bình kỳ cựu, sắc sảo. Các tác phẩm chính từ 1974 đến năm 2022 của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện vì thế đã được Trung tâm lưu trữ quốc gia III, trụ sở 34 Phan Kế Bính, Hà Nội lưu trữ vĩnh viễn để đời gồm những hiện vật chính như những bài báo, cuốn sách, bộ sách đã công bố, xuất bản trong nửa thế kỷ qua hiện diện trên bản in giấy, bản thảo viết tay, đánh máy chữ, vi tính, cùng các tư liệu gốc có liên quan về nhân thân, gia đình; hành trang sự nghiệp văn chương, báo chí, giáo dục. Mục lục hồ sơ tra cứu rành mạch gồm 21 tờ, thống kê 77 đơn vị bảo quản, cộng với 327 số Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam từ số 1 (11/1991) đến số cuối (04/2022), trong đó suốt 15 năm PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện giữ cương vị Tổng biên tập, có những đóng góp lớn, tạo nên nét riêng, đặc sắc của một thương hiệu Tạp chí văn nghệ Trung ương đầu đàn. Những tác phẩm chính của Nguyễn Ngọc Thiện được  các thư viện lớn của các trường đại học, trung tâm của Việt Nam và tại các thư viện, các trường đại học của Hoa kỳ (Thư viện Quốc hội Mỹ, Trường Đại học Harvard,…) lưu trữ để bạn đọc, các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học, các học viên, nghiên cứu sinh,… đọc, tham khảo, làm tư liệu. 

Đọc Khúc hợp đàn Văn tôi lại nhớ đến mấy dòng Suy nghĩ về nghề Văn của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện: “Trong văn chương, chỉ ỷ vào tích lũy vốn sống và tài năng thiên bẩm là không đủ. Nó luôn đòi hỏi sự huy động hết mình, nội lực và những năng lực tiềm ẩn: sự thăng hoa và hứng khởi bất chợt; miền tâm thức và tâm linh bảng lảng, ám ảnh đến dai dẳng; những ẩn ức bức xúc bất thần dội lên từ gan ruột,… Văn chương - một vùng bí ẩn, âu cũng là duyên phận con người” (tr.361). Tôi liên tưởng đến lời dặn của Hồ Chủ tịch trong một bức thư gửi Viện Văn học vào cuối tháng 10 năm 1962 rằng: “Người thợ khéo không đưa cho người (dùng) những sản phẩm vụng về”(2). Thì đây là, một cuốn sách được trình bày rất cẩn thận, nghiêm túc, tư liệu thực chứng rất công phu, chỉnh chu, chuẩn mực, văn phong khoa học khúc chiết, hàn lâm, hoàn hảo trong việc làm sách nghiên cứu lý luận - phê bình hiện nay, có ý nghĩa học thuật cao, thể hiện được bản lĩnh, thần thái, cái chất, cái tạng của một cây bút nghiên cứu lão thực, giàu kinh nghiệm thực tiễn, tạo nên thương hiệu chính, làm hài lòng người đọc.

PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện đã ở tuổi song thất - cái tuổi xưa nay hiếm nhưng tôi cũng như độc giả nói chung, những người làm văn nghệ nói riêng có quyền hy vọng, tin tưởng sức viết và trí tuệ mẫn tiệp, lão thực của tác giả Khúc hợp đàn Văn vẫn tiếp tục gặt hái thêm nhiều bông hồng vàng - một loại hoa quý, thanh khiết, với nhiều màu sắc, hương thơm riêng, không lẫn với các loại hoa khác trong một vườn hoa đầy khoe sắc, lung linh.

                                                                   Montclair, ngày 4/7/2023

 

Chú thích

(1) Gia tài sách của PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện hiện có 50 tác phẩm in riêng và chủ biên (không kể 62 tác phẩm in chung). Nếu xếp chồng 50 cuốn sách này lên nhau, thì độ cao của nó là 1,85 m. Và nếu tính thêm 180 số tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam từ tháng 7/2006 đến tháng 12/2021 do Nguyễn Ngọc Thiện làm Tổng Biên tập - Chủ trì biên tập, xuất bản liên tục trong 15 năm qua, khổ 16 X 24 cm, mỗi số trung bình 90 trang, ra hàng tháng một kỳ, tương đương 15 công trình biên soạn lớn.

(2) Đọc bài “Quán triệt tinh thần của Hồ Chủ tịch vào công tác nghiên cứu văn học” in trong sách Trên đường học tập và nghiên cứu (tập III) của Đặng Thai Mai, Nxb. Văn học, 1973, tr.18 – 39.

 

 

 

Bạn đang đọc bài viết "Năng lượng chữ qua "Khúc hợp đàn Văn"" tại chuyên mục Nghiên cứu. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn