Chương 12
Thiền và Sự kích hoạt của cơ thể vi tế
Khi thực hành Thiền càng đi sâu, nhận thức về cơ thể vật lý biến mất khi nhận thức về các cơ thể vi tế tăng lên. Do đó, điều quan trọng là Thiền sinh cần làm quen với các cơ thể vi tế này và những kênh năng lượng của chúng.
Mỗi cơ thể vi tế có sự tồn tại độc lập nhưng vẫn đóng vai trò cần thiết cho sự trọn vẹn của chúng ta. Sự thật là các cơ thể vi tế này chính là bản thể đa chiều kích của chúng ta. Chúng “vi tế” bởi vì chúng tồn tại bên ngoài thế giới vật chất của chúng ta.
Mỗi cơ thể vi tế tỏa ra những rung động hay năng lượng điện từ tinh vi, ở tần số khác nhau, giúp tạo ra hiệu quả hào quang hình dạng quả trứng bao xung quanh cơ thể vật lý. Hào quang là một trường năng lượng điện từ sáng chói đan xuyên vào nhau và phát ra ngoài cơ thể vật lý. Năng lượng toả ra này tạo nên bầu không khí riêng biệt xung quanh tất cả cơ thể sống.
Hơi thở của chúng ta kết nối trực tiếp với các cơ thể vi tế này.
Cơ thể vi tế được hiểu và được giải thích khác nhau trong văn hoá phương Tây và phương Đông. Chúng ta phải luôn nhận thức về cả hai trường phái triết lý này, nhưng chắt lọc ra hiểu biết của riêng mình cùng sự cộng hưởng với việc thực hành Thiền và các trải nghiệm Thiền của mỗi cá nhân chúng ta.
Triết lý Vệ Đà
Ở Kinh Vệ Đà, con người bao gồm năm thể, được biết đến là Pancha Koshas. Những thể này là Annamaya Kosh hoặc thể vật lý; Pranmaya Kosh hay thể năng lượng, Manamaya Kosh hay thể trí; Vijnanmaya Kosh, hay thể trực giác; Anandamaya Kosh, hay thể phúc lạc. Những thể này được chứa bên trong thể kia giống như các phần của kính thiên văn thu gọn. Chúng có thể được hình dung như nhiều lớp của củ hành tây. Thể vật lý là lớp ngoài cùng; thể phúc lạc là lớp trong cùng. Atman hay Bản Thể là cốt lõi. Năm thể này là năm lớp của hiện thân che đi ánh sáng Bản Thể.
Thiền định là quá trình đi vào bên trong xuyên qua các thể này để có trải nghiệm trực tiếp về Atman hay Bản Thể.
Thể thứ nhất -Annamaya Kosh hay Cơ Thể Vật Lý
“Anna”nghĩa là thức ăn; do đó, thể vật lý phụ thuộc vào thức ăn làm phương tiện sinh sống. Nó tồn tại khi nó hấp thụ dinh dưỡng. Đó làcơ thể thô chiếm không gian và thời gian.Thực hành Hatha Yoga và Karma Yoga bắt đầu với cơ thể này.
Khi Thiền, thường nhắm mắt lại, chúng ta nhận biết được cơ thể đó cảm thấy thế nào từ bên trong và làm quen với đời sống nội tâm của nó.
Thể thứ hai - Pranmaya Kosh hay Cơ Thể Năng Lượng
“Prana” nghĩa là năng lượng; do đó, thể năng lượng là nơi biểu lộ năng lượng thiết yếu từ Vũ trụ. Nó làm cho cơ thể vật lý có sinh khí và tạo ra những rung động tinh tế liên quan tới hơi thở. Nó là động lực đằng sau khía cạnh vật lý của các giác quan và giúp cơ thể vật lý tiếp tục quá trình hít vào, thở ra, đi lại, tiêu hoá, bài tiết, và tái tạo.
Cơ thể này có hình dáng như cơ thể vật lý nhưng nó trông giống làn khói dày đặc. Nó có thể đi ra ngoài cơ thể vật lý và đi xuyên không gian và thời gian và không bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn. Trong Thiền, nó khiến chúng ta cảm thấy như thể chúng ta đang bay lên và trọng lực Trái đất không thể kéo chúng ta lại. Nhận biết về cơ thể năng lượng cho ta sự tự do nhất định mà ở thể vật lý không thể có được.
Theo Thuyết Thần Trí, Kriya Yoga và Mantra Yoga bắt đầu từ cơ thể này.
Thể thứ ba - Manamaya Kosh hay Thể Vía
“Mana” nghĩa là tâm trí; do đó, thể vía cũng được gọi là thểcó mà ở đó tất cả suy nghĩ, cảm xúc và thu nhận cảm giác được diễn ra. Nó đưa ra chỉ dẫn và giám sát sự vận hành của cơ thể vật lý, thông qua Prana.Thể này là mầm mống của mọi mong muốn luôn thay đổi. Nó trải nghiệm đau khổ và vui sướng, nảy sinh nghi ngờ, sự đa dạng và ảo tưởng. Nếu nó kết nối trực tiếp với Bản Thể sâu hơn và nhận được chỉ dẫn rõ ràng, nó có thể khiến chúng ta tiến bộ rất nhanh; nhưng nếu nó vận hành thông qua các ảo tưởng của nó, trí tuệ sâu sắc hơn sẽ luôn nằm sau bức màn che. Sự trói buộc hay giải thoát của con người đều do thể này tạo ra.Thể vía có cùng kích cỡ với hai thể đầu tiên, nhưng nó như hơi nước và trong suốt. Nó có thể du hành xuyên thời gian và không gian về quá khứ của một người. Khi Thiền, chúng ta nhận biết được thể này, khám phá nó và đi vào trong.
Các bài tập Yoga Bhakti bắt đầu từ thể vía.
Thể thứ tư -Vijnanamaya Kosh hay Thể Nhân Quả
“Vijnana” nghĩa là biết; do đó, lớp trí tuệ hay kiến thức là chỗ dựa của trí tuệ thông thái, nằm bên dưới khía cạnh xử lý, tư duy của tâm trí. Nó có chức năng là biết, quyết định, đánh giá, bày tỏ ý chí, phân biệt giữa cái này và cái kia. Nó cũng là nền tảng của ý thức về bản ngã và nhận thức về “cái tôi”. Mặc dù, về bản chất nó mang tính thực dụng, nhưng tựa hồ nó trông có vẻ thông thái như thể nó phản chiếu ánh sáng của Bản Ngã. Lớp vỏ bọc này tạo ra hiện thân của chúng ta trong thế giới vật lý. Người Thiền tập làm sạch bản ngã của họ và tiếp cận trí tuệ cao hơn thông qua thể này. Đây là hoàn toàn không có giới hạn gì và có thể du hành xuyên không gian và thời gian về quá khứ và tương lai của một người.
Thể thứ Năm -Anandmaya Kosh hay Thể Tâm Linh
“Ananda” nghĩa là phúc lạc. Thể phúc lạc là thể đẹp nhất của tất cả các thể. Nó là lớp đầu tiên bao quanh Atman, trung tâm tâm thức vĩnh hằng. Song, phúc lạc này không phải là một cảm xúc. Nó là một cấp độ thực tại khác biệt, mang đặc tính là bình an, niềm vui, yêu thương, thư giãn. Nó vượt ngoài tâm trí và độc lập khỏi bất kỳ kích động hay lý do nào. Nó là cấp độ của “thực thể” mộc mạc.
Thể phúc lạc là cực điểm của tất cả những gì có thể đối với con người. Nó là đỉnh cao của tính cá nhân, tình yêu thương, lòng trắc ẩn và mọi thứ đáng giá. Khi một người đạt đến giai đoạn này, anh ta sẽ nở rộ rực rỡ. Bậc Thầy trong anh ta thức tỉnh và đảm đương từ đây. Đây là lớp Tự Nhận Thức, là lúc chúng ta có câu trả lời cho câu hỏi “Tôi Là Ai”. Luận điệu mình là ai đó đặc biệt tan biến tại giai đoạn này. Giờ đây, không còn bất kỳ nhu cầu chứng minh bản thân nữa. Nhưng dù cho bản ngã đã chết bên trong ở lớp thứ năm này, thì câu “Tôi là”vẫn còn. Từ lớp này, người ta có thể khám phá quá khứ và tương lai của mọi người trên Trái đất này.Phúc lạc là biểu lộ tối thượng của loài người. Ngôn từ không thể diễn tả hết điều này. Nhưng nó giúp ta nhớ rằng chừng nào còn có trải nghiệm, dù có phúc lạc thế nào, nó vẫn luôn là một rào cản. Ở trạng thái cuối cùng, tất cả mọi trải nghiệm kết thúc. Dù thể phúc lạc có tuyệt vời thế nào đi nữa, nó vẫn chỉ là một lớp vỏ, một tấm màn che. Người Thiền tập có thể yêu thích lớp vỏ này nhưng không được nấn ná ở đây, nếu như họ thật sự muốn tìm thấy Sự Thật.
Triết lý Osho
Kinh Vệ Đà chỉ đề cập năm thể, nhiều triết gia Ấn Độ vĩ đại bao gồm Osho đã từng nói thêm hai thể khác, lần lượt là Thể Vũ trụ và Thể Niết Bàn.
Trong cuốn Tâm lý bí truyền, Osho chia sẻ rằng bốn thể đầu tiên nằm trên cùng một bình diện tồn tại. Sự phân chia giữa chúng là chiều ngang, do đó, nhận thức di chuyển từ bên ngoài vào bên trong. Nhưng từ thể thứ tư sang thể thứ năm, sự phân chia đi theo chiều dọc và nhận thức dịch chuyển lên trên. Khi Thiền, ở mặt đảo lên trên, ý thức cũng hướng lên Con mắt thứ ba. Một ngọn lửa lớn được tạo ra ở đó và người thiền tập cảm thấy nóng bỏng. Cảm giác nóng này chuyển hoá con người. Thực thể thấp hơn bị thiêu đốt và chết đi. Một thực thể mới, một con người siêu phàm được sinh ra. Đây là bài kiểm tra lửa hay Agni Pariksha, xảy ra tự động khi chúng ta sẵn sàng cho nó.
Thể thứ sáu -Viswamaya Kosh hay Thể Vũ trụ
Viswamaya kosh hay Thể Vũ trụ tồn tại trong chiều kích khác của hợp nhất Vũ trụ. Không có phương pháp nào có thể đạt đến lớp này, đây là nơi người ta bị lạc vào cái tối thượng, từ bản ngã tới phi ngã, từ “Tôi” đến “không còn Tôi”, từ tâm điểm tới không còn tâm điểm.
Ở cấp độ này, cảm giác duy nhất là “chúng ta” - cái bao gồm sự tồn tại toàn thể. Ở đây, một giọt nước phải đánh mất chính nó để trở thành đại dương. Nó không thực sự đánh mất chính mình, nhưng từ góc độ của giọt nước, giọt nước mất đi, để trở thành đại dương bao la.
Ở giai đoạn này, kẻ tìm kiếm đánh mất chính mình nhưng không mất đi sự tồn tại.
Thể thứ bảy -Nirvanmaya Kosh hay Thể Niết Bàn
Nếu phương pháp là phải mất đi chính mình để đi vào thể thứ sáu, thìphi phương pháp phải mất đi để tiếp cận Nirvanmaya kosh hay Thể Niết Bàn. Nó chỉ xảy ra. Nó là một điều xảy ra. Đây là bí ẩn không được tạo ra bởi bất cứ gì. Rồi một ngày, một người đơn giản nhận ra anh ta đang ở thể thứ bảy. Ở đây, thậm chí Vũ trụ cũng không còn và chỉ còn lại duy nhất cái trống không. Nó chẳng có gì, là cái không tuyệt đối. Nó là một cú nhảy không được tạo ra bởi bất kỳ gì, không thể nói về. Nó nghĩa là cái dừng lại toàn bộ, cái trống rỗng tuyệt đối, là nơi khônggiớihạn. Nó không có một điểm tồn tại cụ thể. Nó không thể giao tiếp.
Triết lý phương Tây thời đại mới
Theo triết lý phương Tây, cơ thể vật lý của chúng ta được bao quanh bởi 7 thể tinh, mỗi thể có tâm thức riêng giao tiếp với cốt lõi tinh túy của chúng ta.
Ba thể tinh đầu tiên được biết đến là “các thể tinh ở thể giới vật lý”, bởi vì chúng xử lý tầng năng lượng ở thể giới vật lý. Lớp thứ tư hay thể vía tạo ra liên kết giữa các thể ở thể giới vật lý và ba thể tiếp theo ở thế giới tâm linh, nơi diễn ra năng lượng xử lý trên bình diện tâm linh. Tất cả ba thể này cùng tồn tại trong chiều kích vật lý cũng như chiều không gian cao hơn.
Lớp đầu tiên - Thể năng lượng
Thể tinh đầu tiên, là thể gần nhất với cơ thể vật lý thô, được biết đến là Thể năng lượng và nó rộng khoảng ¼ inch cho đến 2 inch tính từ đường nét cơ thể vật lý. Cơ thể Năng Lượng hoàn toàn giống với cơ thể vật lý và chứa tất cả các cơ quan nội tạng trong nó. Nó được nhìn thấy là ánh sáng màu xanh xám xung quanh cơ thể vật lý.
Lớp thứ hai - Thể Cảm Xúc
Thể Cảm Xúc giữ tất cả cảm xúc của chúng ta. Không giống như Thể Năng Lượng, thể này rất lỏng và kéo rộng khoảng 1 đến 3 inch tính từ cơ thể vật lý. Nó chứa tất cả màu sắc cầu vồng liên tục tuôn chảy và thay đổi, phụ thuộc vào cảm xúc đang diễn ra tại thời điểm nhất định. Cảm xúc rõ ràng có màu sắc rực rỡ trong khi cảm xúc hỗn loạn có màu đục. Nếu bạn đang trải qua thứ cảm xúc gọi là tiêu cực thì cũng chẳng có vấn đề gì, miễn là bạn trải nghiệm chúng trọn vẹn và rõ ràng, nó sẽ giữ nguyên là màu sáng, nhưng nếu bạn bị rối và đè nén cảm xúc, màu sắc đục ngầu sẽ bao quanh cơ thể bạn.
Khi tiếp cận thể này trong Thiền, chúng ta sẽ trải qua nhiều cảm xúc khác nhau.
Lớp thứ ba - Thể trí
Thể này vi tế hơn Thể Cảm Xúc. Nó giữ tất cả các suy nghĩ, quá trình tư duy và rộng khoảng 3 đến 8 inch tính từ cơ thể vật lý. Nó được nhìn thấy là ánh sáng vàng tỏa ra xung quanh đầu và vai, và mở rộng đến phần còn lại của cơ thể. Màu vàng sáng lên khi một người đang tập trung suy nghĩ sâu sắc và yếu đi nếu như tâm trí xáo trộn. Nếu suy nghĩ đi kèm cảm xúc, màu sắc của chúng cũng trở nên rõ ràng hơn cùng với màu vàng.
Thể này đảm nhiệm cho các suy nghĩ tăng lên hay giảm đi khi Thiền.
Lớp thứ tư - Thể vía
Thể này là cầu nối giữa bình diện vật lý và bình diện tâm linh. Khi Thiền sâu, chúng ta vượt qua cầu nối này. Đó là khi nhận thức và khả năng của chúng ta nhảy từ thế giới vật lý sang thế giới tâm linh; và chúng ta bắt đầu nhận thức năng lượng ở rung động cao hơn, không thuộc về thế giới vật chất.Thể này mở rộng khoảng 6 inches đến một feet vượt ra ngoài cơ thể vật lý và mang màu sắc cầu vồng tuyệt đẹp. Ngoài ra, màu hồng hay màu hoa hồng cũng thường được thấy ở thể vía của những người nhẹ nhàng, tràn đầy yêu thương; vì phương diện này kết nối gần gũi với luân xa rim và thể cảm xúc.Khi chúng ta trải nghiệm thể vía của Thiền, chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng bình an và hạnh phúc.
Lớp thứ năm - Thể Khuôn Mẫu
Thể này là khuôn mẫu cho cơ thể năng lượng, là bản chép chính xác của cơ thể vật lý. Thực chất, đây là khuôn mẫu mà cơ thể vật lý được tạo hình theo. Nó rộng từ một đến 2 feet bên ngoài cơ thể vật lý và có thể được nhìn thấy là mang màu xanh đen bởi những người có nhãn thông và những người chữa lành cơ thể bậc cao. Đây là màu sắc được dùng để miêu tả Thần Sri Krishna.Do thể này là khối xây dựng nên cơ thể vật lý, nên nó là thể quan trọng của việc khôi phục sức khoẻ ban đầu. Khi chúng ta tiếp cận cơ thể này trong Thiền,thì sự chữa lành và xoa dịu tự động diễn ra cho toàn cơ thể.
Lớp thứ sáu - Cơ Thể Mong ước
Cơ thể này là lớp cảm xúc của thế giới tâm linh. Nó có màu phấn nhẹ nhàng và mở rộng đến 3 feet tính từ cơ thể vật lý. Khi tâm thức của chúng ta đạt đến cấp độ cơ thể này, thì nhập Thiền sẽ diễn ra sự kết nối giữa trái tim và luân xa thiên thể. Đó là lúc chúng ta thấm nhuần tình yêu thương vô điều kiện và cảm thấy phúc lạc, ngất ngây về tâm linh và cảm thấy được kết nối.
Lớp thứ bảy - Cơ Thể Nhân Quả
Cơ thể này là lớp trí của thế giới tâm linh. Nó mở rộng đến 3,5 feet tính từ cơ thể vật lý và được nhìn thấy có hình dáng quả trứng màu vàng ánh bạc hay màu vàng kim. Nó rung động ở một tốc độ rất cao. Khi chúng ta đạt đến cấp độ này của Thiền, chúng ta cảm thấy đã có thể giao tiếp với Thượng Đế. Những ký ức về tiền kiếp cũng tự nhiên được sống dậy. Các câu trả lời cho nhiều câu hỏi khác nhau về cuộc sống của chúng ta xuất hiện và sự chữa lành cho cơ thể hoàn mỹ sâu sắc diễn ra.
Bảy luân xa
Bảy thể tinh được kết nối với nhau thông qua bảy luân xa chính. Các luân xa được kết nối với nhau thành một mạng lưới kênh năng lượng gọi là nadis, tương ứng với hệ thần kinh nhưng được nằm ở các thể tinh. Thiền định tự động kích hoạt, đánh thức và mở rộng các luân xa để có thể làm việc với tất cả bảy thể của chúng ta.
Luân xa trong tiếng Phạn có nghĩa là bánh xe. Do đó, những luân xa thể tinh là bánh xe như những cực xoáy, cho phép các luồng năng lượng lan qua nó. Chúng được miêu tả bằng hình tượng là những bánh xe có nan hoa haycác bông hoa có cánh; mỗi luân xa có số lượng cánh hay nan hoa cụ thể. Một điều thú vị là bảy luân xa có màu sắc tương ứng với bảy màu của cầu vồng.
Các luân xa là những quả cầu quay của hoạt động năng lượng sinh học gây ảnh hưởng và quản lý tất cả các chức năng cơ thể. những trung tâm năng lượng quan trọng này được hình thành ở nhiều khu vực giao nhau của ba kênh nadis chính: Ida, Pingla, Sushmumna (hệ thần kinh giao cảm, hệ đối giao cảm và hệ thần kinh trung ương). Ở cấp độ vật lý, các luân xa có liên quan đến các đám rối thần kinh chính và các tuyến nội tiết của cơ thể. Những tuyến nội tiết là các tuyến không có ống dẫn, trực tiếp tiết ra hormone của chúng vào đường máu. Những hormone này điều chỉnh sự trao đổi chất, tăng trưởng, phát triển ở tuổi dậy thì. Chúng cũng đóng một vai trò chính trong việc quyết định tâm trạng của chúng ta. Đó là lý do vì sao những người có luân xa khai thông lúc nào cũng vui vẻ.Luân xa là các đầu mối chuyển giao và truyền tải năng lượng. Chúng là nơi biến đổi năng lượng vi tế tần số cao của hào quang. Chúng được gọi là các trạm năng lượng bởi vì chúng phát ra, thu nhận, tiêu thụ, dự trữ và bộc lộ năng lượng sống của con người.
Các cơ thể tinh làm việc cùng nhau và gửi thông điệp tới cơ thể vật lý trên cấp độ tế bào thông qua những hormone được tiết ra bởi các tuyến không ống dẫn. Mỗi một tuyến này tương ứng với các luân xa cụ thể nằm nơi các cơ thể tinh. Những thông điệp hormone này giúp lập trình lại và tái cấu trúc tế bào rối loạn chức năng, giúp chúng ta trở nên hài hòa và cân bằng. Năng lượng sinh lý hay prana, được sinh ra bởi những luân xa, đóng một vai trò chính để duy trì trạng thái hài hoà này.Do luân xa được nằm ở các cơ thể tinh và không được tìm thấy trong khám nghiệm tử thi, ngành y khoa coi chúng là sản phẩm tưởng tượng của tâm trí; nhưng tất cả những người Thiền tập lâu năm đều có thể trải nghiệm sức mạnh của những luân xa đó.
Luân xa một - Muladhara hay Luân Xa Gốc
Luân xa gốc nằm ở vùng giữa hậu môn và cơ quan sinh dục và được kết nối với đệm cột sống, còn được gọi là xương cụt. Nó nằm ngay phía dưới giao lộ nơi Ida, Pingala và Sushumna nadis gặp nhau. Muladhara được dịch theo nghĩa đen là “nền tảng chính” và hỗ trợ như trụ cột cho tất cả các luân xa ở trên nó. Nó liên quan tới yếu tố Đất và đem đến nền tảng cho sự tồn tại của chúng ta ở thế giới vật lý, vật chất này.
Muladhara liên quan tới bản năng sinh tồn, khả năng bảo vệ chính mình, cảm giác vững chãi, các vấn đề về sự an toàn và kết nối với thế giới vật lý. Nó bắt nguồn từ đặc tính vật lý và tập trung vào sự sinh tồn. Nó cũng được biết đến là trung tâm cơ sở có màu đỏ và nắm giữ năng lượng sống của chúng ta.Về cấp độ vật lý, luân xa này kết hợp với tuyến thượng thận, thận và cột sống; về mặt sinh lý, Luân xa này quản lý tính dục; về mặt tâm trí, nó đảm bảo sự ổn định; về mặt cảm xúc, nó kết nối với năng lượng dục, và về mặt tâm linh, nó tạo cảm giác an toàn.Luân xa gốc chưa được kích hoạt gây ra chứng thiếu máu, mệt mỏi, đau lưng dưới, trầm cảm, đau thần kinh tọa, táo bón, bệnh trĩ, vấn đề về đầu gối, đau nhức toàn thân, giãn tĩnh mạch, chân tay lạnh, mất năng lực đạt được mục tiêu, thiếu hụt các mối quan hệ tương hỗ và cảm giác mệt mỏi.Luân xa gốc hoạt động quá mức khiến chúng ta kháng cự mọi thay đổi và trở nên thực dụng, tham lam và bị ám ảnh về sự an toàn.Luân xa gốc được cân bằng mang lại sức khoẻ, ổn định nội tâm, cân bằng, thịnh vượng, an toàn và sự hiện diện năng động.
Bên cạnh Thiền,việc tập thể dục, ngủ đủ giấc, làm vườn, đi chân đất để nối đất sẽ đảm bảo chức năng hoạt động mượt mà của luân xa này.
Luân xa thứ hai - Swadhishtana hay Luân xa Xương Cùng
Luân xa xương cùng nằm ở dưới rốn, khu vực bụng dưới. Nó kết hợp với yếu tố Nước và liên quan đến cảm xúc, sáng tạo, sự tập trung, kiến thức và tình dục. Nó kết nối với đồng loại của chúng ta thông qua cảm xúc, sự thân mật, ham muốn, cảm giác và chuyển động. Nó kết nối với nguồn hứng khởi bên trong và cho phép chúng ta nhìn thấy vẻ đẹp xung quanh ta. Luân xa xương cùng bắt nguồn từ cảm xúc và tập trung vào các ham muốn.
Swadhishthana mang nghĩa đen là “nơi ở của một người”. Nó còn được gọi là màu cam hay trung tâm lá lách. Nó nắm giữ năng lượng cảm nhận và cảm xúc của chúng ta.
Xương Cùng kết hợp với tuyến sinh dục: Tinh hoàn và buồng trứng và quản lý chức năng sinh sản. Nó cũng chăm sóc gan, thận và bụng dưới của chúng ta, chịu trách nhiệm về chức năng bài tiết, sinh sản, hệ bạch huyết và ở phụ nữ nó giữ vai trò điều tiết kinh nguyệt. Về mặt tâm trí, nó quản lý khả năng sáng tạo; về mặt cảm xúc nó khởi sinh niềm vui và về mặt tâm linh, nó tạo ra nhiệt huyết.Luân xa Xương Cùng chưa được kích hoạt sẽ gây ra rối loạn ăn uống, lạm dụng rượu, bia và thuốc kích thích, hen suyễn và dị ứng, nhiễm trùng nấm, các vấn đề tiết niệu, bất lực và lãnh đạm, tiểu đường và ung thư máu.Luân xa xương cùng hoạt động quá mức khiến chúng ta dính mắc cảm xúc với người khác, tập trung quá mức vào tình dục.
Luân xa xương cùng cân bằng mang lại cho chúng ta cái duyên dáng và linh động, cảm nhận sâu sắc, thỏa mãn tình dục và năng lực chấp nhận thay đổi.
Bên cạnh Thiền thì massage và tắm cùng tinh dầu nóng và xem các bộ phim tình cảm xúc động cũng giúp cho luân xa này làm việc tốt.
Luân xa ba - Manipura hay Luân Xa Đám Rối Mặt Trời
Luân xa đám rối Mặt trời nằm cách rốn hai đốt ngón tay và kết hợp với yếu tố Lửa. Năng lượng lửa bắt nguồn từ Mặt trời và duy trì mọi sự sống trên Trái đất. Đó là lý do vì sao lửa lại kết nối với sức mạnh từ thời cổ xưa. Điều này cũng giải thích nguồn gốc của câu “lửa đốt trong lòng”, “thét ra lửa”, “tính khí nóng nảy”, v.v…
Manipura theo nghĩa đen nghĩa là “thành phố đá quý”. Trung tâm lửa này toả sáng như một viên đá quý, lan toả sức sống và năng lượng.
Luân Xa Manipura phụ trách sức mạnh cá nhân, ý chí, quyền suy nghĩ của chúng ta, sự cân bằng trí tuệ, tự tin và khả năng kiểm soát bản thân, khiếu hài hước, khẳng định bản thân, sự năng động, quyền lực, quyền tự trị và quá trình trao đổi chất. Nó bắt nguồn từ nhận dạng bản ngã và tập trung vào tính cá nhân, sự hào phóng, thỏa mãn hoàn toàn, sự rộng mở, ham muốn quyền lực. Phẩm chất chính của nó là sự bình an.
Luân xa có màu vàng hay được biết đến là trung tâm bản ngã và nắm giữ năng lượng tâm trí của chúng ta. Luân xa này cũng tương quan với cơ thể vi tế thứ ba, thể tâm trí.Nó kết hợp với lá lách, tuyến tuỵ, gan, túi mật, hệ tiêu hoá, tiết enzyme, axit, nước cho tiêu hoá và hấp thụ dinh dưỡng.
Về mặt sinh lý, luân xa Đám Rối Mặt trời quản lý chức năng tiêu hoá; về mặt tâm trí, nó đảm bảo sức mạnh cá nhân, về mặt cảm xúc nó kiểm soát việc mở lòng, và về mặt tâm linh nó liên quan đến sự trưởng thành hoàn chỉnh.
Manipura chưa được kích hoạt gây ra tiêu hoá chậm, chậm tiêu, loét dạ dày, vấn đề về đường ruột và đại tràng, tiểu đường, táo bón, lo lắng và trí nhớ kém.
Manipura hoạt động quá mức sẽ khiến chúng ta hung hăng và độc đoán.
Luân xa Đám Rối Mặt trời cân bằng mang đến năng lượng, hiệu quả, sự tự nhiên và sức mạnh hài hòa. Nó giúp chúng ta giải phóng căng thẳng tích luỹ.
Bên cạnh Thiền, việc đọc sách chứa nhiều thông tin, giải đố, tắm nắng là một vài hoạt động giúp cân bằng luân xa này. Khóc và nôn mửa là những hoạt động tự nhiên nhằm massage luân xa này và tái thiết lập cân bằng cho nó.
Luân xa thứ tư - Anahata hay Luân Xa Trái Tim
Luân xa Trái tim nằm ở trung tâm vùng ngực và vùng lân cận của khoang tim. Nó kết hợp với yếu tố Khí. Luân xa này liên đới tới tình yêu, sự tha thứ, lòng từ bi, chấp nhận bản thân và người khác,v.v… Nó tích hợp các mặt đối lập của tâm lý, như tâm trí và thể xác, nam và nữ, ánh sáng và bóng tối, phân tách và hội tụ,v.v…
Luân xa tim bắt nguồn từ định dạng xã hội và tập trung vào sự chấp nhận. Nó được biết đến là có màu xanh hay trung tâm trái tim và nắm giữ năng lượng cảm xúc của chúng ta. Các dòng năng lượng của thế giới tâm linh phải đi qua luân xa tim để được sử dụng trọn vẹn bởi các cơ thể thấp hơn.
Luân xa trái tim không được kích hoạt sẽ gây ra cảm lạnh, ho, thiếu kỹ năng giao tiếp, vấn đề về tuyến giáp, sốt, nhiễm trùng, các vấn đề về miệng, quai hàm,lưỡi, cổ và vai, tâm trạng thất thường, rối loạn hormone như các triệu chứng tiền kinh nguyệt và mãn kinh,v.v…
Anahata nghĩa đen có nghĩa là “không dính vào nhau”, vì thế luân xa này mang rung động không dính mắc nhau của cõi hư vô vĩnh cửu hay âm thanh nguyên thủy, là cái biểu đạt nhịp đập của Vũ trụ và sự tồn tại của con người.
Luân xa tim kết hợp với tuyến ức, tim, phổi, máu và hệ tuần hoàn.
Về mặt sinh lý nó quản lý hệ tuần hoàn; về mặt cảm xúc nó đảm bảo tình yêu vô điều kiện cho bản thân và người khác; về mặt tâm trí nó tạo ra đam mê; và về mặt tâm linh, nó chịu trách nhiệm cho sự tận tâm.
Khi luân xa timkhông được kích hoạt, nó gây ra hen suyễn, rối loạn hô hấp và tim mạch, ung thư vú và huyết áp cao. Khi nó hoạt động quá mức, chúng ta bóp nghẹt người khác bằng tình yêu ích kỷ, có điều kiện.
Một luân xa tim cân bằng cho phép chúng ta yêu nồng nàn vô điều kiện và đem đến cảm giác vị tha, tình anh em bao trùm cả Vũ trụ, lòng khoan dung, lòng trắc ẩn sâu sắc, sự tận tâm và một cảm giác tập trung sâu sắc; sống và chấp nhận người khác như họ vốn có. Nó mang đến cho chúng ta cảm giác trách nhiệm, an toàn tuyệt đối, tự tin và hành vi thuần khiết; đập tan lo âu, nghi ngờ và sợ hãi.Bên cạnh việc thực hành Thiền, đi bộ ngoài thiên nhiên, dành thời gian với người ta yêu, trồng cây xanh xung quanh, đọc tiểu thuyết lãng mạn hay xem phim lãng mạn là những hoạt động có thể kích hoạt luân xa này và giữ cho nó khoẻ mạnh.
Luân xa Năm - Vishuddni hay Luân xa Cổ Họng
Luân xa cổ họng năm ở giữa phần lõm ở cổ và thanh quản, bắt đầu ở đốt sống cổ phía sau yết hầu. Nó kết hợp với nguyên tố ánh sáng và liên quan tới khả năng sáng tạo và biểu đạt.
Vũ trụ được tạo ra từ cái rỗng không. Vì vậy, tất cả sáng tạo và biểu đạt bắt đầu từ một không gian trống rỗng. Ở bất kỳ nhạc cụ nào, âm thanh luôn tạo ra từ khoảng không trống rỗng.Suy nghĩ, ngôn từ và hành động là ba giai đoạn của sự sáng tạo. Ngôn từ đại diện cho biểu hiện của ý định, là bước rất quan trọng của quá trình sáng tạo.
Luân xa cổ họng bắt nguồn từ đặc tính sáng tạo và tập trung vào khả năng sáng tạo. Nó cũng được biết đến là màu xanh hay trung tâm thanh quản và nắm giữ năng lượng giao tiếp. Nó hợp thành quyền được nói, biểu hiện trung thực, khả năng tin tưởng, sự trung thành, khả năng tổ chức, hoạch định và sự thuần khiết.Nó là trung tâm của tâm thức thuần khiết, tính sáng tạo, hiểu biết đúng đắn và năng lực phán đoán. Nó giúp chúng ta chấp nhận tính nhị nguyên của cuộc sống và xuôi theo dòng chảy cuộc sống. Nó khiến chúng ta chấp nhận mọi thứ như chúng là mà không phân biệt tốt hay xấu.Luân xa cổ họng kết hợp với tuyến giáp, tuyến cận giáp, phổi, tỉ lệ trao đổi chất, dây thanh quản, thính giác và thực quản. Về mặt vật lý, nó phụ trách khả năng giao tiếp; về mặt cảm xúc nó đảm bảo tính độc lập; về mặt tâm trí nó tạo ra suy nghĩ trôi chảy; và về mặt tâm linh nó đem lại cảm giác an toàn.
Luân xa cổ họng hoạt động quá mức khiến chúng ta nói quá nhiều và trở nên độc đoán khiến mọi người xa lánh. Nó tạo cảm giác thua kém, hoặc cao ngạo và ghen tỵ.
Một luân xa cổ họng cân bằng thúc đẩy tính sáng tạo của chúng ta, giúp chúng ta hoạch định và suy nghĩ tốt hơn, giúp chúng ta nói lên sự thật của mình và trở nên cuốn hút. Nó tạo ra khả năng thần giao cách cảm và sự vô tư vui vẻ.Hát trong khi tắm, có những cuộc đối thoại ý nghĩa, ghi chép, tập các động tác xoay vai và cổ, cùng với Thiền sẽ giúp kích hoạt và thanh tẩy luân xa này.
Luân xa thứ 6 - Ajna hay Luân Xa Con Mắt Thứ Ba
Luân xa Con Mắt Thứ Ba nằm ngay giữa trán, phía trên sống mũi khoảng một đốt ngón tay, giữa hai lông mày. Nó không liên kết với bất kỳ nguyên tố nào, nhưng nó liên quan tới khả năng nhìn thấy những thứ không rõ ràng. Nó khiến chúng ta nhìn nhận mọi thứ là một phần của tổng thể to lớn hơn. Nó bắt nguồn từ năng lượng nguyên mẫu và tập trung vào nhìn nhận bức tranh lớn.
Luân xa Con Mắt Thứ Ba được biết đến là “Divyachakshu” hay con mắt thánh, luân xa minh sư, con mắt của Shiva và Triveni sức ảnh hưởng của ba con sông, lần lượt là Ida, Pingalavà Sushumna Nadis gặp nhau tại đây và đi lên Luân xa Vương Miện - cánh cổng dẫn tới thiên đường.
Trong Thiền, hướng dẫn thiêng liêng được nhận thông qua luân xa Con Mắt Thứ Ba.
Luân xa này được biết đến là màu xanh đậmhay trung tâm con mắt thứ ba và nắm giữ năng lượng trực giác. Đứa trẻ chàm (Indigo child) khi sinh ra đã có luân xa con mắt thứ ba được kích hoạt hoàn toàn.Ở cấp độ vật lý, Luân xa Ajna liên quan tới tuyến tùng quả, là cơ quan rất nhỏ, không hình dạng, có đường kính khoảng 1/8 inch (khoảng 0,3175 cm). Tuyến tùng quả là một tuyến nhạy cảm với ánh sáng, sản sinh hormone melatonin -hormone điều tiết giấc ngủ và thức dậy. Nhiệm vụ chính của tuyến này là giúp cải thiện năng lực tư duy và trí thông minh. Nó có kích thước khá lớn ở trẻ em, nhưng co lại ở giai đoạn dậy thì. Đây là trung tâm nơi trí tuệ và trực giác phát triển.
Nếu Luân xa này chưa được kích hoạt, chúng ta luôn trải qua sự thiếu hụt năng lượng và có những suy nghĩ tiêu cực tạo thêm nghiệp xấu. Mất cân bằng luân xa này cũng gây ra mất khả năng học tập và sự mất khả năng phối hợp sắp xếp và bị rối loạn giấc ngủ.Nếu luân xa này kích hoạt quá mức, chúng ta sẽ luôn sống trong thế giới tưởng tượng, ở một vài trường hợp có thể gây ra ảo giác.Luân xa Con Mắt Thứ Ba cân bằng giúp chúng ta tin vào trực giác và những hiểu biết bên trong, phát triển năng lực ngoại cảm, giải phóng tiêu cực ẩn giấu và bị đè nén, thêm nhận thức sâu sắc cho chúng ta và đạt được sự tự nhận thức.Thiền là công cụ tốt nhất để kích hoạt Con Mắt Thứ Ba. Ngoài ra, ngắm sao cũng rất hữu ích.
Luân xa thứ bảy - Trạng Thái Sahasrara hay Luân Xa Vương Miện
Luân xa Sahasrarakhông hẳn là luân xa mà là sự kết nối với bản thể cao hơn của chúng ta và với Thần Linh. Nó còn được biết đến là nơi ở của Thần Shiva. Từ “sahasrara” có nghĩa là một nghìn, vì luân xa này được hình dung như một bông hoa sen một nghìn cánh đang phát sáng. Nơi trung tâm của hoa sen là một jyotirlingam của ánh sáng đang tỏa sáng biểu tượng của tâm thức thuần khiết. Tại Sahasraralà nơi hợp nhất huyền bí của Shiva và Shakti diễn ra. Sự hợp nhất này còn được xem là sự hợp nhất của ý thức vật chất và năng lượng và của một linh hồn riêng rẽ với linh hồn tối cao.
Về cấp độ vật lý, Sahasrara có vẻ như liên quan tới tuyến yên và phần tiểu não, nơi tiết ra hormone, để giao tiếp với phần còn lại của hệ nội tiết và cũng kết nối với hệ thần kinh trung ương thông qua vùng dưới đồi, là cấu trúc có vai trò thiết yếu tới các chức năng vật lý cơ bản của ý thức. Thóp trên đầu em bé sơ sinh là vị trí của luân xa Vương Miện, nó thực ra là trạng thái của tâm thức thuần khiết. Trạng thái này không liên kết với bất kỳ nguyên tố nào. Nó liên quan tới tâm thức là tâm thức thuần khiết và đại diện cho trạng thái là một với TẤT CẢ VỐN LÀ. Luân xa này bắt nguồn từ đặc tính Vũ trụ và tập trung vào Niết Bàn. Nó còn được biết đến là màu tím hay trung tâm đăng quang. Nó giữ nguồn hứng khởi và năng lượng tâm linh.
Mất cân bằng ở luân xa này sẽ gây ra đau đầu, cảm quang, bệnh tâm thần, đau dây thần kinh, lão suy, động kinh và mất khả năng về phối hợp sắp xếp và bị viêm da.
Luân xa Vương Miện được kích hoạt cho chúng ta quyền khao khát, hiểu biết và hiến dâng cho tâm thức thiêng liêng, tin tưởng Vũ trụ. Nó giúp chúng ta tích hợp bản thể ý thức và tiềm thức của chúng ta thành Bản Thể Siêu Ý Thức; khiến chúng ta thành không giới hạn và kết nối với tất cả sự sáng tạo.
Bên cạnh Thiền, việc tập trung vào các giấc mơ, viết ra tầm nhìn của chúng ta và dành thời gian trong tĩnh lặng sẽ mở ra luân xa nghìn cánh hoa này.Khi luân xa Vương Miện được kích hoạt hoàn toàn, nó chuyển từ màu tím sang màu trắng. Đó là lý do vì sao các thực thể khai sáng được miêu tả có vầng hào quang màu trắng.
Luân xa Vương Miện biểu tượng cho sự tách rời khỏi ảo tưởng, đây là một yếu tố cần thiết để đạt được tâm thức của chân lý rằng một là tất cả và tất cả là một.
Luân xa Sahasrara tích hợp tất cả các phẩm chất đẹp nhất của tất cả các luân xa khác. Nó cho chúng ta nhận thức trực tiếp, tuyệt đối về thực tại thông qua hệ thần kinh trung ương của chúng ta.
Luân xa và Prana
Năng lượng sống Prana được phân bổ tới tất cả các cơ thể bởi bảy luân xa này thông qua những đường dẫn cụ thể được gọi là đường Kinh lạc (Đông y gọi hệ Kinh lạc, 12 Kinh lạc). Nồng độ Prana luân chuyển mỗi một giờ giữa năm luân xa thấp hơn, làm chuyển hoá năng lượng Pranic (Chi, Ki, Khí công, sinh lực) thành một trong năm trạng thái vật chất: Rắn, lỏng, ánh sáng, khí và không gian tinh khiết.
Đối vớiThiền, nếu prana được tập trung ở luân xa Gốc hay nguyên tố Đất, cơ thể có thể trở nên rất nặng và đứng yên. Nó có thể không thể di chuyển được.Nếu Prana được tập trung ở luân xa Xương Cùng hay nguyên tố Nước, nước mắt có thể tự nhiên rơi, mà không có bất kỳ lý do gì. Có thể thấy không giống với nước mắt giận dữ, buồn bã hay cay đắng là rất nóng và chảy từ trung tâm đôi mắt hay khoé mắt, nước mắt của sự thành tâm thì mát lạnh và chảy từ góc ngoài của đôi mắt.Nếu Prana được tập trung ở luân xa Đám Rối Mặt trời hay nguyên tố Lửa, làn da có thể thay đổi màu sắc, người hiền tập có thể cảm thấy mệt hay thấy rất nóng đến toát mồ hôi.Nếu Prana tập trung ở Luân xa Tim hay nguyên tố Khí, cơ thể tự nhiên run rẩy, cảm giác có các cơn lạnh, nổi gai ốc, rét, rùng mình hay cảm thấy hạnh phúc.Khi Prana tập trung ở luân xa Cổ Họng hay yếu tố Không Gian, nhảy, múa ca hát vô thức, hay khạc đờm ra khỏi cổ họng,v.v… có thể xảy ra.Ta cần nhớ rằng tất cả những quá trình này đang thanh lọc cơ thể và đánh thức Kundalini. Thường thì Kundalini khởi lên vào lúc Thiền và quay trở lại Muladhara sau khi Thiền kết thúc và ý thức hướng ra bên ngoài.
Năng lượng Kundalini
Năng lượng cơ thể của chúng ta phụ thuộc vào bảy cơ thể vi tế của hào quang, các luân xa tương ứng của chúng, và Kundalini chảy qua các luân xa cơ thể vi tế. Kundalini đem sức mạnh và năng lượng tới tất cả các luân xa. Nó luôn chờ trực để được giải phóng và hoà nhập với Shiva ở trung tâm Vương Miện.
Kundalini hay năng lượng cuộn xoắn là hồ chứa Prana ở căn cứ Sushumna, một kênh dẫn cơ thể vi tế tương ứng với cột sống của chúng ta. Khi năng lượng bắt đầu nổi lên thông qua Sushumna, người Thiền tập nuôi dưỡng sattvagunas thuần tuý, sự sáng suốt và bình an. Ở giai đoạn này, Thiền trở nên tự nhiên và dễ dàng.
Khi Kundalini tiếp tục nổi lên, nó tạo ra cảm giác ngất ngây và nguồn năng lượng lớn. Thậm chí một chút năng lượng Kundalini cố đi tới luân xa Con Mắt Thứ Ba, thì một trải nghiệm tâm linh mãnh liệt cũng có thể diễn ra; ví dụ như nhìn thấy hình ảnh thần linh.Sự nở hoa của bảy luân xa đánh thức Kundalini, mang đến ý thức hormone Vũ trụ hay năng lượng cuộn xoắn đang ngủ say cho sự tăng trưởng tâm linh.
Kundalini nổi dậy giúp giảm đi sự vô tâm, tàn bạo, thờ ơ, nỗi sợ, giận dữ và cảm giác tội lỗi,v.v… Khi Kundalini thức tỉnh, nó đi lên tất cả các luân xa để đến Sahasraravà hoà nhập vào nguồn nơi nó hình thành. Ở trạng thái đó, người Thiền tập đạt được trạng thái siêu ý thức, đón nhận kiến thức tối cao và vượt thoát ra ngoài sinh và tử. Kundalini giống như dây rốn của chúng ta nối với Thượng Đế.
Nhiếp ảnh Kirlian
Nhiếp ảnh Kirlian là một hình thức của biểu đồ ảnh, được sử dụng để ghi lại hình ảnh hào quang của con người. Các bức ảnh Kirlian về các Thiền sinh chỉ ra hào quang rất lớn. Nhiếp ảnh Kirlian được sử dụng trong sức khoẻ toàn diện và chữa lành bởi vì nó cho thấy trường năng lượng bị ảnh hưởng thế nào trong bệnh tật. Một căn bệnh thường được thấy là có trường hào quang bị phá vỡ. Sau Thiền, nhiều mảng trong trường hào quang bị hỏng này được tự động sửa chữa.
Tắc nghẽn luân xa
Điều kiện lý tưởng của luân xa là chúng luôn được mở và kích hoạt.
Khi tất cả các luân xa hoạt động bình thường, chúng ta cảm thấy cân bằng, vui vẻ và bình an. Thiền làm mở các luân xa bị đóng hay bị tắc nghẽn.Suy nghĩ của chúng ta ảnh hưởng luân xa, bởi vì mỗi suy nghĩ về mặt tư duy hay cảm xúc đều kết nối với một luân xa. Mỗi suy nghĩ sẽ vừa tiếp thêm sinh lực hoặc phá huỷ nó. Các suy nghĩ gây cạn kiệt năng lượng tạo ra tắc nghẽn ở luân xa. Ví dụ, luân xa cổ họng bị tắc khi chúng ta nghi ngờ năng lực thể hiện bản thân. Suy nghĩ tiêu cực cũng rút cạn năng lượng của hào quang. Nó trở nên dày đặc và đổi màu, và lớp hào quang bảo vệ sẽ tiết ra nước mắt. Điều này là suy yếu hàng rào bảo vệ của chúng ta và những năng lượng tiêu cực từ bên ngoài bắt đầu đổ vào trong chúng ta. Cùng lúc đó, dòng suy nghĩ tiêu cực của chúng ta sẽ thu hút thêm sự tiêu cực từ các tần số tương tự và vòng luẩn quẩn được tạo ra từ đây.
Luân xa tắc nghẽn không thể tuần hoàn Prana giữa các cơ thể vi tế; do đó, sự cân bằng tinh tế của thân, tâm, trí bị quấy nhiễu. Sự mất cân bằng sẽ gây ra bệnh tật vì năng lượng sống không thể được chắt lọc từ cơ thể vi tế vào cơ thể vật lý. Nếu tình trạng tắc nghẽn nghiêm trọng, nó có thể dẫn đến cái chết.Đôi lúc các luân xa bị biến dạng, bị rách hay bắt đầu rò rỉ. Khi trường hợp đó, xảy ra, chúng ta khó có thể duy trì hiện hữu trọn vẹn các trải nghiệm sống của mình. Chúng ta không thể yêu, cảm nhận hay suy nghĩ một cách đầy đủ nhất.Ngược lại, khi luân xa mở, khoẻ mạnh và được kích hoạt, chúng xử lý năng lượng hiệu quả. Prana tuôn chảy bình thường và chúng ta đạt được những trạng thái nhận thức cao hơn. Rung động nâng cao, chúng ta trải nghiệm tình yêu vô điều kiện vào, đi và trường năng lượng tâm linh trong lành; nơi thu hút nhiều Prana hơn. Do đó, một vòng lặp sẽ được tạo ra.Ở góc độ cực đoan, nếu các luân xa hoạt động quá mức, chúng sẽ bị đốt cháy và gây ra nhiều vấn đề.Lối sống hiện đại làm hầu hết chúng ta không được tiếp xúc với năng lượng Mặt trời, khiến cho các luân xa của chúng ta lờ đờ. Thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng Mặt trời và Thiền định sẽ giữ cho luân xa của chúng ta khoẻ mạnh và hoạt động.
Khi tất cả luân xa hoạt động, thì các tuyến khoẻ mạnh và đủ lượng hormone được tiết ra, con người nhận thức tốt hơn về bản thể đích thực của mình và chạm tới tiềm năng tối đa.
Tóm lược
Cơ thể vật lý của chúng ta được bao quanh bởi bảy cơ thể vi tế, và tạo ra hào quang hình quả trứng xung quanh nó.
Những cơ thể này được gọi là “thể tinh” bởi vì chúng tồn tại bên ngoài thực tại vật lý của chúng ta.
Các cơ thể vi tế (thể tinh) được hiểu và được giải thích khác nhau trong truyền thống phương Tây và phương Đông.
Theo Kinh Vệ Đà, con người bao gồm năm thể hay năm lớp, được gọi là Pancha Koshas.
“Anna” nghĩa là thức ăn; do đó, thể vật lý phụ thuộc vào thức ăn để nuôi sống nó.
“Prana” nghĩa là năng lượng; do đó, thể năng lượng là hiện thân của năng lượng cần thiết từ Vũ trụ.
“Mana” nghĩa là tâm trí; do đó, thể vía còn được gọi là thể tâm trí, là nơi các suy nghĩ, cảm xúc, cảm nhận được xử lý.
“Vijinana” nghĩa là biết; vì vậy, thể trí thức hay thể kiến thức là chỗ dựa của trí tuệ, nằm ẩn dưới khía cạnh xử lý, suy nghĩ của tâm trí.
“Ananda” nghĩa là phúc lạc. Thể phúc lạc là thể đẹp nhất trong tất cả các thể; là thể đầu tiên bao quanh Atman, trung tâm tâm thức vĩnh hằng.
Trong khi Kinh Vệ Đà chỉ đề cập năm thể, rất nhiều triết gia Ấn Độ vĩ đại bao gồm Osho đã chia sẻ thêm về hai thể nữa, lần lượt là Thể Vũ trụ và Thể Niết Bàn.
Viswamaya kosh hay thể Vũ trụ nằm trong một chiều kích khác của hợp nhất Vũ trụ.
Bảy cơ thể vi tế kết nối với nhau thông qua bảy luân xa chính.
Luân xa là các đầu mối chuyển giao và truyền tải năng lượng.
Luân xa gốc nằm ở vùng giữa hậu môn và cơ quan sinh dục, được kết nối với đệm cột sống, còn được gọi là xương cụt.
Luân xa xương cùng nằm ở dưới rốn, khu vực bụng dưới.
Luân xa đám rối Mặt trời nằm trên lỗ rốn khoảng hai đốt ngón tay.
Luân xa Trái Tim nằm ở trung tâm vùng ngực và vùng lân cận của khoang tim.
Luân xa cổ họng nằm ở giữa phần lõm ở cổ và thanh quản.
Luân xa Con Mắt Thứ Ba nằm ngay giữa trán, phía trên sống mũi khoảng một đốt ngón tay, giữa hai lông mày.
Thóp trên đầu em bé sơ sinh hay cái Vương Miện trên đầu chính là vị trí của luân xa Vương Miện.
Mỗi cơ thể vi tế có bảy luân xa riêng, được nép mình trong các luân xa bên ngoài cơ thể theo các vòng tròn đồng tâm.
Năng lượng sống hay Prana được phân bổ tới khắp các cơ thể bởi bảy luân xa này thông qua đường dẫn cụ thể gọi là đường Kinh lạc.
Kundalini hay năng lượng cuộn xoắn là hồ chứa Prana ở căn cứ Sushumna, một kênh dẫn cơ thể vi tế tương ứng với cột sống của chúng ta.
Suy nghĩ của chúng ta ảnh hưởng tới luân xa, bởi vì mỗi suy nghĩ dù liên quan tới tinh thần hay cảm xúc cũng đều kết nối với một luân xa.
Thiền đều đặn giữ cho luân xa của chúng ta khoẻ mạnh và hoạt động tốt.
“Anh ta chỉ khôn ngoan khi dâng hiến hết mình để nhận ra những khám phá cổ xưa, không chỉ bằng việc đọc. Hãy giải quyết tất cả vấn đề của bạn thông qua Thiền định. Trao đổi những nghiên cứu tôn giáo không mang tính trục lợi vì sự tiếp xúc đích thực với Thượng Đế.”
Paramhansa Yogananda
(Còn nữa)