Kỳ 12.
Ngày 7-4 thám mã về Tổng hành dinh báo:
-Dạ bẩm Quốc Công Tiết chế, đạo quân bộ của Thoát Hoan rút theo đường Lạng Giang đã bị đại bại, khoảng 40 vạn quân đã bị tiêu diệt.
-Có bắt được Thoát Hoan không?
-Dạ, Thoát Hoan nhờ các tướng lính che chở mở đường máu mới thoát cùng vài vạn quân nhưng các tướng sừng sỏ của nhà giặc Thát Đát đều tử trận.
Trần Hưng Đạo ra lệnh:
-Chôn xác chết của giặc nhanh kẻo dân ta bị bệnh dịch do xác thối rữa, đồng thời đối xử tốt với tù binh, cho ăn uống tử tế và không được giết hại. Ai vi phạm xử theo quân pháp!
-Dạ.
Tin thắng trận ở chiến trường phía Bắc bay nhanh toàn quốc, quân dân vô cùng phấn khởi. Các đạo quân thủy bộ đang đánh địch ở mạn Đông Bắc vô cùng hứng khởi, gươm giáo tuốt khỏi vỏ, khí thế hừng hực, ai ai cũng muốn lập công. Nhưng tại Tổng hành dinh, Trần Hưng Đạo vẫn không an tâm về tốc độ tiến nhanh của Thủy quân Nguyên-Mông dù dọc đường bị ta chặn đánh, thiệt hại khá nặng nề. Sáng 8-4 đoàn chiến thuyền địch đã tiến vào sông Đạch Đằng. Binh thuyền dàn hàng ngang của ta đã trông thấy địch, địch cũng đã trông thấy chiến thuyền ta. Cờ xí hai bên trên chiến thuyền che rợp cả dòng sông. Tiến ra cửa Bạch Đằng bây giờ là con đường sống duy nhất của thủy binh Nguyên-Mông nên chúng rất hung hãn và liều lĩnh. Trần Hưng Đạo ra lệnh cho thủy binh ta tấn công mạnh hai bên sườn địch để hỗ trợ cho trận tuyến hàng ngang chặn trước mũi địch. Bây giờ mặt sông rộng nên Ô Mã Nhi cho dàn trận hình đầu bò tam giác mà mũi nhọn đi trước, ba cạnh là hai bên sườn đi dọc sông và cạnh khóa đuôi để chống quân ta tập kích và hỗ trợ cho nhau. Thế trận này tạo cho binh thuyền Nguyên -Mông tiến nhanh, chống đỡ có hiệu quả. Yết Kiêu bước lên nói:
-Tùy tướng xin ra trận, lặn xuống đục thuyền bắt sống Tích Lệ Cơ, thân vương của Nhà Nguyên, buộc chúng phải dừng lại tìm kiếm may ra giảm được tốc độ của chúng.
Quốc Công Tiết Chế đăm chiêu suy nghĩ và gật gù:
-Tướng quân đã thành công ở Lục Đầu Giang và ở mặt trận sông Giá, lần này mong tướng quân cũng thành công.
Yết Kiêu lại xuất trận. Chàng đầu chít khăn nâu, đóng khố nâu, sợi thừng quanh lưng vẫn cái đục, dùi đục to tướng và một con dao ngắn. Thời gian đã gần sang giờ ngọ, nước thủy triều đang lên nhanh, sông Bạch Đằng rộng mênh mông. Đoàn chiến thuyền quân Nguyên-Mông như con quái vật hung hãn dàn hình tam giác lao nhanh ra cửa sông. Nắng chói chang, sóng cuộn lên dữ dội. Yết Kiêu xác định vị trí chiến thuyền có lá cờ hiệu Thân Vương Mông Cổ, lao mình xuống sông lặn một hơi xuống đáy thuyền và đục. Thuyền của Tích Lệ Cơ bất ngờ chìm xuống rất nhanh. Nhìn thấy người ăn mặc sang trọng, cổ và tay đeo đầy vàng và ngọc, Yết Kiêu đoán là Tích Lệ Cơ, liền bắt lôi xuống đáy sông và lặn ra xa khỏi đoàn thuyền quân Nguyên –Mông trong khi lính bảo vệ trên thuyền còn bàng hoàng lo ngoi lên để thở. Tin giữ bay lại thuyền của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp:
-Dạ, Thân Vương Tích Lệ Cơ bị chìm thuyền và mất tích rồi ạ.
Ô Mã Nhi gầm lên:
-Kệ ông ấy, cứ tiếp tục hành quân!
Phàn Tiếp nói:
-Không được, ông ta là thân vương dòng dõi của Nguyên Thế Tổ, mất ông ta hoặc không thấy xác chúng ta về liệu có giữ được cái đầu không, thậm chí ba họ còn liên lụy máu chảy đâu rơi.
Ô mã Nhi bất lực gầm lên:
-Dừng lại tìm kiếm Vương Gia nhanh lên. Ai tìm thấy được thăng vượt cấp.
Đoàn binh thuyền quân Nguyên-Mông phải dừng lại, đội hình hành quân chiến đấu tản ra thành những chiến thuyền đi tìm kiếm khắp mặt sông. Ô Mã Nhi sai những tên lính lặn giỏi nhất lặn xuống sông tìm thân vương Tích Lệ Cơ mất tích. Quá lo lắng trách nhiệm để mất thân Vương, vì thế mải mê tìm kiếm, Ô Mã Nhi quên đứt đi mấu chốt sự sống của đoàn binh thuyền là thời gian và con nước triều cường. Không biết đã qua bao nhiêu canh giờ. Đến lúc Phàn Tiếp và Ô Mã Nhi nhận thấy chiến thuyền không cần chèo nhưng tự động trôi về phía đông ngày một nhanh và không còn đội hình chiến đấu nữa. Thì ra nước thủy triều đã bắt đầu rút xuống. Bóng tối đã tràn ngập khắp không gian. Chiến thuyền quân Nguyên-Mông bây giờ đã trong tầm của các mũi tên của đoàn binh thuyền Đại Việt dàn hàng ngang. Tên dội như mưa, tên trúng vào ngực, vào lưng, vào mông, vào mặt, hàng nghìn thủy binh lăn xuống nước hoặc gục chết trên các chiến thuyền. Hàng trăm chiến thuyền quân Nguyên-Mông to lớn đồ sộ lao vào các chiến thuyền Đại Việt. Các chiến thuyền Đại Việt tản ra hai bên mở đường cho quân Nguyên- Mông tháo chạy. Khi mở được đường máu ra đến cửa sông thì cũng là lúc thủy triều rút ào ạt. Những mái chèo của thuyền không làm chủ được tốc độ nữa. Hàng chục thuyền chiến bị cọc xuyên qua như bị đóng đinh xoay vòng quanh tại chỗ, ngăn cản hàng trăm chiếc thuyền dồn nén lại dày đặc, vướng nhau hỗn lọan.
Đang khi đó quân Nguyên Mông vô cùng kinh hãi, từ phía sau chúng ở phía tây dòng sông, hàng trăm bè chứa chất cháy của Đại Việt đang cháy rừng rực theo thủy triều lao về khu vực chiến thuyền quân Nguyên-Mông. Chiến thuyền quân Nguyên -Mông bốc cháy lan từ thuyền này sang thuyền khác. Suốt 4 dặm vuông của cửa sông Bạch Đằng biến thành một bãi lửa vàng rực, bốc cao, lửa thèm khát liếm tất cả các vật mà nó gặp. Lính nguyên –Mông cũng biến thành những bó đuốc cháy đen thui và lềnh bềnh kín đặc mặt sông. Những tên sống sót nhảy xuống nước chạy vào bờ bị quân Đại Việt bắt. Lửa bốc cao đen mù trời đất. Phàn Tiếp nhìn đoàn binh thuyền mà Nguyên Thế Tổ dày công chuẩn bị đang biến thành gio, chìm dân xuống nước, 4 vạn mạng con người bị nướng trong lửa. Phàn Tiếp than:
-Trời ôi, trận hóa công thủy chiến kinh khủng thế này ta chỉ thấy ở Xích Bích trong sách Tam quốc, không ngờ ngày nay ta gặp cảnh ngộ này.
Khi những đám cháy đã dịu đi thì từ trong các cù lao binh thuyền nhỏ của Đại Việt lao ra. Quân Nguyên-Mông bị những trận mưa tên và sau đó là những trận giáp lá cà giết nốt những tên còn lại chưa chịu đầu hàng. Phàn Tiếp nhảy xuống sông tự vẫn nhưng bị một lưỡi câu liêm của quân Đại Việt móc lên bắt sống. Yết Kiêu nhảy lên chiếc lâu thuyền sang trọng Tổng chỉ huy vì ở giữa nên lửa chưa bén tới. Ô Mã Nhi cầm kiếm lao vào Yết Kiêu. Yết Kiêu né tránh và ôm lấy hắn cùng nhảy xuống nước. Dù khỏe mạnh nhưng xuống nước Ô Mã Nhi không chịu nổi đã ngạt thở và chết giấc. Yết Kiêu trói hắn lại và lôi vào bờ.
Trời đã về chiều. Bạch Đằng Giang suốt một ngày quyết chiến, lửa cháy tên bay, trống chiêng vang lừng bây giờ gần như yên tĩnh. Yết Kiêu nhìn dòng sông, sóng vẫn cuộn lên nhưng màu nước đỏ hồng. Yết Kiêu biết đó là màu máu của 4 vạn quân Nguyên-Mông trong ngày đền tội. Gió và sóng đang hát bài ca chiến thắng oanh liệt của dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm thế kỷ XIII.
Trong khúc ca khải hoàn chiến thắng, Yết Kiêu do có công lớn trong đặc công thủy chiến nên được triều đình phong: ”Trần triều Hữu tướng đệ nhất bộ đô soái thủy quân”. Tước Hầu.
(Còn nữa)
CVL