Bác về - Mùa xuân về với dân tộc

Khi rời bến cảng Nhà Rồng ở Sài Gòn ngày 5-6-1911, bước chân lên tàu Amiral Latouche Tréville, bắt đầu cuộc hành trình, Bác Hồ với tên gọi Nguyễn Tất Thành, Văn Ba mới 21 tuổi.

Ngày trở về, Bác Hồ đã 51 tuổi. Người đã trải qua biết bao gian nan, khó nhọc trong cuộc đời cần lao tranh đấu, vượt qua những thử thách hiểm nghèo giữa vòng vây của kẻ thù - bọn đế quốc thực dân - để giữ vững niềm tin vào lý tưởng cách mạng. Người đã trọn đời dấn thân và dâng hiến cho dân, cho nước vì độc lập của Tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh phúc của Nhân dân. Khi Bác về, thời tiết đã vào xuân. Bác về, mùa xuân về với dân tộc. Ngày 28-1-1941, Bác Hồ về tới Pác Bó, Cao Bằng, sau cuộc hành trình 30 năm tìm đường cứu nước, cứu dân để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đó là ngày mùng 2 tết, đầu Xuân Tân Tỵ, cách đây đã 80 năm

bac-ho-1644204757.jpg
Ảnh do tác giả lựa chọn

 

Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết những dòng thơ xúc động, hồi tưởng ngày Bác về nước:

...“Nở trắng hoa kim anh trên biên giới, Bác về

Xa nước ba mươi năm một câu Kiều Người vẫn nhớ

Mái tóc Bác đã phai màu quá nửa

Lòng son ngời như buổi mới ra đi”...

Giờ phút đầu tiên đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, nơi địa đầu Tổ quốc, siết bao cảm động đối với người con đã bao năm xa nước. Phút giây đó, sau này được Người kể lại: “Xa rời Tổ quốc đã 30 năm. Đã mất bao nhiêu thời giờ và sức lực tìm liên lạc mà không được. Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động". Hang Cốc Bó, tiếng Nùng là đầu nguồn, một hang núi kín đáo ở thôn Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng (Cao Bằng), sát biên giới Việt - Trung được Người chọn làm nơi đứng chân đầu tiên. Người bắt đầu sống và làm việc tại hang này từ ngày 8-2-1941. Lúc này Người có tên gọi mới là Già Thu, với bộ quần áo chàm giản dị của người Nùng. Sống trong hang núi, đồ đạc của Người không có gì, ngoài chiếc va li mây đựng tài liệu, cái máy chữ thân thiết và chiếc sàn nằm ghép lại bằng những cành cây nhỏ, trên trải một tấm phên. Cuộc sống của Người những ngày ở Pác Bó thật gian khổ. Khí hậu trong hang ẩm ướt, mùa đông gió lùa tê buốt mà Người chỉ có một tấm chăn mỏng, phải dùng lá khô lót chỗ nằm, có khi phải đốt lửa suốt đêm. Bữa ăn hàng ngày thường rất đạm bạc: rau rừng, ốc suối, cháo bẹ rau măng, thỉnh thoảng mới có một ít thịt kho mặn với muối ớt.

Sống thiếu thốn, gian khổ là vậy nhưng Người vẫn ung dung, thanh thản, tràn đầy một tinh thần lạc quan cách mạng, trong tình thương yêu, đùm bọc, che chở của đồng bào. Người đặt tên núi Các Mác, suối Lê Nin, hàng ngày làm việc bền bỉ, lo nghĩ những việc lớn cho dân, cho nước khi tình thế cách mạng đang đến gần. Bàn làm việc của Người chỉ là một tảng đá bằng phẳng bên bờ suối. Người tự tay đánh máy tài liệu, dịch tóm tắt lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô để tuyên truyền và huấn luyện cán bộ. Người gieo những hạt giống trên mảnh đất đầu nguồn - cái nôi của cách mạng. Người gây dựng lực lượng từ Nhân dân. Người nhen lửa sáng cho phong trào để từ những ánh lửa đầu tiên mà tỏa sáng cả chân trời cách mạng. Ta hãy cùng nhau đọc lại những vần thơ Người viết trong những ngày chuẩn bị khởi sự cách mạng:

... “Non xa xa, nước xa xa

Nào phải thênh thang mới gọi là

Đây suối Lênin, kia núi Mác

Hai tay xây dựng một sơn hà”.

Bác Hồ muôn vàn kính yêu của mỗi chúng ta không chỉ là nhà tư tưởng thiên tài, lãnh tụ có “tầm mắt đại dương” (Chế Lan Viên) mà còn là nhà thơ có “tâm hồn lộng gió thời đại” (Phạm Văn Đồng). Người đã kể cho chúng ta nghe bằng thơ về cuộc sống và làm việc của Người những ngày đầu tiên khi về tới Pác Bó:

...“Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thực là sang” .

Cuối tháng 3-1941, Người rời Pác Bó qua Khuổi Nậm, việc đi lại sẽ dễ dàng hơn, nếu có động, thoát cũng nhanh chóng hơn. Để chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ tám, theo đề nghị của Người, vào cuối tháng 4-1941, một cuộc hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng được triệu tập để tổng kết kinh nghiệm về việc tổ chức thí điểm các hội quần chúng của Việt Minh trong tỉnh nhằm tiến tới thành lập Mặt trận Việt Minh trong toàn quốc 6. Đây là một trong những nội dung quan trọng sẽ được thảo luận và quyết định tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám vào tháng 5-1941.

Tại một cái lán nhỏ bên dòng Khuổi Nậm (Pác Bó), Hội nghị Trung ương tám của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp từ ngày 10-5 đến ngày 19-5-1941. Tham dự hội nghị có tầm quan trọng đặc biệt này có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên và một số đại biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ cùng đại biểu hoạt động ở ngoài nước, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Quốc tế Cộng sản.

Hội nghị Trung ương lần thứ tám quyết định chuyển hướng chiến lược, xác định tính chất của cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và đường lối cách mạng là “đánh đuổi Pháp - Nhật làm cho xứ Đông Dương độc lập”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương tám nêu rõ: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia - dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Theo sáng kiến của Người, Hội nghị Trung ương tám quyết định thành lập mặt trận trong khuôn khổ từng dân tộc. Mặt trận “Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt là “Việt Minh” ra đời, cùng với tờ báo “Việt Lập” do Người chỉ đạo vào đúng ngày bế mạc hội nghị, cũng là kỷ niệm sinh nhật Người, ngày 19-5-1941. Mọi tổ chức, đoàn thể của Việt Minh đều có tên là “Cứu quốc”, từ công nhân, nông dân, phụ lão, phụ nữ, thanh niên, nhi đồng. Cứu quốc là tiêu điểm của phong trào cách mạng lúc này, là quan tâm hàng đầu trong lãnh đạo của Đảng.

Để kiện toàn tổ chức và cơ quan lãnh đạo của Đảng, theo đề nghị của Người, Trung ương đã bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Về vấn đề chính quyền, Hội nghị Trung ương xác định chính quyền đó là “toàn thể Nhân dân liên hiệp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”.

Về vấn đề khởi nghĩa vũ trang, Đảng ta nhận định rằng, với lực lượng sẵn có, khi tình thế, thời cơ chín muồi, có thể lãnh đạo khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, giành thắng lợi, mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn trong toàn quốc. Do đó, Đảng phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và tăng cường công tác dân vận, vận động, giáo dục quần chúng, cả công vận, nông vận và binh vận. Đó là những việc cấp bách, không thể chậm trễ.

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám, ngày 6-6-1941, Nguyễn Ái Quốc viết thư “Kính cáo đồng bào” gửi tới các tầng lớp Nhân dân cả nước, nhấn mạnh rằng, “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sâu lửa nóng”. Người kêu gọi các chiến sĩ cách mạng “Giờ giải phóng đã đến. Hãy phất cao cờ độc lập, lãnh đạo toàn dân, đánh tan thù chung” (9). Cũng trong năm 1941, Người còn viết “Lịch sử nước ta” bằng hình thức diễn ca:

“Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.

Diễn ca khêu gợi lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống vẻ vang, bất khuất của dân tộc trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước nhằm cổ vũ, khích lệ toàn thể quốc dân đồng bào đoàn kết, chiến đấu, giành độc lập tự do, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Với sự nhạy cảm, sáng suốt của một thiên tài, ở cuối tác phẩm này, Người còn dự báo, 1945 Việt Nam độc lập. Thực tế lịch sử với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, 1945 đã xác nhận dự báo của Người là hoàn toàn chính xác. Từ tháng 8-1942, Người lấy tên là Hồ Chí Minh khi bí mật sang Trung Quốc tìm cách phối hợp các lực lượng cách mạng trong nước với quốc tế...

Đó là những sự kiện, những dấu mốc tiêu biểu trong khoảng thời gian đặc biệt từ khi Người về nước đến khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời do Người khai sinh với bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, áng thiên cổ hùng văn trong thời đại Hồ Chí Minh. Mùa xuân về với dân tộc từ thời khắc mùa xuân Người về nước là vì vậy.

Thời gian càng lùi xa, tầm vóc lịch sử và những cống hiến vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với Đảng, dân tộc và Nhân dân ta cũng như với phong trào cách mạng thế giới càng trở nên tỏa sáng rạng rỡ. Cuộc đời và sự nghiệp của Người, từ tìm đường, chọn đường, nhận đường, Người đã trở thành người dẫn đường cho dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì Độc lập - Tự do, trong sự phấn đấu không ngừng vì Hạnh phúc của Nhân dân.

Ngày nay, dưới ngọn cờ Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta - Đảng do chính Người sáng lập và rèn luyện, đang lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện khát vọng phát triển - đất nước phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc cường thịnh, trường tồn. Đó cũng là khát vọng, ham muốn, ham muốn tột bậc, là tâm nguyện thiêng liêng, là lẽ sống cao thượng của Người lúc sinh thời. Hồ Chí Minh, Người không chỉ mở đường, dẫn lối cho chúng ta đi tới tương lai sán lạn mà còn là người truyền cảm hứng vĩ đại cho mọi thế hệ người Việt Nam, vững tin ở sức mình, ở sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ở sức sáng tạo vô tận của Nhân dân để nêu cao khát vọng cống hiến, biến khát vọng phát triển thành hiện thực cụ thể, sinh động của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đó là chân giá trị của phát triển, là sức sống mùa xuân của dân tộc, là hoa mùa xuân mãi mãi tỏa hương trong tâm hồn Việt Nam, trong sự bất tử của Hồ Chí Minh - hình ảnh của dân tộc, tinh hoa, khí phách của dân tộc và thời đại.

Trái tim người lính