Nửa thế kỷ trôi qua, dù đôi mắt chỉ còn phân biệt được sáng - tối, ông vẫn ngồi bên giá vẽ mỗi ngày, miệt mài sáng tác như chưa từng biết đến nỗi đau hay bóng tối. Ở tuổi 78, trong căn nhà nhỏ trên phố Đông Thiên, phường Vĩnh Hưng (Hà Nội), người thương binh ấy vẫn viết tiếp hành trình sống và sáng tạo bằng tất cả ánh sáng còn lại trong tim.
Phóng viên Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển có cuộc trò chuyện với Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, họa sĩ Lê Duy Ứng - người truyền cảm hứng mạnh mẽ cho thế hệ trẻ hôm nay về lý tưởng sống, sự hy sinh và miệt mài lao động sáng tạo.
PV: Thưa Đại tá, điều gì đã thôi thúc ông bắt đầu với đam mê hội họa của mình?
Đại tá, họa sĩ Lê Duy Ứng: Tôi yêu hội họa cũng xuất phát từ đam mê của cha mình. Cha tôi là Lê Yến, sinh năm 1923. Năm 1947, cha tôi đi bộ đội, hai năm sau được kết nạp Đảng. Năm 1958, cha tôi xuất ngũ về quê làm Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã Nam Hiền, xã Hiền Ninh. Một năm sau, ông được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Văn hóa – Xã hội huyện Quảng Ninh. Nhờ có năng khiếu hội họa, năm 1962, cha tôi chuyển sang làm phóng viên, họa sĩ Báo Quảng Bình. Mẹ tôi là Nguyễn Thị Chai, sinh năm 1925, từng là xã viên “hai giỏi”: chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi.
PV: Tuổi thơ của ông gắn bó như thế nào với hội họa? Ông có thể chia sẻ kỷ niệm đầu tiên khiến mình yêu thích và theo đuổi con đường này không?
Đại tá, họa sĩ Lê Duy Ứng: Năm 1959, khi đang học lớp 4, được sự dẫn dắt của thầy Bùi Đình Sơn, tôi đã tập hợp bộ tranh mang tên “Xấu nên tránh, tốt nên làm” để tham gia phòng triển lãm tranh tại các xã Hiền Ninh, Xuân Ninh… thuộc huyện Quảng Ninh. Năm 1961, tôi vẽ bức tranh “Cấy đêm” đi dự thi tranh toàn tỉnh Quảng Bình và đoạt giải Nhất. Để thỏa mãn niềm đam mê với hội họa, năm 1967, tôi thi vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam thuộc Bộ Văn hóa (nay là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và may mắn trở thành sinh viên của trường.
PV: Thưa Đại tá, ký ức nào còn đọng lại trong ông về những ngày đầu rời Hà Nội, khoác ba lô lên đường nhập ngũ?
Đại tá, họa sĩ Lê Duy Ứng: Tháng 9-1971, tôi thuộc quân số của Quân đội Hoàn Kiếm (Hà Nội), bổ sung vào Sư đoàn 325, Quân đoàn 2 (nay là Quân đoàn 12). Sau ba tháng huấn luyện chiến sĩ mới, cấp trên thấy tôi có khả năng vẽ bản đồ, đắp sa bàn… nên điều về làm chiến sĩ trinh sát Đại đội 7, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 101. Mấy tháng sau đó, tôi được giao nhiệm vụ làm Mũi phó trinh sát thuộc Đại đội Trinh sát 20, Trung đoàn 101.
Tháng 3-1972, đơn vị chúng tôi hành quân tập kết tại thôn Tả Kiên, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thời điểm đó, tôi là trợ lý văn hóa của Trung đoàn 101, có nhiệm vụ vẽ tranh tuyên truyền cổ động, tranh ký họa, viết bản tin… Với nhiều thành tích xuất sắc, tháng 7-1972, tôi được cấp trên phong quân hàm Chuẩn úy. Ngày 23-8-1972, tôi vinh dự được kết nạp Đảng tại chiến hào Đông Bắc, Thành cổ Quảng Trị.
Thời gian ở chiến trường Quảng Trị, tôi gặp gì vẽ nấy như: bộ đội chiến đấu, quân ta bắt tù binh, cứu chữa thương binh, cảnh bộ đội sinh hoạt, giúp đỡ nhân dân… được khoảng 500 bức tranh để lưu lại phòng truyền thống đơn vị. Đặc biệt, bức tranh “Đưa cơm ra chốt” và nhiều bức tranh, ký họa chiến trường của tôi ngày ấy đã đăng trên Báo Quân đội nhân dân, Báo Quân giải phóng…
PV: Trong quãng thời gian tham gia chiến dịch, có kỷ niệm nào ông cảm thấy nhớ nhất?
Đại tá, họa sĩ Lê Duy Ứng: Tôi tự hào mình là một nghệ sĩ, một chứng nhân lịch sử trong mỗi giai đoạn nhất định. Vì tôi theo đoàn quân thần tốc, tiến từ Huế – Đà Nẵng – Phan Rang – Phan Thiết rồi tiến vào Sài Gòn trong Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975, rất vinh dự được tham gia chiến dịch cuối cùng mang tên Bác Hồ vĩ đại – Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Kỷ niệm của tôi là khi ngồi trên chiếc xe tăng, vừa quay phim, vừa chụp hình, vừa ký họa, ghi lại hình ảnh bộ đội chiến đấu. Có một hình ảnh tôi không bao giờ quên được, đó là hình ảnh bộ đội xung phong. Giữa làn đạn địch bắn rất điên cuồng, xung quanh là khói mù mịt, một chiến sĩ cầm lá cờ xông lên trước mũi súng quân thù và bị trọng thương, hoặc có thể đã hy sinh mà tôi không biết. Tôi ở trên sàn xe tăng, thấy anh ngã xuống. Một chiến sĩ phía sau chạy lên, giật lấy lá cờ trong tay người bạn vừa ngã đó để lá cờ Tổ quốc không rơi xuống đất. Đó là hình tượng khiến tôi vô cùng xúc động.
Sau này, trong trang nhật ký đầu tiên, tôi đã ghi: “Vinh quang thay những người dám hy sinh trước thềm thắng lợi”. Vì biết ngày mai là ngày thắng lợi rồi, chắc chắn như vậy, nhưng vẫn hô lên “Xung phong, xung phong”. Cứ người này ngã xuống thì người sau lại tiếp tục vươn lên, xốc tới, dùng súng bắn vào căn cứ của địch.
Khi nghĩ lại những chiến sĩ đã ngã xuống, tôi cảm thấy mình phải vươn lên nữa, phải phấn đấu, phải tri ân những người vì sự nghiệp dân tộc.
PV: Trong những ngày cuối cùng của chiến dịch giải phóng miền Nam, có kỷ niệm nào mãi mãi khắc sâu trong tâm trí ông như một khoảnh khắc giữa ranh giới sự sống và cái chết?
Đại tá, họa sĩ Lê Duy Ứng: Đêm 27 và rạng sáng 28-4-1975, khi tôi đang tác nghiệp trên xe tăng 847, một quả đạn chống tăng nổ làm đứt xích bên phải xe tăng. Sau tiếng nổ, tôi ngất đi không biết gì. Khi tỉnh lại, tôi sờ tay lên mặt, thấy đôi mắt mình lồi ra, máu chảy rất nhiều nhưng vẫn còn tỉnh táo.
Trong thời khắc sinh tử, đầu tôi lóe lên ý nghĩ là vẽ chân dung Bác Hồ. Và ngay lập tức, tôi rút chiếc cặp vẽ mang theo bên mình, lấy một tờ giấy rô-ki và ký họa ngay trên xe tăng, bên cạnh một chiến sĩ đã hy sinh. Tôi lấy tay chấm máu từ đôi mắt của mình để vẽ chân dung Bác Hồ, cờ Tổ quốc, cờ Đảng bay phấp phới. Vẽ xong, tôi ghi lại dòng chữ: “Ánh sáng niềm tin! Con nguyện dâng Người tuổi thanh xuân” rồi ký tên. Sau đó, tôi gấp cẩn thận, bỏ vào túi ngực bên trái, rồi ngất đi một lần nữa…
PV: Ngay cả khi đôi mắt mất đi ánh sáng, ông vẫn sáng tác. Thật khó để tưởng tượng một họa sĩ không nhìn được nữa sẽ sáng tác như thế nào, thưa ông?
Đại tá, họa sĩ Lê Duy Ứng: Tất cả đều nhờ lòng đam mê. Bác Hồ từng tới thăm Trường Âm nhạc Việt Nam và nói: “Chú có biết chìa khóa để mở cánh cửa thành công là gì không? Đó chính là sự đam mê, đam mê sẽ dẫn đến thành công”. Tôi học được ở Bác Hồ điều đó.
Công việc gì mình đam mê thì mới có thể thành công. Ngành điện ảnh, truyền hình cũng vậy, nếu đam mê hời hợt thì không thể đi đến cùng. Chính đam mê ấy đã giúp tôi có nhiều tác phẩm về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân – đề tài xuyên suốt, cùng với đề tài về các vị lãnh tụ như: Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Các Mác, Lê-nin…
Có những cuộc giao lưu, khi tôi lên sân khấu, họ yêu cầu tôi vẽ chân dung Đức Thái Tổ Lê Lợi, tôi vẫn vẽ được. Ở Việt Nam có hai nhân vật được phong Anh hùng giải phóng dân tộc là Lê Lợi và Bác Hồ. Tôi vẽ chân dung Lê-nin, Bác Hồ cùng những lời răn dạy của Người. Câu nói tôi tâm đắc nhất của Bác Hồ là: “Thương binh tàn nhưng không phế”.
PV: Đất nước đã trải qua Đại lễ 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhớ lại những ngày tháng ấy, ông có cảm xúc như thế nào?
Đại tá, họa sĩ Lê Duy Ứng: Ngày đó tôi bị thương rất nặng, đang nằm điều trị tại Phan Thiết. Xung quanh tôi là rất nhiều thương binh. Có người mắt còn sáng, bị thương ở phần khác, còn tôi thì băng bó kín cả hai mắt. Khi nghe tiếng reo vang: “Sài Gòn giải phóng rồi!”, các bác sĩ quân y và mọi người đều ùa ra sân reo hò, xúc động vô cùng.
Giây phút đó tôi vui mừng lắm, nhưng cũng buồn vì mình là họa sĩ mà hai mắt lại không còn thấy gì. Trong hai hốc mắt bị băng chặt, tự dưng nước mắt trào ra. Tôi nghĩ, giá mà hai mắt mình không bị thương, có lẽ tôi đang ở trong Sài Gòn, đi khắp nơi để chụp ảnh, quay phim, ký họa hình ảnh người dân đón chào ngày giải phóng.
Đồng chí Lê Khả Phiêu giao cho tôi nhiệm vụ đến Trường Mỹ thuật ở Sài Gòn, tìm đồ họa để vẽ bức tranh chân dung Bác Hồ vẫy tay chào nhân dân Sài Gòn trong ngày đại thắng. Giấy giới thiệu của đồng chí Lê Khả Phiêu vẫn nằm trong túi tôi và sau này tôi vẫn còn giữ được. Tôi đau đáu nhớ về nhiệm vụ ấy, nhưng đôi mắt không còn nữa, nên buồn lắm. Vui vì đất nước được giải phóng, nhưng buồn vì mình là họa sĩ mà không thể nhìn thấy.
Chiến tranh là điều không ai mong muốn. Chúng tôi là những người trực tiếp sống trong bom rơi đạn nổ nên giây phút hòa bình vô cùng xúc động. Lịch sử ghi nhận đây là mốc son chói lọi: năm 1954 chiến thắng Điện Biên Phủ và năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Cho đến hôm nay, tôi vẫn luôn đau đáu, luôn muốn làm điều gì đó để ngày giải phóng được lưu truyền mãi mãi trong nhân dân. Vì thế, tôi sáng tác nhiều tác phẩm nghệ thuật, bởi tôi tin rằng những tác phẩm ấy có thể để đời. Dù sau này tôi có mất đi, nhưng những tác phẩm đó sẽ còn mãi cho con cháu mai sau, để nhớ về giờ khắc lịch sử thiêng liêng ấy.
PV: Hôm nay, để gửi gắm một thông điệp sống tới thế hệ trẻ, ông muốn chia sẻ điều gì?
Đại tá, họa sĩ Lê Duy Ứng: Khi đi giao lưu ở các trường học hay đơn vị, tôi luôn nhắn nhủ rằng sức khỏe là quan trọng nhất. Người ta thường chúc nhau sức khỏe, và càng lớn tuổi như tôi càng thấy điều đó quý giá. Thông điệp tôi gửi gắm là: “Sức khỏe dẻo dai – Rèn đức luyện tài – Miệt mài học tập – Vươn tới đỉnh cao khoa học kỹ thuật”.
Đây là thời đại 4.0, thế hệ trẻ phải học tập, chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức. Con người cần có cả tài lẫn đức. Bác Hồ từng dạy: “Trời có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Thiếu một mùa thì không thành trời. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Thiếu một phương thì không thành đất. Con người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một đức thì không thành người”. Vì vậy, phải rèn luyện để có tài đức vẹn toàn, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác hằng mong muốn.