Ở khúc ruột miền Trung, hồi ký hiệp định Giơ-ne-vơ, tỉnh Quảng Trị từng nổi tiếng thế giới bởi dòng sông Bến Hải và cây cầu Hiền Lương, nơi có vĩ tuyến mười bảy được lấy làm giới tuyến tạm thời, rồi chia cắt đất nước thành hai miền Bắc - Nam. Rồi đến hồi ký hiệp định Paris, Quảng Trị lại một lần nữa được cả thế giới biết đến bởi chiến sự tám mươi mốt ngày đêm ở Thành cổ và dòng sông Thạch Hãn.
Thực ra, chẳng ai muốn nổi tiếng theo cách này nhưng trớ trêu thay bi kịch của dân tộc đã đưa đẩy thành số phận của hai dòng sông nơi đây trở nên “nổi tiếng”. Bởi thế, dù không hùng vĩ như sông Hồng, sông Đà ở miền Bắc hay sông Cửu Long, sông Đồng Nai ở miền Nam thì hai dòng sông định mệnh của miền Trung trên đất Quảng Trị này vẫn mãi được mọi người nhớ mãi, khắc ghi với tư cách là những dòng sông lịch sử. Một dòng sông gắn liền với bi kịch bị đất nước chia cắt thành đôi miền và một dòng sông linh thiêng gắn liền với khúc tráng ca Thành cổ.
Bắt đầu là Bến Hải, dòng sông được coi là nhân chứng lịch sử, từng mang trên mình nỗi đau chia cắt của hai miền Nam - Bắc trong suốt hai mươi mốt năm ròng rã, từ năm 1954 đến năm 1975. Khởi nguồn từ đỉnh Động Chân trên dãy Trường Sơn hùng vĩ, dòng sông chảy từ phía Tây sang phía Đông.
Trên hành trình ấy nó băng mình vượt thác qua những cánh rừng đại ngàn, theo dọc vĩ tuyến mười bảy, đi vào vùng đồng bằng của hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh để đem nước ra biển Đông qua cửa Tùng. Tính từ mỏm Bò Ho (núi Động Chân) đến khi ra biển, dòng sông Bến Hải dài khoảng chừng một trăm cây số. Bình thường như thế sông Bến Hải chắc chẳng có gì đặc biệt, nổi trội hơn hẳn những dòng sông khác ở miền Trung để trở thành nổi tiếng, khiến người ta phải chú ý. Và bình thường như vậy, nó cũng chỉ đơn giản, giống như mọi dòng sông khác với vai trò là cung cấp thủy sản hay nguồn nước mát lành cho những cánh đồng bên đôi bờ mà nó đi qua.
Nhưng không, do nằm bên vĩ tuyến mười bảy, trớ trêu thay, Hiệp định Giơ-ne-vơ, ngày 20 tháng 7 năm 1954, người ta lại lấy vĩ tuyến mười bảy, theo dọc dòng sông để làm ranh giới quân sự tạm thời và hẹn rằng, sau hai năm, hai miền Bắc - Nam sẽ hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng thực tế đã không diễn ra như những lời ước hẹn.
Đế quốc Mỹ và chính quyền họ Ngô cùng bọn tay sai sau này đã âm mưu biến miền Nam thành một quốc gia độc lập, chia rẽ vĩnh viễn hai miền Bắc – Nam, đi ngược lại với khát vọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân cả nước. Vì vậy, từ chỗ chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời, sông Bến Hải bất đắc dĩ trở thành con sông chia cắt, dòng sông chia ly. Định mệnh lịch sử khắc nghiệt ấy, vô tình đã làm dòng sông trở nên nổi tiếng và trở thành một nơi chứng kiến những nỗi đau xa cách của dân tộc trong suốt những năm trường đánh đuổi Mỹ - Ngụy cứu nước.
Lẽ tự nhiên, sông nào chẳng có đôi bờ nhưng thời ấy sông Bến Hải chỉ có “một bờ” bởi người ta đã cố tình chia đôi dòng Bến Hải. Từ bên này bờ Bắc sang bên kia bờ Nam, dòng sông ước chừng chỉ gần hai trăm mét nhưng sao ngày ấy nó dài thăm thẳm với bao nhung nhớ: “Cách nhau chỉ một mái chèo/ Mà đi trăm núi vạn đèo đến đây” (Thanh Hải); “Cách một dòng sông mà đó thương, đây nhớ/ Chung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa” (Vân Khánh). Người bên này sông nhìn về bên kia cũng như người bên kia sông trông sang bên này lòng nào chẳng bao thương nhớ: “Hiền Lương một lạch hai dòng/Người tuy bên nớ mà lòng bên ni”. Nỗi thương nhớ trào dâng, bên bờ Bắc tổ chức văn nghệ cho bên bờ Nam xem.
Người bên bờ Nam bất chấp lưỡi lê, dùi cui, báng súng, đạn bom tàn bạo của kẻ thù rủ nhau ra đứng chật kín bên sông và tìm mọi cách để xem được điệu múa, nghe được tiếng ca của đồng bào bờ Bắc gửi đến. Mỹ - Ngụy càng cấm thì họ càng xem. Dân làng bên sông còn dỡ mái nhà lấy cớ lợp lại để leo lên nhìn cho rõ. Các mẹ, các chị ngày ngày mang áo, mang lưới ra sông để phơi, để giặt; tay làm mà mắt nhìn đẫm lệ: “Đem áo ra sông mà giặt - Áo mòn, dạ vẫn trinh nguyên/ Đem lưới xuống bến mà phơi - Lưới khô, mắt thì đẫm huyết”.
Chuyện của bờ Bắc cũng là chuyện của bờ Nam. Mỗi khi có người qua đời người ta đội khăn tang và hai tay úp vào mặt ra đứng bên sông để báo cho người bên kia được biết. Và rồi, một đám tang mà có tới bốn đoàn đưa tiễn. Một đoàn ở bên bờ Bắc, một đoàn ở bên bờ Nam và bóng của mỗi đoàn in xuống dòng nước Bến Hải làm thành bốn đoàn đưa đám.
Cảnh sống nghĩa tình sâu lặng “ngày Bắc đêm Nam” của đồng bào hai bên bờ Bến Hải trong suốt hai mươi mốt năm đằng đẵng tăm tối ấy bây giờ ta vẫn còn được nghe trong câu hò chất chứa nỗi niềm của nhạc sĩ Hoàng Hiệp: “Bên ven bờ Hiền Lương chiều nay ra đứng trông về/ Mắt đượm tình quê, đôi mắt đượm tình quê/ … Hò ơi, ơi thuyền ơi, thuyền ơi có nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền/ Nhắn ai gìn giữ câu nguyền trong cơn bão tố/ Vững bền lòng son” (Câu hò bên bờ Hiền Lương). Cũng bởi cái nghĩa tình như thế mà nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Gươm nào chém được dòng Bến Hải?/ Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn?” (Ba mươi năm đời ta có Đảng).
Bên bờ sông giới tuyến gian khổ mà anh dũng ngày ấy còn có những bến đò huyền thoại và trở thành biểu tượng cho khát vọng thống nhất non sông. Còn nhớ, sau năm 1958, với kế hoạch “Lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến”, đưa “Vĩnh Linh trở về thời kỳ đồ đá”; Mỹ - Diệm điên cuồng càn quét làm cho tất cả con đường đi qua vùng giới tuyến phải chấm dứt các hoạt động công khai. Thay cho những con đường từng chuyển quân, chuyển vũ khí và lương thực vào Nam qua sông Bến Hải là những bến đò với những con thuyền bí mật vượt sông hằng đêm.
Hồi ấy, bờ Bắc dòng Bến Hải nổi tiếng bị đánh phá ác liệt là những bến đò Thượng Đông, Dục Đức, Cửa Tùng, Bến Lũy, đặc biệt là bến Tùng Luật. Đồng bào Vĩnh Linh hiền lành nhưng bất khất, kiên trung. Ban ngày họ là những nông dân tay, cày tay cuốc trên những cánh đồng nhưng ban đêm lại hóa thành những đoàn dân quân, du kích tay chèo, tay lái lặng lẽ đưa bộ đội, tải đạn, tải lương vượt sông sang bờ Nam đánh giặc mà sẵn sàng bất chấp đạn bom của giặc Mỹ đang cày xới đêm ngày.
Bến đò Tùng Luật, chỉ tính riêng mấy năm, từ năm 1968 đến năm 1973, đã có hơn bảy mươi tám ngàn chuyến đò qua lại để chuyên chở hơn một triệu rưỡi lượt bộ đội và gần bốn trăm ngàn lượt dân công cùng gần hai vạn người dân Quảng Trị vừa được giải phóng sơ tán ra Vĩnh Linh. Ngày cao điểm, bến đò này đã thực hiện gần một trăm năm mươi chuyến với hơn hai mươi mốt ngàn người và hàng tấn vũ khí.
Có lẽ vì đặc biệt nổi tiếng như vậy mà bến đò Tùng Luật đã trở thành mục tiêu đánh phá quyết liệt của Mỹ - Ngụy. Trên một diện tích chưa đến một ngàn năm trăm mét vuông mà kẻ thù đã huy động hơn một ngàn hai trăm lần tốp máy bay phản lực với trên ba ngàn hai trăm lần ném bom, bảy lần dùng B.52 rải thảm, ba lần dùng chất độc hóa học phát quang, hơn một ngàn năm trăm lần pháo kích từ Cồn Tiên, Dốc Miếu, Hạm đội bảy với hơn mười hai ngàn quả bom và trên bảy trăm ngàn đạn pháo các loại.
Dòng sông Bến Hải thường ngày nước trong xanh mát nhưng cũng có khi kẻ thù biến thành dòng sông máu và nước mắt. Lịch sử bên dòng sông còn khắc ghi ở Bến Rèn, ngày 20 tháng 5 năm 1967, giặc Mỹ đi càn đã xả súng sát hại hàng chục đồng bào bờ Nam khi chạy sang bờ Bắc. Đặc biệt, vẫn còn đó, cách bến đò Cửa Tùng không xa là di tích mang tên Mộ 61, một nấm mồ chung của ba trăm bốn mươi lăm cán bộ, chiến sĩ, đồng bào xã Vinh Quang; trong đó ngày 20 tháng 6 năm 1967, giặc Mỹ đã ném bom giết hại sáu mươi mốt người, gồm mười hai cụ già, mười ba phụ nữ (có ba người đang mang thai) và ba mươi sáu trẻ em.
Thế đấy, lịch sử dòng sông, bên cạnh nhưng trang hào hùng còn có cả những trang cũng rất bi thương! Và trên dòng sông hào hùng và bi thương ấy còn có một cây cầu cũng được xem là chứng nhân trên dòng sông huyền thoại. Đó là cây cầu Hiền Lương, một cây cầu vừa là biểu tượng cho sự chia cắt đất nước vừa là biểu tượng cho khát vọng thống nhất non sông và hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Với hơn bảy ngàn đêm ngày in bóng xuống dòng sông giới tuyến, cây cầu biểu tượng ấy một thời từng được nhà văn Nguyễn Tuân đặt cho một cái tên nghe thôi cũng thấy sởn gai ốc: cây cầu “Ma”. Thực ra cầu làm gì có ma nhưng vì nhiều lần đến đây ông thấy trên cầu “tuyệt nhiên không có bóng bộ hành qua lại” (bút ký Cầu ma), kể từ ngày Mỹ - Diệm tuyên bố “khóa tuyến” với âm mưu chia cắt đất nước để dòng sông Bến Hải trở thành dòng sông “một bờ”.
Cây cầu ma ấy cũng từng bị bom Mỹ tàn phá. Cây cầu đang tồn tại hiện nay trên dòng sông giới tuyến năm xưa là cây cầu được phục dựng lại. Nghe kể, cầu Hiền Lương đầu tiên được phủ Vĩnh Linh làm năm 1928 bằng gỗ với cọc sắt để dùng cho người đi bộ. Thời gian sau, Liên Bang Đông Dương đã nâng cấp cầu để cho xe cơ giới cũng có thể qua lại được.
Và rồi, đến năm 1950, Pháp cho làm một cầu bê tông cốt thép có trọng tải lên đến mười tấn để phục vụ mục đích quân sự nhưng cũng đã bị Việt Minh đánh sập. Cây cầu được coi là chứng nhân lịch sử là cây cầu được làm năm 1952. Nghe nói, cây cầu ấy được làm bằng những tấm sắt của Anh mang hiệu “made in England” và những tấm ván gỗ của Mỹ có hiệu “Us-Vir-ginia”.
Thời kỳ chia cắt đất nước thành hai miền, cây cầu ấy cũng từng được sơn bởi hai màu: xanh và vàng, tượng trưng cho hai miền Bắc - Nam. Nhưng cây cầu này cũng chỉ tồn tại được mười hai năm, năm 1967, nó lại bị bom Mỹ đánh sập. Với những giá trị lịch sử không gì thay thế được, năm 2001, nhà nước đã lấy mẫu của cây cầu làm năm 1952 để phục dựng, vài năm sau tiếp tục làm lại cột cờ giới tuyến và cụm di tích lịch sử bên dòng sông Bến Hải ... nhằm làm thành những chứng nhân lịch sử để tái hiện những năm tháng không thể nào quên, giúp cho thế hệ mai sau thấy được sức mạnh của chính nghĩa của lòng yêu nước và tình yêu hòa bình tha thiết của dân tộc Việt Nam.
Cây cầu Hiền Lương bắc qua sông bến Hải ngày ấy gồm có bảy nhịp, dài một trăm bảy mươi tám mét. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, mỗi bên nhận tám mươi chín mét cầu. Cuộc chia ly tạm thời những tưởng chỉ có hai năm nhưng ngờ đâu thực tế lại kéo dài đằng đẵng hai mươi mốt năm trời với biết bao xương máu. Trong những năm trường chia cắt ấy cầu Hiền Lương vừa là chứng nhân vừa là nạn nhân của kẻ thù xâm lược trên sông Bến Hải. Chẳng vậy mà Giôrít Iven, nhà điện ảnh người Thụy Điển đã phải thốt lên: “Vĩ tuyến 17 là nơi “trưng bày” sự man rợ đến tột cùng của đế quốc Mỹ và lòng dũng cảm đến mức thần thánh của nhân dân Việt Nam”.
Quả thực là như vậy, hai mươi mốt năm là hơn bảy ngàn ngày cầu Hiền Lương chứng kiến những cuộc đấu súng, đấu cờ, đấu loa, đấu sơn, đấu trí của những chiến sĩ công an bờ Bắc với kẻ địch ở phía bờ Nam. Ngày ấy, giữa cầu Hiền Lương có một vạch trắng kẻ ngang để phân ranh giới. Hòng chia cắt đất nước dài lâu, chính quyền họ Ngô đã sơn nửa cầu phía Nam màu xanh. Nhưng với ý nghĩa và khát vọng Bắc Nam là một nên ta cũng cho sơn màu xanh phía nửa cầu bên bờ Bắc. Thấy vậy, kẻ địch lại chuyển sang sơn màu vàng, phía ta cũng cho sơn lại thành màu vàng. Cứ như thế mà cầu Hiền Lương liên tục thay màu đổi sắc, cho dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn quyết không cho cây cầu mang hai màu đối lập.
Không chỉ đấu màu sơn, cầu Hiền Lương còn chứng kiến những màn đấu cờ. Theo quy định của Hiệp định, các đồn cảnh sát giới tuyến phải treo cờ. Mỹ - Ngụy dựa vào quy định này để khiêu khích phía bên ta bằng cách dựng một cột cờ cao hơn, mười lăm mét. Không chịu thua kém, nhân dân giới tuyến đã dựng một cột cờ cao mười tám mét để cổ vũ người dân bờ Nam. Và cứ vậy, cuộc đấu cờ cũng diễn ra rất quyết liệt. Năm 1962, Ngô Đình Diệm cho làm một cột cờ bằng xi măng cốt thép cao hẳn ba mươi mét. Thấy vậy, phía ta lại cho làm một cột cờ mới cao hơn hẳn, gần ba mươi chín mét với lá quốc kỳ lên tới một trăm linh tám mét vuông.
Trên đỉnh cột cờ ta gắn ngôi sao vàng bằng đồng, mỗi đỉnh ngôi sao lại cho gắn ba cái bóng đèn, công suất 500 watt. Cuối cùng địch không chịu được mà phải hèn hạ cho máy bay dội bom đánh sập kỳ đài. Nhưng hễ cột cờ gãy ta lại dựng cột cờ khác, tổng số ta dựng lại mười một lần để cờ tổ quốc không một lần vắng bóng ở đầu cầu giới tuyến. Không chỉ có đấu sơn, đấu cờ, cầu Hiền Lương còn được chứng kiến những màn đấu loa không kém phần căng thẳng.
Mỹ - Ngụy đã lập một hệ thống phát thanh lớn ở bờ Nam đêm ngày chĩa sang bờ Bắc để nói xấu chế độ Xã hội chủ nghĩa. Đáp lại, Liên Xô cũng đã giúp ta xây dựng một hệ thống loa hiện đại nhất, trên suốt mười cây số dọc bờ sông, từ Cửa Tùng lên đến Hói Cụ, trong đó có bốn cụm loa lớn đặt ở Cổ Trai (Vĩnh Giang), Hiền Lương (Vĩnh Thành), Huỳnh Thượng và Tiên An (Vĩnh Sơn).
Ngoài ra, ta còn có một xe lưu động gắn chiếc loa cực đại 500 watt để thông báo, cổ vũ động viên đồng bào phía bờ Nam ngày đêm đang phải sống cực khổ trong sự kìm kẹp tàn bạo của kẻ thù. Rồi còn nữa, cầu Hiền Lương còn chúng kiến những cuộc đấu trí, đấu súng của hai bên bờ Bắc và bờ Nam mà phần thắng luôn thuộc về bên chính nghĩa.
Cách cầu Hiền Lương về phía Nam không xa, khoảng chừng hơn ba mươi cây số là dòng sông lịch sử thứ hai của vùng đất Quảng Trị, sông Thạch Hãn linh thiêng. Con sông lịch sử này còn có tên gọi khác là sông Hàn. Đây là con sông lớn nhất của tỉnh Quảng Trị, đương thời, vua Minh Mạng từng cho đúc hình sông Thạch Hãn vào trong Cửu Đỉnh. Hiện nay, cửu đỉnh này vẫn đang được bày ở sân Thế miếu thờ các đời vua nhà Nguyễn ở Huế.
Về sông Thạch Hãn, người xưa có câu: “Chẳng thơm cũng thể hương đàn/ Chẳng trong cũng nước nguồn Hàn chảy ra”. Nhắc lại như vậy để thấy một đặc điểm của dòng sông linh thiêng: nước rất trong, nước xanh có thể nhìn thấy đáy. Sở dĩ có đặc điểm này là bởi nước sông chủ yếu chảy trên nền đá núi. Cũng bởi vậy mà lượng phù sa của sông rất ít. Giá trị chủ yếu của dòng sông là phục vụ giao thông và cung cấp nguồn nước cho các vựa lúa của các huyện Triệu Phong, Hải Lăng …
Còn trong sách “Ðại Nam nhất thống chí” có ghi: “Sông Thạch Hãn, từ nguồn Viên Kiều ở Bảo Trấn Lao (Lao Bảo) chảy về Đông… qua phía Bắc tỉnh thành Quảng Trị thì mang tên sông Thạch Hãn, đến ngã ba cổ Thành chia làm hai nhánh. Một nhánh chảy lên Đông Bắc đến ngã ba Phú Ông, gặp sông Ái Tử (Vĩnh Phước) ở phía Tây chảy vào, qua huyện Ðăng Xương (tức huyện Triệu Phong ngày nay), rồi ngã ba Ðại Ðộ gặp sông Ðiếu Ngao (sông Ðiếu Ngao qua cửa Ðiếu Ngao, đến xã Cam Lộ thì gọi là sông Cam Lộ), rồi qua ngã ba Giáo Liêm đổ ra Cửa Việt. Một nhánh chảy xuống Đông Nam, chảy vào sông Vĩnh Ðịnh, gặp sông Nhùng (Mai Ðàn) từ phía Tây tới, rồi theo hướng Nam tới huyện lỵ Phong Ðiền thì gặp sông Ô Lâu (Thác Ma), sau đó chảy ra phá Tam Giang”. Theo đó chiều dài của dòng sông là một trăm năm mươi lăm cây số. Không biết thời phong kiến xa xưa thì sao nhưng từ khi Pháp xâm lược đến khi Mỹ kéo vào thì lịch sử của Quảng Trị dường như gắn liền với dòng sông này. Đôi bờ của dòng sông là một trong những cái nôi của các phong trào kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; đồng thời cũng là quê hương của nhiều nhà cách mạng kiệt xuất của dân tộc.
Trở lại với thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mùa hè đỏ lửa năm 1972, sông Thạch Hãn và Thành cổ Quảng Trị là khúc song hành bi tráng thấm đượm máu và hoa. Tám mươi mốt ngày đêm, từ ngày 28 tháng 6 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, Mỹ - Ngụy hy vọng lấy chiến thắng Thành cổ để làm xoay chuyển thế cờ trên bàn nghị sự của Hội nghị Paris. Nhưng không, cuộc chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị đã không cho phép kẻ thù thực hiện được như trong giấc mơ của chúng. Và cũng bởi thế, vùng đất này cùng với dòng sông Thạch Hãn bất đắc dĩ danh nổi như cồn: “Tám mươi mốt ngày đêm đất trời ken đầy bom đạn/ Cát trắng rang vàng nghiêng lệch cả dòng sông” (Phạm Đình Lân). Mảnh đất Thành cổ ngày ấy diện tích chỉ khoảng ba ngàn mét vuông đã trở thành một “túi bom” khổng lồ của kẻ thù.
Với những lực lượng, phương tiện hiện đại nhất Mỹ - Ngụy hòng tái chiếm bằng được Thành cổ để tạo sức nặng trên bàn mặc cả. Người ta bảo, không thể nào thống kê hết số bom đạn được ném xuống đất này, người ta chỉ ước tính trung bình mỗi chiến sĩ của ta ở Thành cổ phải gánh trên mình hơn một trăm quả bom và hai trăm quả đạn pháo.
Ngày ấy, báo chí phương Tây cũng đưa tin: số bom đạn Mỹ ném xuống đây khoảng ba trăm hai mươi tám ngàn tấn, bằng sức công phá của bảy quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản. Tất nhiên sự hủy diệt lớn như vậy thì sự hy sinh của quân ta cũng không thể ít được. Nhưng mỗi khi người này ngã xuống thì bên ta lại người khác đến thay.
Báo Quân đội Nhân dân ra ngày 9 tháng 8 năm 1972 từng viết: “Mỗi mét vuông đất mà các chiến sĩ ta giành được ở Thành cổ Quảng Trị thực sự là một mét vuông máu”, “mỗi ngày có một đại đội vượt dòng Thạch Hãn để tiếp viện quân số nhưng đêm nay một đại đội tiến vào thì ngày mai chỉ còn lại vài người sống sót”. Và cuộc chiến đấu ở Thành cổ cũng đã diễn ra như một huyền thoại với nhiều lối đánh vượt ra ngoài cả những quy ước thông thường, không có trong mọi binh thư.
Kết thúc trận đánh tám mươi mốt ngày đêm, cán cân trên bàn Hội nghị Paris nghiêng về phía bên ta thì mảnh đất Thảnh cổ cũng lưu giữ hơn bốn ngàn anh hùng liệt sĩ đã anh dũng chiến đấu và hy sinh. Và ngôi Thành cổ từng tồn tại hơn một thế kỷ rưỡi (vua Gia Long cho làm năm 1809) cũng đổ nát tan hoang. Sự tan nát của vùng đất Thành cổ, sau này, bà Nguyễn Thị Bình, Phó chủ tịch nước, khi đó là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam được chứng kiến và từng thốt lên: “Tôi không ngờ Quảng Trị bị tàn phá đến mức này! Dọc đường tôi không thấy gì hết ngoài một màu đất đỏ và ngổn ngang sắt thép” (Khúc tráng ca Thành cổ). Nhưng, dù bom đạn của kẻ thù có ác liệt bao nhiêu cũng không làm nao núng chí căm thù và quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà của những chiến sĩ giải phóng quân.
Đặc biệt, ngày 16 tháng 9 năm 1972, ngày cuối cùng của chiến dịch tám mươi mốt ngày đêm, sau khi được lệnh rút quân khỏi Thành cổ sang bờ Bắc để bảo toàn lực lượng, hàng trăm chiến sĩ giải phóng quân cùng các thương binh của ta bị đói và lạnh do ngâm mình lâu trong nước nên đã không còn đủ sức để chống chọi với dòng nước lũ. Kết quả, dòng sông Thạch Hãn đã trở thành một “Nghĩa trang liệt sĩ” dưới thủy phủ ở bên Thành cổ anh hùng. Những đau đớn ấy chẳng thể nào nguôi ngoai. Mãi sau này, hàng năm, mỗi dịp đến ngày 27 tháng 7, đồng đội của những chàng trai mãi mãi tuổi hai mươi, tạm xếp bút nghiên lên đường ra trận lại trở về đây trong lễ hội hoa đăng trên dòng sông linh thiêng Thạch Hãn vẫn không khỏi tức tưởi thốt lên những lời đứt ruột làm lay động mọi trái tim: “Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm” (Lê Bá Dương).
Trên hành trình theo dọc dải đất Quảng Trị, ta mới thấy núi sông và con người như đang hòa quyện vào nhau tất cả và nâng đỡ cho nhau. Ngăn cách và chia ly, đau thương và anh dũng … tất cả đều được hiện hình bên những dòng sông. Những dòng sông xứ sở ấy đêm ngày vẫn cần mẫn dâng con nước ngọt ngào, mát mẻ làm cho đôi bờ thêm xanh mát nên thơ. Và những con người bất tử, kiên trung đã trở về trong lòng đất mẹ trong những năm tháng quật cường ấy cũng đã góp phần không nhỏ để làm nên những huyền thoại tạo thành sự linh thiêng, bất tử cho các dòng sông. Tất cả được hòa tan vào trong nhau, kết lại thành một thiên anh hùng ca đời đời bất diệt.