Ngày Xuân trò chuyện cùng Tiến sỹ Cung Khắc Lược 

Tiến sỹ Cung Khắc Lược là tiến sỹ Hán Nôm đầu tiên của Việt Nam và cũng được biết đến là một trong tứ trụ thư pháp của Việt Nam. Ông cũng là một nhà văn hoá lớn có nhiều công trình nghiên cứu về các dân tộc thiểu số của Việt Nam.

PV :Chào tiến sỹ Cung Khắc Lược, ông có thể chia sẻvề điều tuyệt vời nhất nhân dịp xuân Quý Mão này cho độc giả được không ?

Tiến sỹ Cung Khắc Lược: Năm cũ qua đi, năm mới đã về. Mỗi năm Tết đến xuân về lòng tôi đều có nhiều cảm xúc dâng trào. Với tôi, điều tuyệt vời nhất chính là những gì của nhân dân, của dân tộc, vì vậy trong những ngày đầu xuân năm mới này, tôi chọn giới thiệu với bạn đọc bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt. Một bài thơ mà đã là con dân đất Việt thì không ai là không biết. Tính đến mùa xuân năm nay, bài thơ đã gần 1000 năm tuổi và được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Điều đặc biệt là bài thơ này được thực hiện theo lối viết thư pháp bằng chữ Hán Nôm trên chất liệu gốm Bát Tràng.

b01-cung-khac-luoc-1674839067.jpg

Tiến sỹ Cung Khắc Lược bên tác phẩm thư pháp gốm “Nam Quốc Sơn Hà”

 

PV: Vốn dĩ là nhà nghiên cứu Hán Nôm lâu năm, Tiến sỹ có thể chia sẻ sâu sắc hơn về bối cảnh lịch sử, không gian xưa của bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà”.

Tiến sỹ Cung Khắc Lược: Trong cuộc chiến chống quân Tống lần thứ 2 (1075 – 1077), lúc ấy thế giặc rất mạnh, Lý Thường Kiệt đã đích thân cùng quân sỹ chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Vào một đêm, khi đang nghỉ tại ngôi đền thờ của hai anh em Trương Hống và Trương Hát, ông bỗng nghe bài thơ văng vẳng bên tai và đã cất tiếng ngâm giữa đêm khuya tịch mịch. 

Nam Quốc Sơn Hà 

Nam quốc sơn hà nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phậm 

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. 

(Đại Việt sử ký toàn thư - Phiên âm Hán Việt\
 

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời 

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

(Bản dịch tiếng Việt, nhà sử học Trần Trọng Kim)

Tiếng thơ vang vọng hào khí khắp đất trời, thổi vào lòng quân sĩ Đại Việt ngọn lửa yêu nước ngút ngàn khiến cho quân giặc lung lay, rối bời, kinh hồn bạt vía.

Một nghìn năm đã trôi qua với biết bao thăng trầm, biến cố của lịch sử. Từ khi ra đời cho tới nay, “NamQuốc Sơn Hà”vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử, văn hoá, hồn thiêng dân tộc. Đối với tôi là một người con Đất Việt bài thơ này là một văn kiện có tính lịch sử quan trọng thiêng liêng nhất mà cha ông để lại cho chúng ta. 

b02-cung-khac-luoc-1674839505.jpg

Các chữ “Nam”, “Quốc”, “Sơn”, “Hà” trên bức thư pháp

 

PV: Tác phẩm Thư pháp Gốm “Nam Quốc Sơn Hà” được Tiến sỹ ưu ái coi trọng như một trong số những tác phẩm thư pháp đặc biệt nhất cuộc đời sáng tác của mình, hôm nay Tiến sỹ có thể chia sẻ nhiều hơn cho quý độc giả hiểu về ý nghĩa của văn kiện lịch sử và điều gì đã truyền cảm hứng cho Tiến sỹ muốn làm phiên bản Thư pháp Gốm cho bài thơ này?

Tiến sỹ Cung Khắc Lược: Vào mùa thu năm 2018, trong một chuyến đi đến thăm làng gốm cổ Bát Tràng đã ngàn năm tuổi, ngày hôm đó, tôi đã rất hứng khởi để sáng tác nên tác phẩm “Nam Quốc Sơn Hà” không phải trên chất liệu giấy dó thông thường mà chế tác bằng bút lông viết trên nền đất sét phôi gốm. Tôi cũng không hiểu vì sao lúc đó tôi muốn thể hiện bài thơ này, có lẽ hào khí dân tộc chảy sẵn trong huyết quản tôi tuôn chảy. Có lẽ cũng bởi hào khí đó, nên tôi cứ thế phóng bút rất nhanh.

Thu Hà Nội năm đó gợi cho tôi muốn nghĩ đến bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc, bản tuyên ngôn nói đến bằng chứng không thể chối cãi của chủ quyền dân tộc và được thể hiện bằng văn bản đầu tiên trong lịch sử. 

Bài thơ ngắn gọn, thẳng thắn, minh bạch như chính những con người Việt Nam thiện chân, không gian dối, không lừa lọc, trời đất phân minh, lòng người ngay thẳng, trí tuệ rõ ràng, tâm hồn minh bạch.

b03-cung-khac-luoc-1674839642.jpg

Các chữ “Thiên”, “Thư” trên bức thư pháp

 

PV: Đến giờ, sau khi tác phẩm được hoàn thành, theo Tiến sỹ, điều gì làm Tiến sỹ thấy ấn tượng nhất trong quá trình thực hiện bức thư pháp gốm?

Tiến sỹ Cung Khắc Lược: Tôi đã viết rất nhanh, từng nét chữ hiện ra chắc khoẻ, mạnh mẽ, kiên cường, bất khuất, tự chủ nhưng vẫn mộc mạc, chất phác không cần phải ra sức gò kỹ thuật. Nó đi rất tự nhiên, như dòng nước chảy chứa chan không khiên cưỡng, không gì có thể ngăn lại được. 

Chữ Hán Nôm là công cụ thuần Việt ghi lại lịch sử văn hoá dân tộc hơn 10 thế kỷ đã qua. Bởi vì sau khi thoát khỏi ách đô hộ của Trung Quốc năm 939, chữ Nôm đã trở thành chữ quốc ngữ. Phần lớn các tài liệu văn học, triết học, sử học, luật pháp, y khoa, hành chính đều được ghi chép lại bằng chữ Hán Nôm. Bản thư pháp gốm Nam Quốc Sơn Hà này tôi tự hào viết bằng chữ Hán Nôm của Ông Cha ta.

PV: Có những thử thách khó khăn nào khi thực hiện tác phẩm Thư pháp gốm Nam Quốc Sơn Hà?

Tiến sỹ Cung Khắc Lược: Bức thư pháp này tôi viết bằng bút lông nhưng không phải trên giấy mà là trên phôi gốm bằng đất sét. Sau đó, nghệ nhân gốm Nguyễn Hùng đã dùng đôi bàn tay khéo léo của mình cùng một cây bút sắt khắc âm xuống nền của tranh gốm theo kỹ thuật “Ám hoạ” để đảm bảo độ sắc nét của chữ và đảm bảo chữ không bị biến dạng khi nung. Tiếp đến, tác phẩm được thếp vàng theo một phương pháp cổ dùng để thếp vàng lên tượng Phậtbằng gỗ, đã được cải tiến để thếplên gốm. Vì vậy tổng thể bức Thư pháp gốm có hiệu ứng ánh sáng tạo cảm giác các chữ được nổi lên hào sảng, rạng rỡ.

Quá trình chế tác này đòi hỏi sự kiên nhẫn tuyệt đối và là thử thách lớn của nghệ nhân bởi vừa phải đảm bảo được “hồn chữ” phóng khoáng của người viết vừa phải giữ được nguyên vẹn đường nét khi qua lửa nung ở nhiệt độ cao. Khi tác phẩm được hoàn thành tôi thấy rất đẹp, bức Thư pháp gốm cũng truyền tải được hết vẻ đẹp của bài thơ cũng như hồn chữ Hán Nôm đúng như tôi mong ước.

PV: Điểm đặc biệt khi kết hợp giữa Thư pháp Việt và chất liệu gốm Bát Tràng theo Tiến sỹ?

Tiến sỹ Cung Khắc Lược: Với tôi một văn bản giữ được lâu nhất là một văn bản được khắc trên đá hoặc viết trên gốm bởi gốm hội tụ đủ cả 5 yếu tố ngũ hành tương sinh: Kim,  Mộc, Thuỷ,  Hoả, Thổ, vì vậy nó rất bền với thời gian. Đặc biệt, bức thư pháp gốm này được dùng toàn bộ những vật liệu của đất Việt như đất sét, nước và trầm tích phù sa sông Hồng. Lại được chế tạo và nung trong lò lửa của làng Bát Tràng, được viết bằng chữ Hán Nôm của người Việt và là bức thư pháp Nam Quốc Sơn Hà bằng gốm đầu tiên của Việt Nam nên đối với tôi nó thật đặc biệt. 

Tranh Thư pháp gốm Nam Quốc Sơn Hà sử dụng men “Hoàng Thổ Liên Hoa”, bài men được nghệ nhân gốm Nguyễn Hùng cải biến từ bài “men tro” cổ truyền. Nguyên liệu chủ đạo của bài men này là thân sen và phù sa trầm tích sông Hồng. Trong đó “Hoàng Thổ” chỉ lớp trầm tích và “Liên Hoa” có nghĩa là hoa sen ý chỉ yếu tố thân sen sử dụng trong quá trình chế tác. 

Lần đầu tiên khi tôi được ngắm nhìn tác phẩm hoàn thành tôi vui với dân tộc của mình. Tôi vui với ông bà tổ tiên tôi. Tôi cảm thấy phấn khởi, vui đáng sống. Cũng mừng cho người học trò Hán Nôm 10 năm của tôi nghệ nhân gốm Nguyễn Hùng, mừng cho chúng tôi đã có sự kết nối với nhau để tạo ra tác phẩm rất đỗi tự hào này. Với tôi đây là một tác phẩm đẹp và quý bởi vì là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trên gốm của dân tộc Việt. 

PV: Thông qua bức thư pháp gốm Nam Quốc Sơn Hà, điều gì Tiến sỹ muốn nhắn nhủ đến độc giả nhân dịp mùa xuân năm nay?

Tiến sỹ Cung Khắc Lược: Mùa Xuân đất Việt, mùa Xuân của tự do và hy vọng

Nam Quốc Sơn Hà chính là một văn kiện có tính lịch sử quan trọng nhất mà Cha Ông để lại cho những người con đất Việt. Bởi vì nếu không có bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên thể hiện ý chí chủ quyền dân tộc này thì dân Việt Nam ta có thể vẫn còn làm nô lệ.

Mùa Xuân đến, chúng ta được bước đi thênh thang giữa đất trời Việt, thưởng lãm vẻ đẹp của những bông hoa đào, hoa mai, đó là điều tuyệt vời nhất! Và chúng ta luôn tự hào được mang trong mình dòng máu “Con Rồng cháu Tiên”, biết ơn Cha Ông đã tạo dựng và giữ gìn đất nước thanh bình này cho con cháu đời sau.