Nguyễn Đình Chiểu và bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”

Phan Anh

16/10/2023 11:32

Theo dõi trên

Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) tự là Mạnh Trạch, hiệu là Trọng Phủ, quê gốc ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế) nhưng được sinh ra tại quê mẹ ở phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Do bệnh tật (năm 27 tuổi ông bị mù hai mắt) nên con đường khoa cử của ông bị dang dở.

img-4242-1697424397.jpeg
Tượng đài Nghĩa sĩ Cần Giuộc

Đương thời, khi Pháp xâm lược Nam Kỳ, biết ông là người có uy tín, chúng đã ra sức mua chuộc nhưng với bản chất của một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa nên ông đã ra sức cự tuyệt, giữ vững khí tiết. Do bệnh tật, Nguyễn Đình Chiểu không thể trực tiếp cần vũ khí để đánh giặc nhưng với tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết và tài năng vượt trội nên ông vẫn sống một cách hữu ích giúp đời. Ông  từng làm các nghề dạy học, bốc thuốc giúp dân; ngoài ra ông còn tham gia bàn bạc các công việc đánh Pháp cứu nước với Phan Văn Trị, Hồ Huân Nghiệp, Bùi Hữu Nghĩa, Bùi Quang Diệu, Trương Định, Đỗ Quang…. Đặc biệt, ông còn là một tài năng văn chương độc đáo, đạt được nhiều thành tựu đỉnh cao. Sinh thời ông từng quan niệm văn chương là con thuyền chở đạo lývà ngòi bút của nhà văn giống như một thứ vũ khí để giết giặc: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Bởi vậy các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu là những bài ca bất tận ngợi ca những tấm gương nhân đức, hiếu hạnh; những anh hùng nghĩa sĩ đã anh dũng xả thân cứu nước. Đồng thời đó cũng là những bản án đanh thép, sắc lạnh dành cho những kẻ vô đạo, bất trung, bất nghĩa hay kẻ thù xâm lược. Mỗi vần thơ của ông là một sự ghi nhận, đánh giá rất công bằng, rõ ràng về công và tội; đồng thời cũng thể hiện sâu sắc nỗi lòng yêu nước thương dân. Những sáng tác nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu vẫn được nhiều người nhắc đến như: “Lục Vân Tiên”, “Dương Từ - Hà Mậu”, “Ngư tiều y thuật vấn đáp”, “Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh”… Trong số những tác phẩm đó đặc biệt phải kể đến bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Đây là một tác phẩm không chỉ mang tính điển hình, mẫu mực, tiêu biểu cho thể loại văn tế mà còn là một tiếng khóc cao cả, cảm động cho các nghĩa sĩ đã anh dũng chiến đấu hy sinh, cho Tổ quốc đau thương khi bị giặc Pháp giày xéo.

img-4243-1697424545.jpeg
Tượng thờ Nguyễn Đình Chiểu tại khu mộ và nhà lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu tại huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre

Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn có tên gọi khác là “Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc”. Theo tư liệu điền dã trong bài viết “Đi tìm nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Trần Nguyễn Anh đăng trên báo Tiền Phong số ra ngày 11 tháng 8 năm 2012 chúng ta được biết bài văn tế được Nguyễn Đình Chiểu làm khi ông chạy giặc về ở quê vợ, tá túc tại chùa Tân Thạnh (còn gọi là chùa Tôn Thạnh, xã Mỹ Lộc huyện Cần Giuộc). Đương thời chùa Tân Thạnh thường được Đốc binh Bùi Quang Diệu chọn làm nơi chỉ huy nghĩa quân. Cũng tại chùa này Nguyễn Đình Chiểu thường hay tham gia bàn bạc việc quân với các nghĩa binh. 

Như chúng ta đã biết, sau một thời gian bị giam chân ở Đà Nẵng, để gỡ thế bí, chỉ huy liên quân là Charles Rigault de Genouilly đã gửi thư về Bộ Hải quân Pháp ở Paris đề nghị cho phép tấn công thành Gia Định. Lời đề nghị ấy được chấp thuận và đội quân xâm lược nhà nghề Pháp với những vũ khí tối tân gấp bội đã ồ ạt tấn công Gia Định. Quân ta đã chống lại quyết liệt nhưng do sự cầu an, chậm chạp, vô trách nhiệmcủa triều đình Huế trong vai trò lãnh đạo mà thành Gia Định sớm bị thất thủ. Sau khi thất thủ, tướng Nguyễn Tri Phương cho quân lui về củng cố Đại đồn Kỳ Hòanhằm bao vây thành Gia Định. Ngày 23 tháng 2 năm 1861, quân Pháp do Đề đốc Charner chỉ huy với khoảng 10.000 quân và chiến thuyền các loại tiếp tục công phá Đại đồn Kỳ Hòa để giải vây cho thành Gia Định sau đó tỏa ra đánh chiếm ba xứ Tân An, Cần Giuộc, Gò Công.

img-4244-1697424635.jpeg
Chùa Tôn Thạnh ở huyện Cần Giuộc tỉnh Long An, nơi Nguyễn Đình Chiểu ở và viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Tại Cần Giuộc, đúng đêm rằm tháng mười một năm Tân Dậu, ngày 16 tháng 12 năm 1861, nghĩa quân đã nổi dậy tấn công quân Pháp. Dưới sự chỉ huy củaBùi Quang Diệu, nghĩa quân đã chia làm ba mũi quân tập kích đồn Tây dương ở chợ Trường Bình. Nghĩa quân đã chiếm đồn, đốt cháy nhà dạy đạo, đâm bị thương Trưởng đồn người Pháp tên là Dumont, tiêu diệt một số lính Mã tà, Ma ní. Cũng trong trận này nghĩa quân cũng hy sinh mất 27 người. Thi thể của các nghĩa binh đã được nhân dân đưa về chùa Tôn Thạnhđể làm lễ an táng. Tại đây Nguyễn Đình Chiểu đượctuần phủ Gia Định Đỗ Quang nhờ viết và đọc bài văn tế trong lễ truy điệu các nghĩa binh.

Với sự cảm kích và tiếc thương vô hạn những anh hùng nghĩa dân đã vị quốc vong thân, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” bằng chữ Nôm với 30 câu biền ngẫu, theo thể phú luật Đường độc vận và đọc trong buổi truy điệu (theo tư liệu của Trần Nguyễn Anh bài văn tế này có 31 câu, bản văn tế hiện đang được sử dụng trong các sách bị bỏ sót câu 28, ngay sau đoạn: “Ông cha ta còn ở đấtĐồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ”. Câu thứ 28 như sau: “Sông Cần Giuộc cỏ cây nhuốm lệ, thương là thương kẻ tử vô cô/ Chợ Trường Bình phố xá bỏ hoang, giận là giận người sanh bất võ”). Bài văn tế cóngôn ngữ mộc mạc, giản dị với những hình ảnh chân thực, sống động và giọng văn trầm hùng, bi tráng đã tạo nên những cơn trấn động trong lòng người đọc, người nghe; làm thành một làn sóng mạnh mẽ cổ vũ nhân dân khắp mọi nơi đứng lên đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Có thể nói, bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” với tiếng khóc cao cả và lay động lòng người, lần đầu tiên những nghĩa binh nông dân áo vải chân chất lam lũ ở các xóm làng đã được nhà thơ dựng thành một tượng đài bất tử trong văn chương. Bài văn tế đã hết lời ngợi ca những nghĩa binh nông dân như những người anh hùng với đầy đủ các phẩm chất tốt đẹp: yêu nước, căm thù giặc, anh dũng, quả cảm, sẵn sàng hy sinh vì đất nước.

Sau lễ truy điệu các nghĩa dân chết trận Cần Giuộctại chùa Tôn Thạnh, bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã được truyền về kinh thành Huế. Vua Tự Đức đọc xong liền ra lệnh phổ biến bài văn tế. Ngay lập tức bộ Lễ đã ban lệnh truyền bài văn đi khắp nơi. Và khi đọc bài văn tế này, những thi sĩ cung đình hàng đầu nhưcông chúa Mai Am và hoàng tử Tùng Thiện Vương Miên Thẩm đã không khỏi xúc động mà có thơ rằng: “Bồi hồi đọc mãi bản văn ai/ Phách cứng văn hùng cảm động thay/ Dân chúng cần vương lời ghét địch/ Nhà nho lâm trận tiếc không tài …” (Độc điếu nghĩa dân tử trận văn, Mai Am, Lê Thước dịch); “Tầm vông áo vải danh còn mãi/ Binh bại thân vong chuyện đã thường/ Canh cánh nghĩ thương lòng kẻ sĩ/ Chỉ còn ngọn bút báo ơn suông” (Độc Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân tử trận quốc ngữ văn, Tùng Thiện Vương, Cao Tự Thanh dịch).

​Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” có kết cấu bốn phần, một kết cấu thường thấy của văn tế. Đó là các phần. Thứ nhất là Lung khởi (câu 1 và câu 2); phần này là một tiếng than thể hiện sự tiếc thương những người đã mất của nhà thơ; đồng thời cũng khái quát được bối cảnh xã hội cùng sự hy sinh cao cả của những người nông dân nghĩa binh. Thứ hai là Thích thực (từ câu 3 đến câu 15); phần này có tính chất hồi tưởng, tác giả kể lại lai lịch, cuộc đời lao động nghèo khổ và tinh thần yêu nước, dũng cảm cũng như những thành tích giết giặc cứu nước của các nghĩa binh. Thứ ba là Ai vãn (từ câu 16 đến câu 23); phần này bày tỏ lòng xót thương đối với người đã khuất. Thứ tư là Kết (từ câu 24 đến hết câu 30); phần này ngợi ca công đức của những người nông dân đã xả thân vì đất nước. Với kết cấu này bài văn tế không chỉ tái hiện lại được cuộc đời của người nghĩa binh mà còn thể hiện được niềm tiếc thương, xót xa, đau đớn cũng như sự ngưỡng mộ của nhà thơ và của nhân dân đối với các anh hùng áo vải đã vì nước quên thân. Đi sâu vào tìm hiểu, phân tích cụ thể từng phần chúng ta sẽ thấy được những vẻ đẹp cao cả của những nghĩa dân cùng tài năng và tấm lòng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.

​Phần Lung khởi bắt đầu bằng một tiếng than “Hỡi ôi!”. Một tiếng thang vang động trời đất. Sau tiếng than nhà thơ đã tái hiện lại hoàn cảnh xã hội và cuộc đời người nghĩa binh. Về hoàn cảnh xã hội là sự kiện Thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định và các vùng lân cận, trong đó có Cần Giuộc. Sự kiện này được Nguyễn Đình Chiểu thể hiện qua một cặp biền ngẫu “Súng giặc đất rền/ Lòng dân trời tỏ”. Có thể nói với cặp biền ngẫu này nhà thơ đã cho người đọc thấy được các chủ thể đối kháng chính của cuộc xung đột, cũng như tương quan về điều kiện chiến đấu của hai bên. Nghe, đọc phần này và toàn bộ bài văn tế người ta thấy triều đình vắng bóng, quan quân chẳng thấy đâu. Và nhận ra rằng, đây là cuộc đối đầu giữa “súng giặc” và “lòng dân”. Kẻ thù xâm lược được trang bị những vũ khí tối tân đang ào ào tấn công như vũ bão (rền vang) còn nhân dân chỉ có một thứ vũ khí truyền đời, cao cả nhấtlà tinh thần yêu nước (lòng dân). Sau lời khái quát về bối cảnh xã hội, Nguyễn Đình Chiểu nêu lên chủ đề của tác phẩm bằng cách đánh giá khái quát về cuộc đời của những người nghĩa binh đã hy sinh vì đất nước. Nhà thơ đã khéo léo chọn hai hình ảnh và đặt trong mối quan hệ tương phản để khắc họa, nhấn mạnh danh thơm của người đã mất để lại cho muôn đời: “mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”.

​Phần Thích thực, bắt đầu bằng ba chữ “Nhớ linh xưa” để hồi tưởng lại cuộc đời lam lũ nhưng oanh liệt của các nghĩa binh nông dân. Trong phần này, bằng nghệ thuật biền ngẫu kết hợp với bút pháp tả thực vô cùng sinh động nhà thơ đã tái hiện trước mắt người đọc “hình ảnh người nông dân nghĩa quân Cần Giuộc hiện lên như một tượng đài nghệ thuật sừng sững, rực rỡ tới mức có thể như là vô tiền khoáng hậu” (Nguyễn Đình Chú). Ở đây Nguyễn Đình Chiểu không hề tô vẽ hoa mỹ, ông kể lại một cách chi tiết, chân thực cái lai lịch chân chất, mộc mạc của những nghĩa binh trước khi giặc đến. Họ là những người nông dân nghèo khó,quanh năm làm ăn vất vả, bán mặt cho đất bán lưng cho trời một cách thầm lặng (cui cút). Họ chỉ gần gũi, quen biết với những con vật và công việc của nhà nông như ruộng, trâu ở trong làng xóm cùng các công việc cuốc, cày, bừa, cấy. Họ xa lạ với các con vật, không gian, công việc của nhà binh như ngựa, bãi chiến trường, cung tên, súng đạn cùng các việc tập khiên, tập súng, tập cờ tập mác. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy khi kể về hoàn cảnh xuất thân của những nghĩa quân nghèo khó, vất vả này nhà thơ đã khéo léo sử dụng các từ ngữ mang tính phủ định “chưa”, “đâu”, “chưa từng” và các từ ngữ mang tính khẳng định “chỉ biết”, “vốn quen” kết hợp với các hình ảnh chỉ nghề nghiệp, không gian, hành động; và chúng được sắp xếp đối ngẫu với nhau (Chưa quen cung ngựa - Chỉ biết ruộng trâu; đâu tới trường nhưng – ở trong làng bộ; việc cuốc – tập khiên; việc cày – tập súng; việc bừa – tập mác – tập cờ; tay vốn làm quen – mắt chưa từng ngó) nhằm khắc họa sâu sắc và nhấn mạnh, gây ấn tượng cho người đọc về hoàn cảnh xuất thân cùng bản chất hiền lành, vốn xa lạ không thích hợp với nghiệp súng đạn, binh đao của những nghĩa quân Cần Giuộc.

​Không chỉ tái hiện hoàn cảnh xuất thân của những nghĩa binh Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu còn thể hiện cho người đọc thấy được dòng tâm trạng và những suy nghĩ, thái độ của những người dân cày nghĩa binh khi nghe tin có giặc xâm lăng và hàng ngày phải nhìn chúng trước mặt. Khi nghe tin giặc đến (tiếng phong hạc) tâm trạng những người nông dân tham gia nghĩa quân không khỏi hồi hộp, âu lo kéo dài (phập phồng hơn mươi tháng). Họ hồi hộp, âu lo kéo dài vì mong mỏi đợi chờ triều đình cử người đến cứu giúp. Nhưng triều đình nhà Nguyễn bất lực, vô trách nhiệm nên sự mong mỏi ấy bị rơi vào thảm cảnh “trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Hẳn ta còn nhớ, khi Pháp nổ súng tấn công Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu đã từng phải thốt lên: “Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng/ Nỡ để dân đen mắc nạn này” (Chạy giặc). Dường như trong tiếng khóc thương ta còn nghe thấy cả những lời oán thán giai cấp thống trị đương thời. Và khi tiếng súng của kẻ thù vang lên và cướp thành Gia Định, rồi tiến đánh các tỉnh miền Đông Nam Kỳ, hằng ngày những người nghĩa binh phải ngửi cái tanh hôi (mùi tinh chiên) của Thực dân Pháp mà căm ghét, uất ức như thể “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Cái tâm trạng ấy tất sẽ dẫn đến một thái độ không đội trời chung: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Có thể nói, với những hình ảnh rất cụ thể và chân thực kết hợp với nghệ thuật đối rất chỉnhcủa lối hành văn biền ngẫu, nhà thơ đã cho người đọc thấy được sự căm thù giặc Pháp cướp nước dữ dội, cháy bỏng đến tận xương tủy của những nghĩa dân Cần Giuộc. Dường như tâm trạng này cũng giống như nỗi đau đớn của Trần Hưng Đạo đã từng thốt lên trong “Hịch tướng sĩ” khi phải chứng kiến giặc Nguyên Mông giày xéo đất nước: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng” cho nên dù triều đình có ươn hèn, bất lực thì họ vẫn quyếtđứng dậy rửa hận non sông: “Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươi; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê, bán cho”. Họ đánh giặc để bảo vệ đất nước một cách tự giác “nào đợi ai đòi ai bắt”, “chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Đúng thực đất nước là của nhân dân. Nhân dân là người làm nên đất nước, giữ gìn và bảo vệ đất nước. Cho nên, dù triều đình có vô trách nhiệm,trối bỏ vai trò lĩnh xướng thì ý thức, trách nhiệm công dân trước Tổ quốc của người dân đất Việt vẫn được duy trì trong từng huyết quản và bùng lên tạo thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ để quét sạch bọn xâm lăng. Trước nạn ngoại xâm ý thức của người dân với đất nước khác hẳn với các cuộc nội chiến. Nếu ở các cuộc nội chiến họ phải tìm mọi cách để trốn lính, thậm chí phải thay họ đổi tên, sống mai danh ẩn tích thì đến bây giờ họ “nào đợi ai đòi ai bắt”, “chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

​Những người “dân ấp”, “dân lân” đứng dậy đánh đuổi ngoại xâm thực chất là đội quân tự nguyện, họ là lính chiến “nghiệp dư”: “chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễu binh”. Cho nên họ đâu có được trải qua “mười tám ban võ nghệ”, “chín chục trận binh thư”. Nhưng họ vẫn sẵn sàng ra trận, chấp nhận hy sinh bởi vì “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Những người nông dân đứng lên đánh giặc không chỉ không được trang bị về “võ nghệ”, “binh thư” như những người lính chuyên nghiệp mà họ còn thiếu cả các điều kiện vật chất đánh giặc. Vũ khí đánh giặc của họ vẫn chỉ là những vật dụng lao động, sinh hoạt thường ngày như “manh áo vải” (không phải áo giáp, nón gõ của lính), ngọn tầm vông (không phải kiếm, súng đạn), “rơm con cúi” (không phải đại bác), dao phay (không phải kiếm). Với những trang bị ra trận như vậy có thể nói là điều kiện chiến đấu của những nghĩa binh hầu như không có gì, rất thô sơ. Tuy nhiên với tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quật khởi trước giặc ngoại xâm, những nghĩa binh Cần Giuộc đã đánh giặc với một tinh thần quả cảm trước đội quân nhà nghề được trang bị các phương tiện chiến đấu rất hiện đại như “đạn nhỏ”, “đạn to”, “tàu thiếc”, “tàu đồng”…  Họ chiến đấu xả thân vì nghĩa lớn: “đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không”, “nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có”, “kẻ đâm ngang, người chém ngược”… Kết quả, họ đã “đốt xong nhà dạy đạo”, “chém rớt đầu quan hai”; làm cho “mã tà, ma ní kinh hồn” … Đoạn văn miêu tả người nghĩa binh xung trận thật đẹp. Đọc đoạn văn ta có thể thấy, ngoài những hình ảnh miêu tả rất chân thực về các điều kiện chiến đấu của nghĩa quân còn rất thô sơ thì một loạt các động từ diễn tả hành động mạnh như: “đánh”, “đốt”, “chém”, “gióng”, “đạp”, “lướt”, “xô”, “xông”, “liều”, “đâm”, “chém” cũng đã được nhà thơ đưa vào để tái hiện một trận chiến với không khí sôi sục, khẩn trương, hào hùng. Với những câu văn biền ngẫu có các hình ảnh, từ ngữ đối chọi nhau, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ cho người đọc thấy được những điều kiện chiến đấu giữa hai bên không tương quan với nhau về mọi mặt (lực lượng, vũ khí, trình độ quân sự …) mà còn cho ta thấy vẻ đẹp dũng cảm, can trường, coi thường sợ giặc, không sợ hy sinh và những chiến công kính nể của những nghĩa quân Cần Giuộc. Có thể nói đoạn văn tế này, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên “một bức tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân” chống giặc cứu nước rất chân thực và rất đặc sắc.

​Phần Ai vãn cũng được mở đầu bằng một tiếng than thương tiếc (Ôi!) để bày tỏ lòng tiếc thương với người đã mất. Ở phần Thích thực, hình ảnh những nghĩa binh tả xung hữu đột hiện lên thật hào hùng, đẹp đẽ. Như thế thì những tưởng sẽ được phụng sự cho Tổ quốc lâu dài. Nhưng thực tế chiến trường rất nghiệt ngã. Mất mát hy sinh là điều khó tránh. Hai mươi bảy nghĩa binh đã anh dũng hy sinh. Chưa được thỏa chí giết giặc báo quốc mà cái chết đã phũ phàng ập tới: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ/ Một chắc xa trường rằng chữ hạnh nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ”. Giọng văn ở đây không còn hào sảng, dữ dội mà tưởng như khựng lại, hụt hẫng để chuyển sang xót xa, đau đớn. Quả thực nỗi mất mát này thật to lớn cho nên thiên nhiên cũng phải biến sắc “Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng”, con người lớn bé đều nức nở, xót xa: “nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ”. Đó là một tiếng khóc lớn. Tiếng khóc từ lòng người vang dội đất trời, thấm vào sông nước cỏ cây. Khóc cho nghĩa binh vắn số mà cũng là khóc cho cả dân tộc một phút sa cơ. Càng khóc, nghĩ càng thương cho các anh hùng vắn số. Hai mươi bảy mạng người không phải là binh lính triều đình; càng không phải là những người bị “án cướp”, “án đày” mà phải ra trận để lập công chuộc tội dẫn đến bỏ mạng. Họ vốn là những nông dân hiền lành vốn chỉ quen với những công việc nhà nông. Lời ai vãn dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là sự xót xa, đau đớn, nức nở không cùng mà còn chất chứa những căm giận khôn nguôi đối với những kẻ đã gây ra những cái chết oan uổng cho những người nghĩa binh. Và, hình như ngầm ẩn đằng sau tiếng khóc còn là cả sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc với các thân nhân của người đã khuất; sự ai oán đối với giai cấp thống trị đương thời (thờ ơ với vận mệnh đất nước, bỏ mặc dân đen).

​Sau những tiếng nấc nức nở, nhà thơ khẳng định việc “tài bồi cho nước nhà ta” là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người dân để an ủi vong linh những nghĩa binh xấu số và đồng thời cũng kết án tội ác xâm lượccủa kẻ thù bằng một lời chửi đau đớn “bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó”. Và, hình như trong khi an ủi các vong linh cũng như thân nhân nhữngnghĩa binh chết trận, nỗi đau đớn trong lòng nhà thơtrào dâng ra đầu ngọn bút nên câu văn của Nguyễn Đình Chiểu không phải chỉ là sự chia sẻ, thấu hiểu, thấu cảm với những gian khổ, nguy hiểm, thậm chí là hy sinh của những nghĩa binh mà còn có cả sự trách móc, oán hờn quân xâm lược và triều đình nhu nhược, vô cảm : “Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió”. Thấu cảm, oán hờn, đau xót dường như vẫn chưa đủ nên đến cuối phần Ai vãn nhà thơ tiếp tục an ủi, tri ân, ngợi ca những anh hùng nghĩa binh liệt sĩ và khẳng định cái chết của các nghĩa binh là vinh quang, cao cả, bất diệt muôn đời: “Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ/ Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”. Có thể thấy bằng lối hành văn biền ngẫu với các cặp đối tương hỗ nhà thơ vừa đề cao cái chết vinh hiển, chính nghĩa của những nghĩa binh lại vừa phê phán, đả kích, phủ nhận sự lầm đường lạc lối của những kẻ đầu hàng theo giặc, chấp nhận lối sống “quăng vùa hương xô bàn độc” (khuất phục kẻ thù, từ bỏ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên), “chia rượu lạt, gặm bánh mì” (chấp nhận lối sống nô lệ, nhục nhã, hèn mạt). Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã hết lời ca ngợi cái chết cao cả, hiên ngang, không chịu cúi đầu của các nghĩa binh. Đó là một lối sống cao đẹp: “chết vinh còn hơn sống nhục”.

img-4245-1697424712.jpeg
Tam quan khu Mộ và lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu ở huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre

​Phần kết, bắt đầu bằng câu cảm thán với ba chữ “Ôi thôi thôi” tựa như tiếng nức nở, uất nghẹn không dứt. Đúng là dứt làm sao được. Hai mươi bảy vong linh oan uổng, dù rất oanh liệt thì những tổn thất để lại cho cả người chết và người sống vẫn là vô cùng. Ở phần này âm điệu lời văn như lắng lại bởi sự mất mát, đau thương quá lớn: “Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ/ Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.Những địa danh cụ thể, những hình ảnh cụ thể đối với nhau để làm nổi bật nỗi đau đớn tang thương. Nghĩa quân tan dã, nơi họp bàn việc quân vắng lặng, cửa đóng then cài; tấm lòng yêu nước của các nghĩa binhđược đất trời chứng giám. Đồn giặc bên sông toan rửa hờn báo quốc mà khiến phận sao quá mong manh.Đúng là chiến tranh không phải trò đùa. Hậu quả của chiến tranh để lại thật khôn lường. Nỗi đau mất người dường như không phải chỉ là của những thân nhân người phận bạc mà còn là của chính nhà thơ, của cả quê hương. Bởi thế Nguyễn Đình Chiểu như thấu hiểu mọi cung bậc của nỗi đau nên khi thể hiện nỗi mất mát to lớn ấy ông đã lựa chọn được những hình ảnh và những từ ngữ rất đắt giá để diễn tả: mẹ già khóc con vào lúc đêm khuya ở trong lều dưới ánh đèn leo lét, vợ yếu dật dờ chạy tìm chồng lúc bóng xế. Người mẹ mất con, người vợ mất chồng… Tất cả đất trời như hoàn toàn sụp đổ. Nhà thơ “thương người mất, thương cả người còn”. Quả đúng là “đau đớn bấy!”, “não nùng thay!”.

​Căm hận kẻ thù bao nhiêu, thấu cảm nỗi đau của thân nhân người mất bao nhiêu thì nhà thơ lại càng tự hào và đề cao những nghĩa binh chết trận bấy nhiêu. Bởi thế phần cuối của đoạn kết, sau tiếng một tiếng than (Ôi!) là một cặp câu biền ngẫu được diễn tả rất cô đọng, hàm súc: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”. Chỉ với một hình ảnh “nghìn năm tiết rỡ” thôi Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện rõ ý định ca ngợi công đức của các nghĩa binh liệt sĩ theo hướng vĩnh cửu hóa: khí tiết của các nghĩa binh rực rỡ như vầng dương. Theo đó nhà thơ một lần nữa hết lời ngợi ca công đức của các nghĩa binh. Khẳng định sự hy sinh của các nghĩa binh không phải là uổng công, vô ích. Bởi thế những nghĩa binh dù có: “Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”. Các anh hùng liệt sĩ không chỉ đánh giặc khi sống mà đánh cả sau khi đã chết: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia”. Trong niềm tin của nhà thơ và mọi người những nghĩa binh anh hùng đó tuy đã chết nhưng vẫn không xa rời chúng ta. Bởi thế trong lễ truy điệu các liệt sĩ Nguyễn Đình Chiểu vẫn tin rằng: “linh hồn theo giúp cơ binh”. Với niềm tin này phải chăng trong suy nghĩ nhà thơ và của mọi người các nghĩa binh vẫn chưa “chết”. Nói theo cách khác là họ vẫn còn “sống”. Họ sống trong lòng những người đang sống, vẫn tiếp tục sự nghiệp chiến đấu. Cách vĩnh cửu ấy vừa hợp tình vừa hợp lý. Vĩnh cửu người mất cũng là để động viên người còn sống. Đó là lẽ thường của tâm lý. Nói thì vậy nhưng lòng nhà thơ hẳn chưa hết cơn đau, chưa hết nhưng âu lo thế sự. Bởi thế gần đoạn cuối bài văn tế nhà thơ vẫn không thôi chất vẫn những tội ác tày trời của kẻ thù “ai làm nên bốn phía mây đen”, vẫn khắc khoải, lo lắng cho những sinh linh bé nhỏ “ai cứu đặng một phường con đỏ”. Và đến kết thúc bài văn tế nhà thơ hạ bút bằng một hình ảnh đầy thương tiếc của nhà thơ và cũng là của nhân dân với các nghĩa binh liệt sĩ để vọng tưởng: “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ/ Hỡi ôi thương thay! Có linh xin hưởng”.

​Vì bị bệnh tật, Nguyễn Đình Chiểu không trực tiếpcầm gươm, cầm súng ra trận đánh giặc được nhưng ông vẫn nêu cao ngọn cờ yêu nước. Tinh thần yêu nước và trách nhiệm với Tổ quốc của ông không chỉ được thể hiện ở việc ông tham gia bàn việc nước với thủ lĩnh các nghĩa quân mà còn ở cả trên những trang viết. Nguyễn Đình Chiểu chọn cây bút để vừa ghi lại những trang bi thương và hào hùng của dân tộc; để thể hiện sự yêu, ghét rõ ràng với kẻ thù và chính quyền đương thời; để cổ vũ cho phong trào kháng chiến. Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hẳn không chỉ là sự thương yêu, kính trọng, đau đớn, xót xa trước những cái chết oanh liệt của các nghĩa binh Cần Giuộc mà đó còn là thái độ căm ghét giặc Pháp đến cao độ của nhà thơ; nỗi oán hờn sự vô cảm, vô trách nhiệm triều đình nhà Nguyễn “nỡ để dân đen mắc nạn này”. Một trăm sáu hai năm đã đi qua bài văn tế và hình ảnh những nghĩa binh anh hùng vẫn còn được nhân dân ghi nhớ và nhác mãi. Và không phải ngẫu nhiên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu được Bộ Giáo dục và Đào tạo lựa chọn và chỉ định là một trong sáu tác phẩm bắt buộc phải dạy trong chương trình Ngữ văn (chương trình giáo dục phổ thông 2018). Trân trọng tài năng và nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu, năm 2021 UNESCO đã vinh danh là Danh nhân văn hóa của nhân loại.

Bạn đang đọc bài viết "Nguyễn Đình Chiểu và bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”" tại chuyên mục Văn hóa - Xã hội. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn