Nhật ký “Lính chiến” của CCB Phạm Hữu Thậm (Kỳ 12): 17 ngày bám trụ đối đầu với Lữ đoàn dù 173 Mỹ

Ngày 02/7/1970, chúng tôi lại nhận lệnh hành quân, mỗi người còn được phát 6 bò ngô thối đem đi chiến đấu.

Trung đội 1 do Đại đội trưởng Mậu trực tiếp chỉ huy, đi với K8 đến khu vực bến Thạch Mỹ. Trung đội 2 và Trung đội 3 do Chính trị viên Quang, Đại đội phó Quần chỉ huy đi với K9 đến khu vực bến đò Ràng.

Trên đường hành quân, trời mưa khổ sở leo dốc, trèo đèo, dạ dày lép kẹp. Đi một đoạn lại nghỉ, đầu gối mỏi, chân tay rã rời. Quả ươi rụng gặp nước nở ra bốc đưa vào miệng; cả quả mẫu đơn, quả kè, quả trám, gắm đều ăn. Cái đói đã thành bệnh kinh niên với những người lính mặt trận này.

d1ae1-1672369822.jpg

16 giờ chiều 02/7/1970, đã đến khu vực chiến địa. Anh nuôi ở lại trong rừng, bên bờ khe có nước. Chúng tôi đưa hỏa lực ra ngoài đồi tranh. Trận địa 12 ly 7 đặt trên đồi bình độ 100, cách đường số 14 hai trăm mét. Súng máy đại liên ở đồi bình độ 72, bên phải súng 12 ly 7. Mỗi trận địa cách nhau từ 200 đến 300m, có 6 quả đạn rốc két M72, 1 súng M79, 1 súng AK.

d2ae2-1672369870.jpg
Hai ảnh trên: Lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam do tác giả sưu tầm chỉ mang tính minh hoạ.

 

Đêm mùng 2 và ngày mồng 3/7/1970, chúng tôi làm xong trận địa, liên lạc Him, anh nuôi Tích, Y tá Luật bắt ốc, trèo hái bòng bong lấy rau rừng ăn trừ bữa. Ngày trực chiến, đêm canh gác; dù pháo sáng bay như nấm. Đạn 20 ly nổ khắp nơi; dọc đường 14, bờ sông Bung máy bay B52 rải bom, chất độc hóa học tàn lụi cỏ cây chỉ còn cây khô mộc nhĩ mọc đầy, cây non lúp xúp chỗ có chỗ không; pháo bắn tuần từ bãi Đá đến bến đò Giàng; máy bay L19, OV-10 bay suốt ngày đêm.

Lúc 5 giờ ngày 06/7/1970, từ phía Tây Nam tai họa kéo đến. Trong lúc chúng tôi còn đang thiêm thiếp, nhờ nhạy cảm của người lính biết trước cái chết đang rình mò, tất cả đều bật như lò xo lao xuống hầm. Đó là tiếng réo quen thuộc của trận mưa bom; tiếng réo khủng khiếp của đạn địch, tiếng nổ liên hồi của bom B52 theo trục đường 14 rải vắt qua trận địa chúng tôi.

Suốt ven sông khói lửa mịt mù, pháo từ Thượng Đưc bắn lên, pháo tăng tốc từ vùng xuôi bắn tới, những tiếng nổ long trời. Ngày hôm trước, phía bến Thạch Mỹ quân ta đã chạm súng với địch, không biết được thua ra sao.

Tầm nửa buổi anh nuôi đem ốc suối và quả bòng bong ra trận địa. Chiếc máy bay 2 thân bắn đạn 20 ly xuống các gò dọc sông. Lại con đầm già đen gọi loa chiêu hồi: Các bạn cán binh Bắc Việt, các bạn không còn nơi nào an toàn, từ rừng núi đến đồng bằng đã thuộc vào quân lực Việt Nam cộng hòa và đồng minh chiếm giữ, các bạn không thể thoát, hãy mau ra hồi chánh, chính phủ quốc gia sẽ đối đãi tử tế. Tiếng hát nhạc vàng cải lương tâm lý chiến từ trên cao ngân nga theo gió…

Rồi chiếc L19 bắn đạn khói xuống khu vực Cầu Vôi chỉ điểm cho máy bay phản lực đến đánh bom. Sau một giờ, mấy chiếc trực thăng bay theo sông bắn xả vào các thung lũng rồi vòng lại bắn rốc két theo trục đường 14; hai chiếc trực thăng vượt lên dẫn đường cho quân Mỹ hành quân một hàng dài.

Đợi quân địch đến Cầu Vôi, Trung đội trưởng Trương hạ lệnh: Nhằm thẳng quân thù, bắn!

Tôi kéo cò súng 12 ly 7 bắn giữa đội hình quân địch; súng máy trung liên RPD và B41 bắn chặn đầu; súng máy đại liên bắn khóa đuổi làm cho đội hình Tiểu đoàn quân Mỹ bị rối loạn. Chúng chạy ngược xuôi đều bị bắn. Súng CKC và AK bắn tỉa những tên chạy lộn xộn.

Quân Mỹ chết không kể xiết. Chúng mất khoảng 1/3 quân số, đứa nằm đứa bò đứa chạy, dạt hết xuống vệ đường 14. Bốn chiếc trực thăng lồng lộn bắn vãi đạn xuống trận địa chúng tôi để cứu nguy cho quân Mỹ. Bọn ở ở phía sau cũng đặt hỏa lực để bắn lại hỗ trợ đồng đội chúng.

Trung đội tôi lúc này hy sinh 4, bị thương 2 đồng chí. Quân Mỹ xông lên lấy xác. Chúng tôi tiếp tục chiến đấu, bắn quân Mỹ chạy lùi 300m.

Đạn Mỹ nhiều nên chúng bắn lên như mưa sa bão táp. Tiếng đạn nổ, tiếng Mỹ la, một cuộc huyết chiến thật sự kinh khủng.

Một chiếc trực thăng xấp xải bay vào. Tôi quay súng ngắm đầu máy bay bắn liền 2 điểm xạ, 2 quả rốc két từ máy bay kịp phóng xuống nổ sát bờ cộng sự. Chiếc máy bay phừng lên đám lửa theo đà lao xuống sông. Còn 3 chiếc trực thăng không dám đến gần, lởn vởn từ xa lấy đà phóng rốc két vào trận địa.

Quân Mỹ lại xông lên. Chúng tôi tiếp tục chiến đấu gây tổn thất nhiều cho địch. Trên đường 14, một Tiểu đoàn xe tăng hơn 20 chiếc cùng một Tiểu đoàn lính dù tiến lên. Tiếng xe tăng gầm rú, tiếng súng máy, tiếng đạn pháo trên xe nổ tưởng trời long đất sập.

Chúng tôi liệu sức thấy không thể trụ nổi, Đại đội phó Quần hội ý với Chính trị viên Quang lệnh cho các Trung đội rút lui. Chúng tôi tháo súng lùi dần vào khe suối trong rừng. Lúc này là 16 giờ chiều 06/7/1970, quân Mỹ không dám tiến gọi bom bắn pháo đến 3 ngày sau mới dứt.

*

Đêm 06/7/1970, lúc 20 giờ, chúng tôi có lệnh phải rời khỏi khu chiến. Nhọc mệt, vất vả, mò mẫm cả đêm mới lên được đỉnh cao điểm 650 thì những trận bom B52 đổ xuống kéo dài dãy núi khu tập kết Bến Dàng.

Từ đỉnh 650 đối diện với Hòn Sai đường chim bay 700m, 3 cụm hỏa lực cối 82, DKZ75, súng 12 ly 7. Chúng tôi đặt súng 12 ly 7 ở cửa hang cao điểm 650 cách một thung lũng sâu. Quân Mỹ trên Hòn Sai có 1 Đại đội lính dù, 1 Trung đội hỏa lực.

Mỗi khi trực thăng chở nước tắm đến, chờ chúng ra tắm đông, trực thăng từ trên cao tưới xuống. Nhìn ống nhòm thấy quân Mỹ xát đầy xà phòng vào người. Tôi nhằm téc nước treo dưới bụng máy bay bắn thủng nhiều chỗ, nước chảy xối xả; bắn liên tiếp, máy bay trúng đạn lao xuống khe, trơ lại bọn Mỹ người đầy xà phòng chim cu thỗn thện, bị thêm mấy quả cối 82 bỏ chạy.

Ngày 10/7/1970, máy bay trực thăng chở 20 gái điếm phục vụ lính Mỹ đến không dám đỗ, mà thả thang dây từ trên cao 30m xuống. Tụi con gái đang lòng thòng 5 đứa đu dây, tôi bắn liên tiếp, máy bay tha chạy nhũng nhẵng, 2 đứa sợ quá tuột tay rơi xuống rừng còn 3 đứa bám chặt mặc cho máy bay tha về Đà Nẵng.

Hôm sau 11/7/1970, chúng tôi tiếp tục bắn tỉa quân Mỹ bằng súng 12 ly 7 và Đại liên. Cối 82 của Đại đội bắn cầm canh khiến quân Mỹ ngày đêm không dám ra khỏi hầm.

5 giờ sáng 15/7/1970, máy bay B52 rải bom lên đỉnh 650; tiếp đến pháo ở các trận địa Thượng Đức, Động Hà Sống bắn lên cao điểm 650 rồi trực thăng, phản lực đánh phá. 11 giờ trưa và 17 giờ chiều cùng ngày, máy bay B52 lại rải bom lên cao điểm 650. Chúng cứ lần lượt như thế đánh phá suốt ngày đêm. Quân Mỹ ở Hòn Sai lúc này đi lại tự do; mỗi khi có hỏa lực đánh xuống cao điểm 650 thì chúng ra xem vỗ tay, reo hò cổ vũ; nước tắm được chở lên, gái phò được đem đến.

Chúng tôi bám trụ ở đây tất cả 17 ngày, cây rừng xơ xác, đất đá xới nhào; lương thực hết, rau rừng không kiếm được; Trung đội phó Hoàn lấy được bó măng giang; Liệm và Vinh cho vào ăng gô muối mới từ sáng đến trưa đã ăn, hăng và đắng quá vẫn cứ nuốt.

13 giờ chiều 23/7/1970, truyền đạt của Trung đoàn đến truyền lệnh: Đêm nay đặc công Quân khu sẽ tập kích Hòn Sai không bắn hỏa lực. 2 giờ đêm rạng ngày 24 bên cao điểm Hòn Sai lóe lửa, chớp liên tục, tiếng lựu đạn, thủ pháo nổ liên chi không một tiếng súng. 10 phút sau trận địa im bặt, chiến trường vắng lặng đến ghê người. Một Đại đội tăng cường của Mỹ bị tiêu diệt, chỉ sót đúng một tên chạy xuống rừng.

Sáng 24/7/1970, Trung đội Phó Hoàn, A phó Lương và tôi tìm đường đến Hòn Sai thu lượm chiến lợi phẩm. Tôi sục vào 1 hầm ở hàng rào ngoài thấy tên Mỹ trốn ở đó, tôi chĩa súng AR15, hô to:

- Rây – gio - hen! (giơ tay lên)!

Tên Mỹ trong hầm chui ra hai tay giơ khỏi đầu. Anh Hoàn trông thấy chạy lại bảo Lương lấy dây trói thật chặt, rồi tháo dày nắn tìm vũ khí trong người hắn.

Chúng tôi ra về lấy được gạo sấy, thịt hộp, 2 khẩu M79, 1 khẩu trung liên 30 Mỹ còn các loại khác không mang được. Khả năng quân Mỹ cũng sắp rút nên chúng đem gạo sấy cho vào một cái túi ni lông rồi tháo thuốc đạn đổ trộn lẫn, không biết loại đạn nào trông như hạt đỗ đen. Chúng tôi hót về, trải ni lông đổ ra chọn bới nhặt từng hạt, tối hôm ấy ăn một bữa với thịt hộp. 20 giờ tối 24/7/1970, chúng tôi thu dọn chiến trường rút về hậu cứ.

*

Ngày 2/8/1970, các xạ thủ số 1, 2, 3 ở nhà huấn luyện, số còn lại đi vận chuyển gạo và đạn.

Trong thời gian một tháng, cơ sở vật chất ổn định, khẩu phần ăn 3 bữa được 2 gạt rưỡi ca US ngô bung, sức khỏe dần hồi phục, anh em tích cực.

Lúc có gạo, ngô thì gùi 2 đến 3 chuyến ra ngoài bãi Bói bờ sông cất giấu, để hôm sau vận chuyển tiếp. Tuy đường xa, địch phục pháo bắn, lương thực vẫn là khâu chủ yếu. Tinh thần làm chủ, thương yêu nhau, hạt muối cắn đôi, miếng cơm xẻ nửa; lúc bệnh tật, thương vong tận tình cứu giúp.

Động Hà Sống nắm giữ trục đường 14 từ Đà Nẵng chạy lên; phía Tây là quận Thượng Đức; phía Đông là ấp Hòa Nha, phía Bắc là dãy núi Lâm Tây; phía nam là sông Vu Gia .bắt nguồn từ sông Bung, sông Ma Vương chảy qua Thượng Đức về xuôi. Nam sông Vu Gia là các xã Lộc Tân, Lộc Vĩnh, Đại Minh, Đại cường của Huyện Đại Lộc.

Lực lượng địch có 6 Đại đội bảo an và Dân vệ cùng với Tiểu đoàn 40 lính Cộng hòa đóng quân ở 9 địa điểm, thường xuyên đi tuần nắm tình hình Cộng Sản, phục kích, gài mìn, lục soát bắt bớ trong dân. Khi có chiến sự xảy ra thì chúng được Mỹ chi viện hoả lực. Trung đoàn 38 có nhiệm vụ “điệu hổ ly sơn”.

Ngày 06/9/1970, chúng tôi đi chiến đấu, mỗi người được ăn 2 bò rưỡi một ngày, ngô xay độn gạo. Cơm vắt, cơm đùm chúng tôi leo lên dốc Bền qua Khe Hoa đến chân dốc Gió thì quay hướng đông bắc, đi đến chân dốc Ông Thủ. Ở đây có một khu căn cứ cũ của đơn vị Trung đoàn 36, Mặt trận 4. Chúng tôi triển khai mắc võng ở các hầm hố rồi nấu cơm ăn.

Sáng 07/9/1970, đơn vị vượt dốc Ông Thủ đến phía tây của dãy núi Tràng Chổi chui vào khu rừng xanh trú ẩn nấu cơm. 17 giờ chiều cơm vắt, bình tông nhằm phía đông tiến về Tràng Chổi 3, đi trên đỉnh dông rừng Thanh Hao bạt ngàn heo hút, tốt ngập đầu.

Tối mịt thì chúng tôi quay về phía bắc, tụt xuống một cái khe đá chồng. Trời tối mịt, mưa to, sấm chớp ầm ầm. Trinh sát đưa đường lạc lối làm anh em và tôi đi vào chỗ cây cối dây leo chằng chịt, tối như bưng, người sau bám người trước, nhờ ánh chớp lần mò dưới gầm khe nước như thác đổ.

Chiếc máy bay C130 cũng không thấy lên bắn pháo sáng. Tôi lê bước tụt xuống dưới một hòn đá to. Tuấn đi sau tôi bước hụt, cả người và khẩu Trung liên từ trên cao bổ nhào đè lên người tôi, tưởng chết đi được.

Ngồi một lúc, tôi lại sờ soạng lê xuống được một đoạn nữa, đứng dậy đi bước hụt, tụt chân xuống kẽ đá. Cái tầm súng trên vai văng ra phía trước, tôi vẫn giữ được tay cầm, khuỷu tay bị trật đau quá, nhưng không dám buông vì sợ rơi vào đầu Kiền bên dưới. Lúc đi, lúc bò xuống được 2/3 dốc, tôi bước hụt cả người lẫn súng nhào xuống hang sâu, may mà ở dưới hang không có đá chỉ có nước và cát. Anh Dương thấy tôi bị rơi lần mò tìm đường xuống hỏi:

- Có sao không mày?

- Em không sao. Đau chút thôi.

- Cố lên, chắc sắp đến rồi.

Động viên nhau là vậy, chứ tôi biết còn hành quân lâu.

Nghỉ một lúc, anh Dương vác thân súng cho tôi. Lúc này mưa to nước chảy tràn suối. Chúng tôi men bờ bám cây dù dì mà đi ra. Đến cửa núi thì trời tạnh mưa. Thằng 2 thân bay đến bắn đèn dù, pháo sáng. Thật là cơ cực.

Chúng tôi vào một xóm không người ở rìa núi. Đại đội trưởng Mậu phân công: Trung đội 1 đi với Đại đội 3 của K9 đến Thôn 2 Lộc Vĩnh; Trung đội 3 đi với Đại đội 2 của K9 ở Thôn 1 Lộc Vĩnh; Trung đội 2 chúng tôi đi với K8 đến Thôn 3 Lộc Vĩnh, là hướng chủ yếu gần động Hà Sống.

Chúng tôi đến Thôn 3 trời vẫn mưa tầm tã không có một ngôi nhà để trú, quần áo ướt không thay, tắm giặt xong lại mặc người bốc hơi khói ngùn ngụt.

Chúng tôi đào xong trận địa căng ni lông để ngồi, pháo địch bắt đầu bắn thử, cầm canh suốt đêm ngày.

Chúng tôi vào mấy cái Trại của du kích gần đó trú mưa, đốt lửa sưởi và phơi quần áo. Gần bếp anh nuôi có mấy ruộng ngô của du kích. Bí thư xã đội nói:

- Các đồng chí ăn thì lấy, để vài bữa pháo bom xơi hết.

Địch đánh hơi thấy quân Bắc Việt, liền điều động các lộ quân sẵn sàng chiến đấu tiến công tiêu diệt và tăng cường thêm các hỏa lực cối 81, cối 106.7, DKZ90 bắn.

Lúc đầu chúng tôi trú ẩn trong hầm nhốt bò của dân, sau chuyển chỗ ra đầu làng phía đông đào trận địa. Trong hầm bùn nước lầy lội, tôi khoác áo mưa ngồi dưới hầm súng cùng xạ thủ số 2. Tiểu đội phó Lương và Bổng đi kiếm đu đủ, bẻ ngô đào măng.

Ngày 08/9/1970, tôi vào bếp anh nuôi nhòm vào gầm giường thấy một đống quả; tôi cầm lên xem thấy 4 tai hơi méo, chắc là quả hồng rừng, tôi nghĩ là hồng xanh lại vun vào.

Hôm sau, tôi lại bới đống quả ra xem, nắn vài quả thấy mềm bửa ra màu như lòng đỏ trứng gà. Tôi ăn thử thấy ngon, liền bốc tất vào bao cát đem ra trận địa. Mọi người ăn không biết quả gì. Đinh bảo quả Mãng Cầu, Mưu nói quả Măng Cụt, hôm sau Hòa hỏi cô du kích mới biết quả Trứng Gồ.

8 giờ 09/9/1970, chiếc 2 thân 119 thả đèn dù, bắn đạn 20 ly xuống, pháo bắn thâu đêm suốt sáng.

Rồi chiếc tàu già L19 gọi loa chiêu hồi. Rất bất ngờ, đó là tiếng kêu gọi của Thương sĩ Trung đội trưởng, Trung đội 3 Làng 3.K7, Trung đoàn 38: Hỡi anh em đồng đội Trung đoàn 38! Hiện nay tôi đã về với chính phủ Quốc gia, được bà con cô bác hân hoan chào đón những người con lầm đường lạc lối trở về. Hiện nay tôi đã có gia đình sống rất hạnh phúc, không phải nhịn đói khát, không phải chui lủi ở bụi cây xó hầm, không phải đi bắn giết người vô tội, hãy tỉnh ngộ ngay, về với chính phủ Quốc gia.

Hai chiếc F86H và 2 chiếc F18 chia làm 2 tốp vòng lại quăng bom đủ các loại, bom dù, bom chụp, bom phát, bom khoan, bom napan. Các loại pháo 105, pháo 100 pháo 75 ở các trận địa Thượng Đức, Hòa Nha cũng bắn đến. Cối 106.7; cối 81 ở bên kia sông động Hà Sống bắn sang. Những quả đạn pháo khoan, pháo đào, pháo chụp lơm, pháo đinh, pháo cay, pháo tăng tốc, pháo ghi âm; cây nhiệt đới, đại liên, rốc két bắn như mưa như gió, như bão như dông.

Một chiếc trực thăng AH56 lù lù bay vào trận địa. Tôi kéo cò súng 12 ly 7; đường đạn rất căng găm vào đầu trực thăng, nó bay vượt qua trận địa nhào sang phía bắc sông Vu Gia. Chiếc OV-10 lượn suốt buổi, lúc thì hạ thấp độ cao nghiêng ghé nhìn xuống, quanh đi quẩn lại, lúc vòng sang Thôn 4 lượn về Thôn 3, trông nó mà tức. Tôi tính hễ nó nhào xuống là bắn.

Khi chiếc máy bay trinh sát OV-10 của địch vòng từ Thôn 1 sang bất thình lình lao xuống, trong lúc quả đạn khói từ máy bay phụt ra, tôi bắn liền 2 loạt. Quả đạn khói nổ cách trận địa 30m, nó vòng lại, tôi bắn tiếp, nó hốt hoảng bay về phía Tràng Chổi rồi lượn tít lên cao không dám bén mảng.

Ngày 10/9/1970, quần áo ẩm ướt, ngày cũng như đêm, trong hầm thì nước, ra ngoài thì ăn mảnh pháo, tôi đành sùm sụp áo mưa ngồi dựa hầm ngủ. Muỗi nhiều như trấu, dĩn cắn khắp người.

Có tới 6 chiếc phản lực chia làm 3 tốp, 2 chiếc A1 đánh vào Thôn 2 Lộc Vĩnh, 2 chiếc A4 đánh vào Thôn 1 Lộc Vĩnh còn 2 chiếc F5 và F8 đánh phá, ném bom vào Thôn 3 Lộc Vĩnh.

Màn trời chiếu đất, địa ngục trần gian, máy bay bổ nhào tôi bắn lên, 4 lần bom nổ xung quanh trận địa. Một quả bom bi rơi xuống cộng sự súng 12 ly 7, nổ vướng ụ đất giữ chân súng nên không hề gì. Một chiếc đánh hết bom vòng lại bổ nhào, bắn súng 12 ly 7 xuống trận địa cũng là lúc tôi bóp cò súng 12 ly 7 bắn lên, đạn trên bắn xuống. Một viên đạn choang vào hộp tiếp đạn 12 ly 7 đánh vèo một cái sượt mang tai tôi. Nhưng chiếc F8 cũng đã trúng đạn.

2 giờ đêm rạng 16/9/1970, K8 được tăng cường 1 Đại đội hỏa lực của Mặt trận 4 đánh vào động Hà Sống. Công binh không mở được cửa, quân ngụy trong đồn phản kích đánh ra, quân ta thương vong rút về Thôn 3 Lộc Vĩnh.

Địch tăng cường mặt đất và trên không; lực lượng chủ yếu là quân Mỹ, Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 3, nhằm đẩy quân ta ra khỏi khu chiến. Máy bay trinh sát OV-10, L19, máy bay phản lực các loại, máy bay trực thăng tàu gáo đông như chuồn chuồn, u u i i đủ loại.

Bom pháo dã xuống cả ngày lẫn đêm; thằng C2 thân 119 có mặt suốt ngày đêm; Pháo sáng, đạn 20 ly bắn ra tưởng như không dứt. Tất cả thần chết đều dình dập đổ xuống, căng thẳng ác liệt; đánh nát Thôn 3 Lộc Vĩnh; san bằng bình địa Thôn 2; Làm cỏ Thôn 1.

Hầm sập lại sửa sửa, rồi lại sập. Một quả pháo trúng hầm làm hy sinh y tá, anh nuôi, quân giới; mấy ngày chúng tôi không nấu được cơm, toàn phải nhai gạo sống và ngô xay.

Ngày 19/9/1970, phi pháo vẫn như thường lệ. Gần trưa lúc 10 giờ, chiếc trực thăng AH1G vòng lại bắn đạn 7,62 ly một tràng dài dằng dặc, vọt lên cao xấp xải bay lại. Tôi từ trong hầm chui ra vớ súng máy 12 ly 7 kéo cò 2 loạt dài, chiếc máy bay nhào qua đầu nghe xầm một tiếng, rồi khói lửa đùn lên ở cuối làng…

Pháo địch ở các trận địa Thượng Đức, Hòa Nha, núi Lở, Hà Sống bắn đến, đạn nổ tràn lan trên mặt đất. Những quả pháo khoan rơi xuống nghe thụt một tiếng tưởng như quả đất lung lay.

11 giờ ngày 19/9/1970, tiếng động cơ xe tăng gầm rú, một Tiểu đoàn thiết giáp chia làm 3 mũi tiến vào Thôn 3 cùng với Lữ đoàn thủy quân lục chiến số 3 thuộc Sư đoàn thủy quân lục chiếc số 3.

Một Đại đội xe tăng 12 chiếc M113 cũng dàn hàng ngang tiến vào Thôn 3 cùng với 2 Tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 1 và số 2 từ hướng Đông bắc và hướng Bắc, chia làm 2 mũi vừa đi vừa bắn. Cách 800m hỏa lực xe tăng đã bắn; bờ ghềnh, bờ mương, ụ đất, chỗ nào nghi ngờ đều bật lên bằng hết.

Cách làng 300m, thủy quân Mỹ bắn đạn M79, M72, cối 81, cối 61; đạn hóa học làm cay mắt, hắt hơi. Quân Mỹ đeo mặt nạ trông như bọn quỷ sứ dưới ẩm phủ. Tôi cùng Trung đội phó Thành, Tiểu đội trưởng Định, xạ thủ số 2 Liêm chui ra ngoài hầm đứng dưới hố bắn quan sát. Trong lúc xe tăng địch vừa đi vừa bắn, 2 phát B41 cách chỗ tôi 200m của quân K8 bắn ra cháy 1 chiếc; 1 quả đạn trượt trên mui xe; quả thứ 3 trúng làm đứt xích, chiếc xe thứ 2 quay vòng.

Hỏa lực của ta rộ lên, súng máy các loại, Đại liên, Trung liên, súng 12 ly 7, cối 82, cối 60, DK75, DK82, DK57, đạn M72, M79 súng AK, CKC ở các trận địa của ta đều bắn làm quân Mỹ ngã ngang ngã dọc. Tôi ngắm bắn xe tăng địch chỉ thấy lóe lửa, đạn thia lịa vọt ngang, vọt dọc.

Phát hiện một tên Mỹ ngồi trên xe rê súng 12 ly 7 bắn vào làng như đổ đạn, tôi liền chỉnh thước ngắm bắn tên Mỹ nhào từ trên xe xuống. Các xạ thủ Trung liên trên xe tăng địch bị tôi tiêu diệt 4 tên. Súng liên thanh của địch giảm dần chỉ còn khẩu 7ly62 kẹp nòng và pháo tăng vẫn bắn. Đạn súng máy của 2 bên bắn đi, bắn lại ngược chiều kêu chiu chíu.

Đến lúc này xe tăng của quân Mỹ đã bị ta bắn cháy 5 chiếc, những chiếc khác lùi ra xa rồi quay đầu chạy. Quân Mỹ chạy theo xe rút lui 1000m củng cố đội hình tấn công.

13 giờ 19/9/1970, quân Mỹ huy động hỏa lực tối đa, trực thăng, phản lực, cối pháo các loại bắn yểm trợ, dùng hỏa lực xe tăng, hỏa lực đi cùng bộ binh phản kích lại làm Tiểu đội phó Cát và xạ thủ Đại liên Lý Tuấn bị thương. Quân Mỹ tăng lên, đánh vào Thôn 1 là 2 Tiểu đoàn, Thôn 2 là 2 Tiểu đoàn, Thôn 3 tăng hơn 1 Tiểu đoàn nữa là 3 Tiểu đoàn. Binh 3, hỏa 7, hai bên bắn nhau đạn bay, pháo nổ, bom rơi, một trường huyết chiến.

Chúng tôi tiêu diệt quân Mỹ xác phơi nhan nhản khắp đồng. Xe tăng cháy khói đùn lên nghi ngút. Ngày hôm nay quân Mỹ tấn công 4 lần đều bị đánh lui. Trung đội tôi thương vong 5 đồng chí; súng 12 ly 7 và 7 ly 62 méo mó; Trung liên gẫy gọng, hầm hào sụt nở tanh bành.

16 giờ chiều, từng bầy trục thăng bắn hỏa tiễn theo bờ Nam sông; một chiếc trực thăng AH16 vòng lại tôi đón đầu bắn 3 loạt, chiếc máy bay loạng choạng rồi một đốm lửa bùng lên theo đà lao về phía động Hà Sống. Những chiếc khác lồng lộn vòng ra xa bắn rốc két vào trận địa.

Trời về đêm quân Mỹ rút lui, chiến trường im lặng chỉ còn chiếc C119, 2 thân bắn đèn dù. Chúng tôi ăn cơm vắt, chuẩn bị hành trang vì có lệnh rút lui. Lúc này nước lũ tràn về, trong Làng ngoài đồng mênh mông như biển. Thằng C119, 2 thân biến đâu mất, trời đất tối om. Chúng tôi chiếu thẳng hướng Tây Nam tìm đường lên danh, ì ọp vừa lội vừa bơi, đến chân núi Chàng Chổi nghỉ một lúc.

22 giờ đêm 19/9/1970, chúng tôi lên đến lưng chừng rừng nghe tiếng réo rú của 3 chiếc B52 rải bom xuống Lộc Vĩnh, nơi chiến trận vừa xảy ra. Thật là khủng khiếp. Nếu còn trụ lại, chắc sẽ không còn ai sống nổi qua trận bom ấy.

2 giờ đêm rạng ngày 20/9/1970. chúng tôi đến Tràng Chổi 3 lại đào cộng sự. Pháo tăng tốc bắn lên làm y tá Hợi hy sinh. Trời vẫn mưa, quần áo ướt lẫn với bùn đất; người ngâm nước lâu quá nhợt nhạt như người chết trôi.

Ngày 20/9/1970, trời nắng, chiếc máy bay OV-10 lượn lờ suốt buổi rồi bắn đạn khói chỉ điểm cho máy bay phản lực đánh bom. Khẩu Đại liên 7ly62 của Trung đội 1 do Tiểu đội trưởng Hải chỉ huy bắn rơi chiếc F4, rơi xuống rừng cây đổ nghe tiếng ầm à vang động.

Có 2 chiếc trực thăng UH1 và 2 chiếc trực thăng AH56 hình cá lẹp và hình cá rô lên kiểm tra khu chiến. Chúng bay ngó bên này dòm bên kia. Một chiếc quay ngoắt lại phóng liền 3 quả rốc két nổ cách cộng sự súng 12 ly 7 ba mét. Tôi nằm xuống rồi bật ngay lên, chiếc AH56 lấy đà lao đến, trục chong chóng trên lưng phang tới tấp, tôi bóp cò.

Mấy chiếc khác phát hiện có đường đạn bắn lên không dám vào gần, vòng ra xa phóng tên lửa điều khiển vào trận địa, quả đạn nổ ngay bên công sự 12 ly 7. Ngay lúc ấy một chiếc trực thăng BELL204 và chiếc cán gáo loại AH6 ào ào bay đến, cánh quạt làm dạt cỏ cây sim mua. Nó chao qua trận địa trông to bè. Tôi kịp vớ súng AK bắn liên tiếp hết băng đạn, chiếc máy bay bị cháy lao đầu sang Tràng Chổi 2.

Ngày 26/9/1970, lúc 17 giờ 30 phút có lệnh rời khỏi khu chiến. Chúng tôi đi về hướng Tây, hết địa phận Chàng Chổi, đến khu rừng bom đánh xơ xác, có chỗ còn cây xanh. Các Tiểu đội tìm hang, nghỉ ngơi tắm giặt. Cơm xong ai cũng tranh thủ mắc võng ngủ bù.

Khi chúng tôi đang đi vào “cõi thần tiên”, thì ôi thôi một trận bão bom B52 ập đến. Tiếng nổ liên chi kỳ trận, bụi rơi từ các kẽ hang xộc xuống, trong hang đá mờ đi vì khói bom B52. Trong mấy ngày ở đây, cây rừng khô ngấm nước mưa khó đun nấu, chúng tôi đi lượm bom bi chưa nổ đem về tháo lấy thuốc nổ để nấu nước. Mỗi quả bom bi cho số thuốc đủ nấu một ăng gô.

Ngày 29/9/1970, bầu trời xám xịt, lúc nào cũng âm u, mưa xuống càng nhiều thác đổ càng to, ầm ầm ì ì như có hàng trăm máy bay các loại. Chúng tôi hết chui lại trèo, vất vả lắm mới vượt qua được cánh rừng B52 rải thảm; đến khu khe Hoa suối lũ nước đầy không vượt qua được, trời tối ngủ lại căng tăng, mắc võng ăn gạo rang đợi sáng.

Ngày 30/9/1970, chúng tôi về đến hậu cứ Dốc Mực lúc 20 giờ đêm. Đèn đuốc không có, củi ướt không nhóm được lửa. Nước từ trong núi chảy ra đầy hầm, chúng tôi phải rút cọc hầm, sạp để nhóm lửa nấu ăn...

(Còn nữa)

Đ.V.H

Trái tim người lính