Nhật ký “Lính chiến” của CCB Phạm Hữu Thậm (Kỳ 25): Có Nam, có nữ là có chuyện ... yêu thương !

Ngày 10/10/1971, chúng tôi chuyển đến một đồi cọ thấp bên ngoài là đồi tranh, lội vài vạt sông thì ra đường Quán Canh; triển khai làm chỗ ở, nhà kho, bếp núc, dọn đường đi.

Ở đây đã có một Trung đội nữ thuộc Đại đội 2, Tiểu đoàn 47 Bà Thao làm nhiệm vụ lấy lương thực, mua hàng gọi là Thương nghiệp. Mấy hôm nay, bộ đội chúng tôi tư tưởng chuyển biến rõ rệt. Tự mình sửa đổi cách ăn mặc, nói năng có phần tế nhị hơn, đầu tóc được cắt, răng sạch, nhẵn râu ria, tư tưởng ngại khó cáo ốm không còn, mọi người đều muốn đi vận chuyển. Có động cơ có khác, nam nữ làm quen với nhau nhanh lắm. Họ đùn cho tôi ở nhà làm anh nuôi.

d1abc1q-1673668695.jpg
Ảnh do tác giả sưu tầm chỉ mang tính minh hoạ.

 

Trong lúc ấy thì Thuật đi học y tá về, Đại đội biên chế xuống Trung đội 2. Hàng ngày tôi nấu cơm, gánh nước, kiếm củi. Thuật đi kiếm măng tre hóa được nhiều; sẵn lương thực, thực phẩm, tôi nấu cho bộ đội ăn no.

Mới được 10 ngày sức khỏe bộ đội tăng hơn trước. Họ bắt đôi với nhau thật tình cảm. Chị quản lý bếp ăn Trung đội vận tải nữ nói:

- Từ bữa ni các anh đem tiêu chuẩn ăn hàng ngày sang đây, góp gạo nấu cơm chung với tụi eng.

Thuật mừng quá, đang nằm trên võng nhất trí liền. Tôi cũng giơ cả hai tay. Từ ấy mỗi người một việc, tôi làm nhiệm vụ gánh nước lấy củi. Thuật chuyên trị kiếm măng. Chị nuôi và quản lý nấu nướng, chia cơm. Sự “hòa hợp nam nữ” làm cho hai thứ quân khí thế rất mạnh. Mọi người ai hân hoan vui sướng, chuyện như sáo tắm, nở như ngô rang.

Y tá Thuật và chị nuôi 2 Bích rất hợp nhau, việc làm hằng ngày của 2 Bích, Thuật đều làm hộ. Cuối cùng thì Thuật đem võng đến gốc cây chỗ 2 Bích mắc ngủ.

Ngày 23/10/1971, lúc 19 giờ tối bộ đội của hai đơn vị đi công tác hết, Thuật thì nằm chỗ chị nuôi. Mình tôi mắc võng dưới 2 cây cọ gần kho gạo, súng AK để bên cạnh phì phèo điếu thuốc rê êm dịu.

Bỗng có tiếng hỏi:

- Một mình hông người tâm sự có buồn hông ăn?

- Thường thôi, lính chiến cô đơn quen rồi.

Chín Thương, cô gái Quản lý của Đại đội vận tải nữ nói:

- Đi chơi với chúng eng nha.

- Đi đâu cơ?

- Ra suối ngồi cho mát!

Tôi gật đầu rồi xách súng AK theo Chín Thương. Cách đó không xa, một con suối không rộng, nước chảy rào rào, bên bờ sỏi cát, gió mát trăng trong.

Chúng tôi ngồi một lúc chẳng ai nói gì. Tôi lấy thuốc rê vấn hút.

- Để đó, eng có thuốc nè!

Cô quản lý đưa cho tôi bao thuốc Cát Tăng, loại ngon thứ 2 thời bấy giờ (nhất Cô Táp nhị Cát Tăng).

- “Ăn” hút đi, bữa mô “eng” mua cho “ăn”, điếu thuốc là đầu câu chuyện mà.

- Ấy, đừng làm thế, ngại quá.

- Yên tâm đi, “eng cho “ăn” nè. “Ăn” bộ đội ở đơn vị mô?

- Trung đoàn 38, Mặt trận 4. Mà hỏi làm chi?

- Hỏi cho biết, “ăn” nè, từ bữa các ăn dề đây chúng “eng” dui hẳn lên. “Eng” để ý anh từ bữa tê, muốn nói chuyện mà dị òm.

- Để ý anh làm chi?

- “Eng” coi ăn hiền khô, có duyên hấp dẫn kinh nớ! Cả đơn vị chỉ có “ăn” là ngon con nhất.

- Thế quê em ở đâu?

- “Ăn” hỏi thì “eng” nói “ăn” nghe nè: Nhà “eng” ở Thôn 2, Điện Quang dưới Điện Bàn nớ.

- Có đông người không.

- Ngày trước cũng nhiều, giờ chỉ còn “eng” với bà ngoại thôi. Thời ông Diệm ba eng là Đảng viên, bị máy chém theo Luật 10-59 má eng bị thằng cha Ấp trưởng bắt làm dợ 2. Eng và chị gái ở với bà ngoại. Năm 1969, chị đi lấy chồng ở Thôn 3 Phú Duyên bên Duy Xuyên, còn eng đi theo mấy ảnh, mấy chị đi giải phóng đến nay đã 4 năm chưa dề thăm ngoại. Ăn bộ đội đã có dợ chưa?

- Anh vụng về đần độn, đàn bà con gái không thích anh. Vả lại anh cũng không chơi được với phụ nữ, nên không thấy hấp dẫn.

Tôi rít một hơi thuốc say đứ đừ.

- Hứ, ăn nói sạo, đẹp trai hết mê còn nói không có cô nào.

Chín Thương ngồi nhích lại. Mùi xà phòng thơm, mùi nước hoa ngọt ngào nhẹ cả người. Tuyệt thật, một cô gái trẻ tuổi ngoài đôi mươi dấn thân vào chốn xa trường chịu gian khổ. Nhưng vẫn có thân thể cân đối, chắc chắn, khôn ngoan, tiếng nói ngọt ngào tình cảm. Cô gái đẹp, hấp dẫn làm sao.

Tôi đưa tay qua vai cô gái rồi rụt tay lại. Cô cười:

- Anh sợ rồi phải hông? Cứ làm như eng giữ dằn quá vậy, eng có cắn ai bao giờ mô.

- Ừ, anh không sợ.

Tôi cầm tay cô gái bóp kêu lách cách thì bỗng dưới suối nước tóe lên. Tôi nhìn ra thì môt con lợn độc to như con bò đang đẵm dưới suối. Tôi cầm súng AK bò đến gần, nấp sau hòn đá cách 10m ngắm con heo rừng bắn liên tiếp 5 điểm xạ.

Con lợn hộc lên định xông vào tôi, nhưng không dậy nổi, nó nằm tại vũng nước. Thuật và chị nuôi nghe tiếng súng nổ cầm súng chạy ra hỏi:

- Bắn gì vậy?

Chín Thương chỉ con heo dưới suối nói:

- Có con heo bự, giờ tính sao đây?

- Bảo chị nuôi về lấy dao ra, đêm sáng trăng ta làm thịt luôn.

Tôi và Thuật mổ phanh bụng con heo, moi nội tạng cho 2 cô gái làm, còn lại xả thịt làm 4 phần với cái sỏ. Chúng tôi khiêng về treo lên cây.

Bộ lòng heo được làm sạch sẽ, bốc tiết ở trong bụng lợn được gần 1 xoong. Có rau muống thái nhỏ, lạc rang giã mỡ vặt băm. Tất cả các thứ trộn với tiết, nhồi lòng già, còn ruột non, tim gan, quả cật luộc.

Sáng hôm sau, khoảng 9 - 10 giờ, các bộ phận về đủ cả. Nam nữ quây quần cùng ăn liên hoan.

Chị em Thương nghiệp đem ra can rượu cho cánh đàn ông.

Bắc Nam sum họp còn gì vui hơn.

Hai Nhã - cô gái Thương nghiệp cất tiếng hò:

- Hò ơ ơ hò, đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm, rượu trong bình đã ngấm hơi men.

Cậu Cống quê Thanh Hóa, một anh chàng lười hay cáo bệnh, nay có động cơ thì tỉnh như sáo tắm lên tiếng:

- Chiến trường anh ở đã quen, người yêu không có biết tìm ở đâu?

Hai Nhã lại tiếp:

- Chiến trường vào đã bấy lâu, yêu anh em biết ở đâu mà tìm.

Cống đáp:

- Em tìm thì anh cũng tìm, hôm nay hội ngộ mới nhìn mặt nhau.

Hai Nhã:

- Yêu anh chẳng được miếng trầu, hôn nhau một cái cho nhau bằng lòng.

Chỉ đợi có thế, Cống chớp được thời cơ, hớp một ngụm rượu chạy lại ôm cổ mớm rượu cho Nhã. Cô gái nuốt ừng ực, mặt đỏ gay. Cống buông ra reo to:

- Hai đơn vị chứng kiến nhé. Hai nhã đã uống rượu hứa hôn với tôi rồi đó.

Nhã xua tay, vừa cười vừa nói lại:

- Còn lâu, đừng tưởng bở nhé!

Sau bữa ăn, Trung đội trưởng Thành nói với chị Bảy Trung đội trưởng nữ:

- Con heo này có tới 2 tạ, chúng ta ăn thì cũng hết, song cũng nghĩ tới anh em ở hậu cứ.

Vậy là chúng tôi chia cho mỗi đơn vị cho người đem về cho Đại đội chừng 30kg, còn da, giẻ xương và 2 đùi để lại cho anh chị em đi gùi. Hóa Trung đội phó cử Liệm và Thân đem thịt về tuyến sau còn tất cả anh chị em cả 2 đơn vị đêm nay nghỉ không đi đồng bằng.

25/10/1971, 17 giờ tối đơn vị lại đi đồng bằng, ở lại Trạm chỉ còn bộ phận bếp núc. Về khuya, con chin kêu gióng một, tắc kè kêu gióng 2, núi rừng vắng lặng. Đột nhiên vài chục quả pháo từ Đông Sơn bắn lên nổ đanh quá.

Chín Thương không kịp rúc hầm nằm đè nên tôi.

- Eng sợ ăn vương mảnh pháo mới che đỡ cho ăn nè.

- Ừ mặc cho nó bắn, có em che đỡ cho, anh chết cũng cam lòng.

*

Ngày 27/10/1971, Chín Thương bảo tôi:

- Chiều nay anh đi vùng đông về thăm ngoại với em được không?

- Anh sợ lắm, người miền Bắc xuống vùng địch ú ớ là toi mạng liền.

- Không hề chi, em thuộc đường mà. Có anh đi cùng, em vững tâm hơn.

- Cũng được, nhưng anh phải hỏi Trung đội đã.

Trung đội trưởng Thành đồng ý và dặn đi phải hết sức cảnh giác, bí mật trở về an toàn không để xảy ra điều gì đáng tiếc.

17 giờ tối, chúng tôi nai nịt gọn gàng dây lưng, lựu đạn mỗi người 6 quả. Tôi mang súng AR15, Chín Thương đeo súng Các Bin, mỗi người khoác một dây đạn 8 băng, cơm vắt, ni lông đi mưa.

Chúng tôi theo bộ phận đi lấy gạo đến Thôn 1, Lộc Sơn thì bơi sông Thu Bồn sang Sơn Phú qua chợ Mỹ Lược, đến Thôn 7 Sơn Trường thì tách khỏi bộ phận đi lấy lương thực, nhằm hướng đông đi dọc phía Nam sông Thu Bồn xuống phía Hạ Lưu đến gần câu Kỳ Nam.

Còn cách khoảng vài trăm mét, Chín Thương bảo cởi đồ bọc trong ni lông bơi sang bờ Bắc. Đến bãi sông dân trồng dưa hấu, Chín Thương hái một quả, rồi rút dao găm bổ đưa cho tôi ăn và dặn:

- Anh cứ ngồi đây đợi chút. Em đi dò đường xem sao rồi về ngay.

Chín Thương xách súng đi về phía Bắc, gần một giờ sau mới quay lại bảo: Đi thôi, gần Làng rồi. Còn cách đường cái quan chừng 100m, Chín Thương ấn tôi nằm xuống ruộng dưa. Nhìn lên đường bộ, một đoàn người đi thành hàng 1, chừng vài chục tên chắc là quân bảo an. Mỹ ngụy ít đi đêm lắm. Chúng đi về hướng Thôn 5 Phú Duyên.

Đi thôi! Chín Thương vượt đường cái quan, tôi bám sát phía sau đi tắt cánh ruộng đến chân tre Thôn 2 Điện Quang.

Chín Thương lại bảo tôi ngồi đợi, em đi trước xem sao rồi lủi vào vườn cây. Nửa giờ sau Chín Thương mới quay lại bảo đi tiếp.

Tôi lom khom xách súng, vừa đi vừa quan sát nghe ngóng. Đến một ngôi nhà gỗ 5 gian 2 trái bồ câu, lợp ngói mũi, sân gạch vuông, 3 gian bếp, khu vườn rộng rợp bóng cây ăn quả. Hai người đàn bà đứng đợi ở sân. Một phụ nữ lên tiếng:

- Tôi là Bảy Lanh. Vô trỏng luôn!

Chúng tôi vào nhà. Bảy Lanh đóng cửa nói nhỏ:

- Có gì thoát ra cửa sau nghe.

Ngoại của Chín Thương đã ngoài 70 tuổi, đang ngồi trên chiếc sập gỗ têm trầu ăn. Tôi cúi đầu chào bà, rồi nhẹ nhàng đứng ra một góc quan sát.

Chín Thương ôm lấy ngoại bảo:

- Con nhớ ngoại hung nớ!

- Đi miết đi hoài, nhớ chi bà già kia chứ!

Bảy Lanh nhìn tôi hỏi:

- Anh bộ đội cùng đơn vị Chín Thương à?

Tôi gật đầu:

- Dạ.

- Chắc tôi còn kém tuổi anh nữa à. Năm nay bao nhiêu tuổi?

- Dạ, hai bảy ạ.

- Em nhỏ tuổi hơn rồi. Vậy mà trông anh trẻ hung, các cô gái miền Trung chết mệt, đã có ai chưa?

- Bộ đội nay đây mai đó, vô gia cư ai còn để ý đến kia chứ.

- Giả bộ, anh quơ tay trái cũng mệt nghỉ. Bị con Chín xỏ mũi từ bao giờ?

- Đâu có.

- Thôi đi, nhìn bộ dạng con Chín là biết liền. Giấu diếm làm chi cho mệt.

Bà ngoại Chín Thương nhìn Bảy bảo:

- Còn gì lấy ra cho tụi hắn ăn.

Bảy Lanh “dạ” rồi đem mấy đĩa bánh xèo nhân ốc nhồi cuốn rau sống, bánh đa nhúng nước. Ăn xong, tôi thấy mệt mỏi ngồi ngủ gà. Ngoại Chín Thương bảo:

- Đưa hắn ra hầm kín đáo cho hắn ngủ, kẻo ở đây họa phúc không lường, xảy ra thì tan nát cả.

Tôi mang gùi, xách súng theo Bảy Lanh còn Chín Thương thì ngủ với bà ngoại. Bảy Lanh dẫn tôi đi lối cửa sau qua khu vườn cây chừng 100m, đến bờ lũy tre phía ngoài là con kênh.

Bảy Lanh chui vào bới lá khô xì xục một lúc rồi quay ra nói:

- Lại đây anh hai, lẹ lên!

Tôi lại gần cửa hầm lá, còn chần chừ, thì Bảy Lanh giục:

- Anh xuống đi lẹ lên, đưa chân xuống trước, em chuyển đồ cho.

Vừa nói, Bẩy Lanh cũng tụt xuống theo:

- Ban đêm không đậy nắp hầm, có động vọt lên cho lẹ.

- Có rắn không?

- Có thì biết liền à.

Bảy Lanh kiểm tra lại lần nữa. Trong hầm tối như mực. Cô sờ soạng gì đó rồi mới châm lửa vào cái đèn cầy. Tôi nhìn rõ mọi vật bên trong có: thùng Đại liên để đi cầu, có bi đông nhựa để đi tiểu, mấy thùng gạo rang nước uống dự trữ. Nền hầm lát ván phẳng phiu, đủ chỗ cho 3 người nằm. Bảy Lanh lấy giẻ lau ván, rồi xếp đồ vào góc bảo tôi:

- Anh mệt nằm đi nghỉ đi, để em ngồi đây cảnh giới nghe ngóng động tĩnh cho.

Tôi xem đồng hồ, lúc này là 2 giờ đêm rạng ngày 28/10/1971.

Chà! Khoan khoái. Đi suốt ngày đêm, giờ mới ngả mình dễ chịu làm sao.

Rồi tôi lấy thuốc hút, thuốc ngấm đến đâu giảm mỏi mệt đến đó.

Bảy Lanh hỏi:

- Anh hai à, đi bộ đội lâu chưa?

- Được bốn năm rồi.

- Anh có thường nhận được tin gì ở quê không?

- Biệt vô âm tín.

- Về đơn vị Chín Thương khi nào vậy?

- Mới đây thôi.

- Con nhỏ ngoan hung đó. Ai cũng quý hắn nghe, được người được nết. Anh trai nào tốt phước, có được Chín Thương hạnh phúc cả đời.

- Chắc tôi không có phước ấy.

- Có khi “chấm mút” rồi cũng nên. Cô cậu không rời nhau một bước khác gì sam đôi. Mà quê anh bộ đội ở mô?

- Ở Hải Dương chị Bảy à.

- Em nhỏ tuổi hơn, anh Hai đừng kêu chị nữa. Nghe đài Hà Nội bảo Hải Dương kết nghĩa với Phú Yên, thế sao Hải Dương ở Bắc Bộ lại kết nghĩa với Nam Khu 5 được?

Tôi đã ngủ, mặc cho cô gái nói một mình những gì sau đó không nhớ nữa…

(Còn nữa)

Trái tim người lính