Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (Kỳ 19)

Trân trọng giới thiệu tiếp "Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử" của PGS TS Cao Văn Liên do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành.

 Kỳ 19  

 IX.  QUỐC HIỆU VIỆT NAM THỜI NGUYỄN (1802-1858).

Quang Trung Đại phá quân Xâm lược Thanh

Do vua Lê Chiêu thống cầu viện, vốn có dã tâm xâm lược nước ta,  vua Càn Long nhà Thanh huy động 29 vạn quân chiến đấu,  60 vạn dân binh chia làm 4 đạo tiến vào xâm lược nước ta. Đạo quân chủ lực do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy gồm 20 vạn tiến vào Thăng Long ngày 16-12-1788.  Bằng một cuộc hành quân thần tốc từ Phú Xuân ra Tam Điệp.  Từ Tam Điệp Vua Quang Trung mở cuộc tấn công sấm sét,  chỉ 5 ngày từ 30 tháng 12 đến 5 tháng giêng âm lịch Kỷ Dậu (1789), Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạnh quân Thanh  trong chiến dịch Ngọc Hồi- Thăng Long.  Chiến dịch này đã đè bẹp ý chí xâm lược của nhà Thanh,  kết thúc vĩnh viễn sự xâm lược của phong kiến Trung Quốc đối với nước ta. 

b1-images2262872-ngochoi1-1685087170.jpg

Tranh minh họa: Ngày 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), người anh hùng dân tộc áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ dẫn đầu đoàn quân bách chiến bách thắng giải phóng kinh thành Thăng Long sau khi đập tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh. Nguồn: Internet.

 

         Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài mà còn là nhà chính trị tài năng. Sau khi lật đổ các tập đoàn phong kiến Nguyễn-Trịnh,  lập lại nền thống nhất đất nước,  đánh bại quan xâm lược Xiêm-Thanh bảo vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ.  Vua Quang Trung bắt tay vào xây dựng đất nước bằng những chính sách cải cách kinh tế,  văn hóa,  xã hội.  Nhà vua  khuyến khích phát triển công-nông nghiệp,  thương nghiệp,  đưa chữ Nôm (Nam) thành chữ chính thức của nhà nước,  chấn chính kỷ cương pháp luật.  Về quân sự, Quang Trung chuẩn bị một kế hoạch tấn công tiêu diệt Nguyễn Ánh.  Đáng tiếc năm 1792, Quang Trung qua đời đột ngột ở tuổi 40 làm cho mọi cải cách của vua Quang Trung còn dang giở.

 Qua các triều đại Lê Sơ, Lê Trung Hưng, Trịnh, Mạc, chúa Nguyễn, Tây Sơn không triều đại nào đặt quốc hiệu mới, đều thừa nhân Quốc Hiệu Đại Việt.

2. Nội  chiến  giữa  Tây Sơn và  Nguyễn  Ánh -Vương triều  Tây Sơn sụp  đổ (1792-1802)

 Sau khi giành thắng lợi trên toàn quốc, do hoạt động trên những địa bàn khác nhau mà ba anh em Tây Sơn cuối cùng đã cai quản ba vùng khác nhau. Từ Bình Thuận đến phía bắc Quãng Ngãi thuộc phạm vi thế lực Nguyễn Nhạc, thủ phủ là thành Qui Nhơn, phía nam Bình Thuận trở vào là toàn bộ vùng đồng bằng Nam Bộ gọi chung là Gia Định do Nguyễn Lữ cai quản, thủ phủ là thành Gia Định (Sài Gòn). Từ Quảng Nam trở ra đến hết miền Băc thuộc chính quyền của vua Quang Trung với kinh đô Phú Xuân. Do sự bất tài của Nguyễn Lữ nên miền đất chiến lược Gia Định không được Tây Sơn tổ chức cai trị và bảo vệ chặt chẽ nên đã lọt vào tay Nguyễn Ánh tháng 8 năm 1788. Trên mảnh đất chiến lược này, Nguyễn Ánh ra sức phát triển kinh tế và xây dựng lực lượng,  đặt quan hệ với các thế lực thực dân bên ngoài, đặc biệt với thực dân Pháp.

   Sau khi đứng chân vững chắc ở Gia Định, trước năm 1792 Nguyễn Ánh bắt đầu mở cuộc tấn công ra Qui Nhơn và các vùng khác của chính quyền Tây Sơn theo chiến thuật “Tằm ăn lá dâu” và theo “mùa gió nồm”, “Gặp nồm thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính đủ mặt, khi về thì tản ra đồng ruộng”.

Sự lớn mạnh và những cuộc tấn công của lực lượng Nguyễn Ánh trực tiếp đe dọa sự tồn tại của vương triều Tây Sơn. Chính Vua Quang Trung đã nhìn thấy hiểm họa đó.  Ông coi lực lượng phản động của Nguyễn Ánh là “Quốc thù”. Sau khi chiến thắng quân Thanh ở Bắc Hà, khi về Phú Xuân Nguyễn Huệ ra sức chuẩn bị lực lượng và vạch kế hoạch tấn công tiêu diệt Nguyễn Ánh. Theo kế hoạch cuộc tấn công lần này của quân đội Tây Sơn phối hợp bộ binh với thuỷ binh. Thuỷ binh có nhiệm vụ khép chặt các cửa sông không cho Nguyễn Ánh chạy thoát ra các đảo như những lần trước. Kế hoạch đó thể hiện quyết tâm của Quang Trung kiên quyết tiêu diệt, không để Nguyễn Ánh chạy thóat trong chiến dịch Gia Định sắp tới. Nhưng kế hoạch chưa kịp thực hiện thì Quang Trung đã đột ngột từ trần năm 1792. Cái chết của Vua Quang Trung đã ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ phong trào Tây Sơn và cuộc đối đầu giữa Tây Sơn theo chiều hướng có lợi cho Nguyễn Ánh. Nguyễn Quang Toản lên ngôi khi mới 15 tuổi. Toàn bộ quyền hành lọt vào tay cậu nhà vua là Thái sư giám quốc Bùi Đắc Tuyên. Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền, sát hại, giáng chức những đại thần không ăn cánh. Tuyên bắt đi đày Trần Văn Kỷ, giết hại Đại đô đốc Ngô Văn Sở, làm cho triều đình Tây Sơn nghiêng ngửa lục đục. Trước tình hình đó, năm 1795 Vũ Văn Dũng phải giết Bùi Đắc Tuyên và phe cánh, chính quyền Tây Sơn mới tạm thời được củng cố.

           Sau khi đánh chiếm Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, năm 1793 quân Nguyễn Ánh bao vây thành Qui Nhơn. Nguyễn Nhạc nguy cấp phải viết thư cầu cứu Nguyễn Quang Toản. Toản sai các tướng Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn. . .  đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi, 30 thuyền chiến cứu viện Qui Nhơn. Nhưng sau khi cứu được Qui Nhơn, các tướng Tây Sơn của Cảnh Thịnh lại chiếm toàn bộ đất đai của Nhạc. Nhạc uất hận mà chết. Con Nhạc là Bảo chỉ còn được một huyện Phù Ly. Bảo muốn hàng Nguyễn Ánh, bị Quang Toản phát hiện bắt uống thuốc độc chết.

          Năm 1799 quân Nguyễn Ánh chiếm được Qui Nhơn đổi thành trấn Bình Định rồi giao cho Võ Tánh và Ngô Tùng Chu giữ thành. Từ năm 1799 đến năm 1801, Đại đô đốc Tây Sơn Vũ Văn Dũng, Bùi Hữu Hiếu cùng với Thiếu phó Trần Quang Diệu và nhiều tướng lĩnh khác cầm quân tác chiến dữ dội với quân Nguyễn Ánh ở Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Dưới sự chỉ huy của Vũ Văn Dũng, quân Tây Sơn đã vây hãm Qui Nhơn 14 tháng ròng, bức các tướng lĩnh cao cấp của Nguyễn Ánh như Võ Tánh, Ngô Tùng Chu phải tự sát. Quân Tây Sơn chiếm lại thành Qui Nhơn.

          Năm 1801, Nguyễn Ánh đem lực lượng tấn công kinh thành Phú Xuân. Phú Xuân bị quân Nguyễn Ánh chiếm. Vua Cảnh Thịnh phải chạy ra Bắc Hà huy động quân đội ở các trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc và quân Thanh- Nghệ chống chọi với quân Nguyễn Ánh. Mặt trận chính diễn ra ở vùng Nhật Lệ (Quảng Bình), Trấn Dinh (Nghệ An) và Thanh Hoá. Tháng 1 năm 1802 tình hình quân đội Tây Sơn ở mặt trận này hết sức nguy ngập. Nữ tướng Bùi Thị Xuân của Tây Sơn chỉ huy 5.000 quân cùng hàng vạn quân của vua Cảnh Thịnh chống trả quyết liệt cuộc tấn công của Nguyễn Ánh có kết quả.  Đội quân của Bùi Thị Xuân đã làm cho quân Nguyễn Ánh khiếp sợ. Nhưng trong giờ phút quyết định nhất của trận đánh, vua Cảnh Thịnh hèn nhát bỏ mặt trận rút lui làm cho mặt trận Nghệ An tan vỡ. Tháng 3 năm 1802 Trấn Dinh (Nghệ An) lọt vào tay quân Nguyễn Ánh. Trần Quang Diệu và Vũ văn Dũng đem quân ra cứu nhưng không kịp, đại cục đã tan vỡ. Thiếu phó Trần Quang Diệu, vợ là Bùi Thị Xuân và con gái bị quân Nguyễn bắt ở Nghệ An và bị hành hình một cách thảm khốc.

         Cùng thời gian đó tướng Tây Sơn - Bình đồng tướng quân Đặng Xuân Bảo cầm quân cản bước tiến của quân Nguyễn ở Thanh Hoá nhưng thất bại.  Đô đốc Đặng Xuân Bảo bị bắt.  Ông nhịn ăn vài ngày rồi chết.  Đại đô đốc Vũ Văn Dũng và Bùi Hữu Hiếu phải chạy về Nông Cống Thanh Hóa. Quân Nguyễn tiếp tục tấn công ra Bắc Hà. Ngày 10 tháng 6 năm 1802 Nguyễn Ánh chiếm được Thăng Long. Vua Cảnh Thịnh cùng em là Nguyễn Quang Thuỳ chạy về Kinh Bắc thì bị bọn thổ hào ở đây bắt nộp cho Nguyễn Ánh và sau đó bị Ánh hành hình. Mùa đông năm 1802 chính quyền Tây Sơn hoàn toàn sụp đổ. Một vương triều mới được thiết lập: Vương Triều Nguyễn.

(Còn nữa)

CVL